XH-Phạm Phú Thứ
ĐẠI THẦN PHẠM PHÚ THỨ
(1821-1882)
(Ngũ độ thanh)
Giao hòa mọi chốn chẳng từ nan
Tiến Sĩ tài danh ở Điện Bàn
Chủ động cho đào sông Ái Nghĩa (1)
Đi đầu chống lũ huyện Bình Giang (2)
Trình văn sửa đổi vì công nghiệp (3)
Bãi chức làm nông chỉ luận bàn (4)
Phát chẩn dân nghèo trong lũ lụt
Danh thần đức độ thuở làm quan
Lê Tấn Thiện (23 / 09 / 2017)
GC: Cụ Phạm Phú Thứ tên thật là Phạm Hào khi đỗ Tiến Sĩ
được vua Thiệu Trị đổi là Phú Thứ, một vị đại thần triều Nguyễn có những canh tân
cho đất nước. (1) Ông có công đào rộng sông Ái Nghĩa (huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam)
và chống lũ tràn đê ở Bình Giang (Hải Dương) (2). Sau khi cùng cụ Phan Thanh Giản
đi sứ sang Pháp về ông dâng lên vua Tự Đức những cải cách về nông, công nghiệp
nhưng bất thành (3) & (4).
Thấy dân chúng đói khổ ông trích 5 vạn phương gạo để cứu tế nhân dân tỉnh Hưng Yên.
Họa: Phó Sứ Phạm Phú Thứ
(nđt)
Tiến sĩ danh lừng chẳng ngại nan
Làng ông trú ngụ ở Đông Bàn
Đào sâu mạch nước Xuân Đài thổ*
Mở rộng sông ngòi Ái Nghĩa giang
Ghét kẻ luồn trôn phường bợ đỡ
Thù Tây giáng họa lũ tham tàn
Trung thần Phạm Thứ** còn lưu mãi
Sứ Giả sang chầu rạng rỡ quan
Đoàn Ngọc Nam
*Đào hồ dựng xe trâu lấy nước tưới ruộng.
*Phó Sứ Phạm Phú Thứ.
Họa: Tổng Đốc Hoàng Diệu
(1829-1882)
Vì dân chẳng ngại những gian nan,
Tổng Đốc Hà thành giữ địa bàn.
Quân Pháp lăm le thu đất Bắc,
Triều đình lo sợ mất Hương Giang.
Cụ Hoàng tuẫn tiết cùng sông núi,
Đất nước còn đâu vững thạch bàn.
Diên Phước, Xuân Đài đau xót quá,
Ngàn năm tạc dạ vị minh quan…
Đoàn Thị Dưỡng
Họa: Ngài Phạm Phú Thứ
(nđt)
Kẻ sĩ đa tài biết trị nan
Từng đem quốc sự xẻ chia bàn
Anh hùng dẫn thủy khai rừng núi
Dũng tướng danh lừng mở lộ giang
Quảng Ngãi an bình thôi giặc cướp
Thành đô thoả mãn hết tham tàn
Vì dân tuẫn tiết chu toàn phận
Cả nước đau lòng tiễn biệt quan
Văn Ngọc
TRE LÀNG
Giữ được bờ bao nhớ phải trồng
Cây nào vững tựa gốc tầm vông
Hòng khi nắng Hạ thân làm chõng
Vọng bữa ngày thu lá phủ đồng
Bão nổi sương vùi hay gió lộng
Đê tìm rễ bám mặc vùng nông
Đời tre bảo bọc cơ nguồn sống
Để mãi làng quê trọn giấc nồng
Phạm viết Ánh
Họa: Cây Tre Hữu Dụng
Mùa đông lá rụng nhớ công trồng
Kẽo kẹt trưa hè sánh với vông
Ngọn thẳng rong trơn tra cán cuốc
Măng non xắt mỏng nấu rô đồng
Quanh năm rễ bám không chê cạn
Suốt tháng thân vươn chẳng sợ nông
Êm ái vạc giường thêm chiếu trải
Tre ngâm mọt mối ngại hôi nồng
Đoàn Ngọc Nam
Hoa: Cây Đa
Cây đa ai biết kẻ vun trồng,
Trở lại quê nhà nghĩ viển vông.
Lá vút lời ru khi hái quả,
Cành vươn tươi mát lúc làm đồng.
Vòm cao soi bóng không hề cạn,
Rễ thấp ôm thân chẳng thể nông.
Lễ hội sân đình luôn náo nhiệt,
Câu hò giọng hát thật say nồng…
Đoàn Thị Dưỡng
Họa: Đa dụng Của Tre
Lũy tre khóm trúc xứng công trồng
Thuở nọ đánh nhau với gậy vông
Đắp đập làm cừ bao vách giậu
Hứng mưa làm xối tưới vườn đồng
Bè đưa qua lối sông hồ cạn
Cầu nối đến bờ suối thác nông
Thúng lúa giỏ khoai mùa gặt hái
Võng đưa kẽo kịt giấc trưa nồng
Văn Ngọc