Văn minh lúa nước
NỀn văn minh lúa nưỚc
THỜI CỔ ĐẠI
Trần Văn Đạt, Ph.D.
Ở Việt Nam, nền văn minh lúa nước được nhắc đến rất nhiều trong sách sử, truyền thuyết dân gian là niềm tự hào dân tộc, đã xuất hiện rõ nét từ nền văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4 thiên kỷ khi người Việt cổ biết dùng các dụng cụ hoạt động nông nghiệp bằng đá mài và kim loại đồng thau để chuyển đổi nghề trồng lúa rẫy trên đất cao qua cách trồng lúa nước ở các thung lũng, đầm lầy, ven sông rạch. Vào thời Cổ Đại, họ đã có ít nhiều kinh nghiệm trị thủy để canh tác, làm ruộng nước ngập với câu chuyện Sơn tinh Thủy tinh trong thời đại Hùng Vương. Nhờ đó, sản xuất thực phẩm, nhứt là lúa gạo được dồi dào không những đủ đáp ứng đòi hỏi của các cộng đồng tập trung ở làng xã, mà còn làm cho đời sống vật chất và văn hóa cư dân Việt cổ phát triển không ngừng, một thời hưng thịnh với sự ra đời nền văn minh lúa nước nổi tiếng kéo dài đến nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ sau này.
Với thành tựu vượt bực của ngành khảo cổ học trong nước, nhiều chuyên gia liên hệ xác định thời đại Hùng Vương là thật, khởi sự từ thời sơ kỳ Đồng Thau đến sơ kỳ Sắt cách nay từ 4 000 đến 2 258 năm (qua các nền văn hóa Phùng Nguyên đến Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn), và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để thành lập quốc gia đầu tiên của Việt tộc, đó là nước Văn Lang. Tuy nhiên, theo lịch sử thời đại này chỉ có 18 đời Vua Hùng kéo dài lâu nhứt khoảng 600-700 năm tr CN; cho nên dấu móc thời gian lịch sử này có thể là thời đại hậu kỳ Hùng Vương trong khi khoảng sơ kỳ còn khiếm khuyết thông tin, nhưng các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di vật công cụ hoạt động nông nghiệp bằng đá mài và đồng thau (Hình 1).
Hình 1: Di vật văn hóa Phùng Nguyên
● Địa lý và tổ chức xã hội sơ lược: Nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương gồm có vùng Bắc Việt, bắc Trung Việt và một phần phía nam tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000 và Văn Tân và cộng sự viên, 2008) (Hình 2). Kinh đô nước Văn Lang được biết ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước. Ngưòi Việt cổ thời Hùng Vương có nguồn gốc đa tộc, mà hạt nhân của cộng đồng là người Tày-Thái cổ (Bách Việt) với sự tham gia của các nhóm tộc khác như Malayô, Môn-Khmer... thuộc tiểu chũng Mongoloid phương nam (Viện Khảo cổ học, 1999 và 2002). Nước Văn Lang có 15 bộ (bộ lạc cũ) và có tổ chức xã hội tương đối rõ ràng như Lạc Vương (vua), Lạc Hầu (văn), Lạc Tướng (võ), Quan Lang (con trai vua), Mỵ Nương (con gái vua), Bố Chính (quan lại), ở làng xã có chế độ tù trưởng và mỗi gia đình có chế độ gia tộc, gia trưởng. Người dân gọi là Lạc Dân.
Hình 2: Bản đồ nước Văn Lang từ thế kỷ VII-II tr CN (www.chungta.com)
15 Bộ tộc thời đại Hùng Vương gồm có:
- Văn Lang (Bạch Hạt, Vĩnh Yên),
- Châu Diên (Sơn Tây),
- Phúc Lộc (Sơn Tây),
- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang),
- Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng),
- Vũ Ninh (Bắc Ninh),
- Lục Hải (Lạng Sơn),
- Ninh Hải (Quảng Yên),
- Dương Tuyền (Hải Dương),
- Giao Chỉ
(Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình),
- Cửu Chân (Thanh Hóa),
- Hoài Hoan (Nghệ An),
- Cửu Dương (Hà Tỉnh),
- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị),
- Bình Văn (?).
● Đời sống văn hóa và phong tục
Cư dân thời Hùng Vương đã tập hợp sinh sống ở các xóm làng ven chân núi, sườn đồi, gò cao hay những doi đất để tránh thú dữ và ngập úng; nhưng gần với nguồn nước sông rạch, đầm hồ ven biển để thuận lợi cho hoạt động hàng ngày: vào rừng, lên nương, xuống sông, ra biển… để trồng trọt, săn bắn, chài lưới, đánh cá. Lúc bấy giờ xã hội chưa phân hóa nhiều. Họ sống trong những nhà sàn còn thô sơ, có mái cong hình thuyền và đuôi mái sát đến sàn nhà. Có cầu thang lên đặt trước nhà. Hình ảnh ngôi nhà được khắc ghi trên nhiều trống đồng và vết tích nhà sàn còn được tìm thấy ở mốt số địa điểm thuộc di chỉ Đông Sơn, gồm những cột gỗ, những dóng tre, mảng phên đan… (Lê Thái Dũng, 2017) (Hình 3).
Hình 3: Thời đại Hùng Vương
Trang phục của nam và nữ khác nhau, nam giới đóng khố, nữ giới mặc váy, cởi trần, đi chân đất. Vào dịp lễ hội, người Văn Lang ca hát, nhảy múa, hóa trang với váy xòe làm bằng lông vũ hoặc lá cây kết lại, đầu đội mũ cài bông lau hoặc mũ gắn lông chim phía trước, như thấy trên các hoa văn trống đồng. Đồ trang sức của cả nam lẫn nữ gồm có vòng đeo tai, nhẫn, hạt chuỗi, vòng đeo tay. Do đời sống sông nước, núi rừng, họ có tập tục xăm mình để tránh cá sấu, thuồng luồng kéo dài đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt; đầu tóc nam lẫn nữ cắt ngắn để dễ dàng làm việc hàng ngày, đi vào rừng sắn bắn. Họ còn búi tóc, tết tóc nhưng ít hơn. Tục lệ phổ biến của người Việt cổ còn có nhuộm răng đen, ăn trầu với tích trầu cau.
Về hôn nhân, tục ăn cơm chung của trai gái trước khi thành vợ chồng được ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái: “ … trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.” Lúc sinh sản “…con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp”. Tục giã cối (Hình 6) được khắc trên trống đồng không những là hoạt động sản xuất còn được xem là một loại nhạc cụ và hình thức giao duyên giữa nam nữ trong ngày lễ hội.
Đối với đời sống tinh thần, cư dân thời Hùng Vương có nhiều hình thức tín ngưỡng, như thờ vật tổ hay “Tô tem” (chim Lạc, rồng), sùng bái thiên nhiên (thần Mặt Trời, thần Mưa, thần Sấm, thần Chớp, thần Núi, thần Nước…), sùng bái con người (Tổ tiên, anh hùng có công với đất nước), tín ngưỡng phồn thực (mong được mùa, mong giống loài sinh sản…). Các tập tục cá biệt nêu trên giúp cho dân Việt giữ bản sắc dân tộc, không chịu khuất phục đồng hóa với kẻ thù xâm lăng từ phương Bắc.
Trong tinh thần sùng bái con người, cư dân Việt cổ thời Hùng Vương nấu gạo nếp làm cơm, xôi, hay chế biến ra bánh chưng, bánh dày để cúng tế trong các lễ hội, cúng tổ tiên vào Tết Nguyên đán. Đến nay, một số truyền thống tốt đẹp vẫn còn gìn giữ, như tục thờ cơm sống vào ngày 10 tháng 03 âm lịch để tưởng nhớ vua Hùng. Còn có tục thi nấu cơm vào dịp Tết, đặc biệt tại xã Kinh Kệ ở Lâm Thao, Phú Thọ. Về sau, cuộc thi lan rộng tới nhiều vùng, nhứt là ở đồng bằng và trung du Miền Bắc. Mỗi vùng có nghi thức lễ khác nhau, nhưng đều có ý nghĩa nhắc đến các vị thánh tổ Hùng Vương, làm nổi bật tài nấu nướng khéo léo trong gia đình và cầu may mắn sung túc nhân dịp Xuần về (Lê Thái Dũng, 2017). Hiện nay, nước ta vẫn còn nhiều lễ hội ẩm thực hàng năm được tổ chức tại một số nơi Miền Bắc, Miền Trung và Tây Nguyên, như lễ Thượng điền, Hạ điền, Gạo mới, Tết Cơm mới…
Ngoài ra, dân gian còn truyền miệng nhiều chuyện thần thoại từ đời này đến đời khác cho đến ngày nay, giúp chúng ta biết được một số khái niệm về văn hóa và tinh thần cư dân Việt cổ vào thời Cổ Đại. Chẳng hạn, truyện bánh chưng bánh dày cho biết người bấy giờ tin tưởng trời tròn đất vuông và sùng bái tổ tiên qua việc cúng bái và sản xuất nhiều lúa gạo. Truyện Sơn tinh Thủy tinh thể hiện sự phấn đấu khó khăn của con ngưới với vạn vật, ngoài ra còn nói lên vấn đề kiềm chế lũ lụt, biết làm thủy lợi trong mùa mưa tại nhiều nơi. Truyện Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng vừa cho thấy giặc Ân ngoài biên giới, tinh thần yêu nước và thời ấy cư dân đã biết dùng kim loại sắt (ngựa sắt, roi sắt). Tích Trầu cau gợi lên tình người, tình huynh đệ cao cả, cũng như cư dân biết trồng cây ăn quả, rau hoa. Truyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử nêu lên hình ảnh đầm Dạ Trạch và bãi Tự Nhiên, và chế độ mẫu hệ còn chi phối xã hội thời bấy giờ…
● Đời sống kinh tế: Vào buổi đầu thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Phùng Nguyên, hoạt động săn bắt và hái lượm vẫn còn đóng vai trò quan trọng, nhưng nghề nông, chài lưới và chăn nuôi đã tiến bộ rất nhiều. Thật vậy, trong giai đoạn đầu của nền văn hóa này, dụng cụ sản xuất bằng đá vẫn còn chiếm vị thế quan trọng, chứng minh nghề trồng lúa của người Việt cổ còn thô sơ trong những tháng ngày mới lập quốc. Sự kiện này được thể hiện qua truyền thuyết như sau:
“Ban đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang (bột báng)[1] (Hình 4), cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm… “Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng”, “…phát nương đổ rẫy. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp”. (Lĩnh Nam Chích Quái, 1960).
Hình 4: Cây Quang Lang
Đến khoảng 700 năm tr. CN, nông nghiệp chính là nghề trồng lúa nước và chài lưới được xác nhận với các hoa văn thể hiện trên nhiều trống đồng tìm thấy; ngoài ra, họ còn trồng rau củ, trầu cau, dưa hấu (sử tích), khoai đậu, trồng dâu, nuôi tằm, chăn nuôi gia súc...
(i) Nghề trồng lúa:
Trong nền văn hóa Phùng Nguyên, người Việt cổ vẫn tiếp tục làm nương rẫy truyền thống từ thời tiền sử cho đến khi có hiện tượng biển lùi xảy ra, họ tràn xuống vùng đất thấp hơn khai thác các thung lũng, đầm lầy có nước quanh năm để trồng lúa trong nền văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun và phát triển mạnh trong nền văn hóa Đông Sơn. Sau cùng, họ định cư trên các vùng đất cao, gò đồi, ven đầm lầy, sông rạch, biển và khai phá rừng rậm để trồng trọt sinh sống, như đã từng chứng kiến cuộc Nam tiến khai khẩn đất đai vĩ đại liên tục của người Việt trong 700 năm, từ thế kỷ XI đến XVIII. Theo thư tịch và các công trình khảo cổ học cho biết đến thời đại Hùng Vương, nền nông nghiệp cuốc chuyển qua nông nghiệp cày lưỡi sắt, giúp cuộc khai phá đất mới dễ dàng và hiệu quả hơn, làm tăng sản xuất nông nghiệp trong nước đặc biệt ngành trồng lúa nước.
Nền văn minh lúa nước bắt đầu buổi bình minh từ nền văn hóa Phùng Nguyên-Đồng Đậu trên đất Văn Lang và bừng sáng rực rỡ trong nền văn hóa Đông Sơn, với các khám phá khảo cổ học, như các công cụ sinh hoạt bằng đá, đồng, thau và sắt để đào, xới, chặt như rìu, lưỡi cày, cuốc; công cụ thu hoạch có lưỡi liềm, vòng hái, dao; hậu thu hoạch như thạp, vò, kho vựa, hầm gạo… Hơn nữa, trống đồng Đông Sơn còn để lại hậu thế một thông điệp lý thú và một bức tranh lịch sử sống động về nông nghiệp lúa nước, chăn nuôi, đánh cá qua các họa tiết được khắc ghi trên mặt và thân trống đồng.
Việc trồng lúa nước không phải dễ dàng như làm lúa rẫy, đòi hỏi nhiều sức lao động, trải nghiệm và lòng kiên nhẫn của cư dân, nhứt là thời kỳ khai thác các đầm lầy và đồng bằng bao phủ rừng nguyên sinh, đặc biệt khai khẩn đồng bằng sông Hồng sau này. Cư dân phải chọn một khu đất rừng nhỏ để chặt cây khai hoang sạch sẽ trước khi trồng trọt. Trên mảnh đất vừa khai phá, họ gieo hạt hoặc cấy lúa vào đầu mùa mưa, nhưng thường gặp nhiều khó khăn vì còn nhiều gốc cây dại, cỏ, lát, năng, chim, chuột và loài thú rừng khác luôn đe dọa đến cây lúa và mùa màng. Công tác bảo vệ lúa đến ngày thu hoạch rất khó khăn nên mùa màng thường gặp tình trạng bấp bênh. Tuy nhiên, qua ít năm canh tác mảnh đất trở nên thuần hơn, cư dân có nhiều kinh nghiệm hơn nên mùa màng tươi tốt hơn; đồng thời họ thu thập nhiều hiểu biết về khí hậu, đất đai, thửa ruộng, cây lúa, và môi trường xung quanh.
Do tập quán trồng lúa rẫy nhiều thế kỷ, cư dân Việt cổ ban đầu có thể trồng lúa nước theo lề lối du canh lâu đời; nghĩa là sau khi chặt cây đốt cỏ dọn đất vào mùa nắng họ gieo thẳng hạt giống trên ruộng đầm lầy đã khai phá sau vài trận mưa đầu mùa rồi chờ ngày lúa chín thu hoạch, như trồng lúa nổi ở ĐBSCL. Qua ít năm khai thác, do thói quen họ di chuyển tìm nơi khác có đất tốt hơn để trồng trọt, như từng thấy bộ lạc Bambara ở miền Tây Phi Châu (Guinea, Guinea-Bissau, Senegal...) hiện nay còn thực hành lề lối trồng lúa du canh này đối với loại ruộng ngập mặn ven biển và sông rạch. Tuy nhiên, sau nhiều năm kinh nghiệm trị thủy, hiểu rõ thổ ngơi và khí hậu địa phương cư dân Việt biết đắp đập be bờ đem nước vào ruộng từ sông rạch hoặc nước trời, lợi dụng thủy triều lên xuống để có phù sa hàng năm và chăm sóc vụ mùa chu đáo hơn; nên không còn thay đổi đất trồng nữa.
● Loại ruộng lúa: Thời bấy giờ, ruộng lúa có thể phân biệt làm 3 hạng với lề lối cách tác thích ứng riêng:
(1) Ruộng rẫy trên gò đất cao của miền trung du Bắc Việt: nông dân dùng lề lối canh tác “đao canh hỏa chủng”, nghĩa là dung dao chặt cây, phơi khô rồi dung lửa đốt trước mùa mưa, sau đó tỉa hạt;
(2) Ruộng trũng ở quanh các đầm hồ cũng có mức phì nhiêu khá tốt. Cư dân sử dụng phương pháp “thủy nậu” để cấy lúa, nghĩa là giẫm đạp cỏ xuống bùn rồi cấy lúa; và
(3) Ruộng phù sa ở ven sông rạch, chủ yếu thuộc đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả: Hạng ruộng này có đất đai phì nhiêu tốt nhứt, nhờ nước ngập hàng năm đem phù sa vào ruộng. Thường những sông này có “bờ đê” ở hai bên để tránh lũ lụt.
Đến hậu kỳ thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Gò Mun - Đông Sơn, nghề trồng lúa nước (nếp) trở nên thịnh hành và đạt nhiều tiến bộ kỹ thuật. Họ đã biết sử dụng cày bừa để xới đất, đánh bùn làm cỏ, dùng phương pháp cấy lúa để chủ động trồng trọt trong điều kiện nước ngập và khí hậu gió mùa. Công việc cấy lúa được nói đến trong Lĩnh Nam Chích Quái nêu trên: “Lạc Long Quân dạy dân cày cấy...”, “... lấy dao cày, lấy nước cấy”.
Phương pháp cấy lúa có khả năng giúp cho cây lúa có tỉ lệ sinh tồn cao hơn gieo thẳng khi mực nước lên xuống, như từng thấy kinh nghiệm trồng lúa sạ (lúa nổi) và lúa cấy một hoặc hai lần ở ĐBSCL. Vào thời kỳ này, những kinh nghiệm sống đã giúp cho nông dân hoàn chỉnh phương pháp canh tác để sản xuất lương thực nhiều hơn. Từ cách gieo sạ thẳng nông dân đã chuyển qua cách làm nương mạ vào đầu mùa mưa để cấy vào ruộng ngập nước, chủ yếu giúp cây lúa cao, lớn có khả năng chịu đựng mực nước ruộng dâng lên trong mùa mưa. Do đó, người Việt có thể biết cấy lúa vào thời mới dựng nước, cách nay ít nhất 3 000 năm.
Ngành trồng lúa nước đã trở nên chủ lực của nền nông nghiệp bản xứ. Sử Trung Quốc ghi rằng: “Ngày xưa, Giao Chỉ khi chưa chia thành quận, huyện, ruộng đất có ruộng lạc, ruộng đó theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng mà ăn nên gọi là dân lạc” (Hình 5). Như vậy, cư dân đã biết làm thủy lợi trên ruộng lúa cố định, có bờ đê ngăn giữ nước. Chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh có thể tượng trưng cho công tác đắp đê đập để ngăn ngừa lũ lụt ở Miền Bắc. An Nam chí lược có ghi chép cư dân Văn Lang “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”. Hoặc vết tích một đoạn đê cổ của thành Cổ Loa trước thời Bắc thuộc cho người ta nghĩ đến người dân tại một số vùng đã biết be bờ làm đập giữ nước, tháo nước bảo vệ cây lúa để tăng sản xuất. Nhà khảo cổ học Maspéro (1918) nghiên cứu tài liệu Trung Quốc đã xác nhận dân tộc Lạc Việt có một xã hội phát triển khá cao, họ biết làm lúa nước, làm thủy lợi, làm lúa hai vụ, biết cấy lúa... trước khi Hán tộc xâm lăng.
● Vụ lúa: Ngành trồng lúa đã trở nên thâm canh, cư dân biết làm 2 vụ mỗi năm. Sách Di vật chí cho biết thêm “Lúa ở Giao Chỉ mỗi năm trồng 2 lần, về mùa hạ và mùa đông” (Hình 5). Do đó, vào hậu kỳ thời đại Hùng Vương cư dân Việt đã biết trồng lúa 2 vụ mỗi năm khi họ có những giống lúa sớm (90-100 ngày) tương tự như giống “lúa Chiêm” để có thể trồng vụ Đông-xuân, vì các giống lúa này không có hoặc ít chịu ảnh hưởng quang cảm (số giờ ánh sáng trong ngày) nên có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm. Đến thế kỷ II sau CN, vụ Đông-xuân được gọi là vụ Chiêm vì giống lúa Chiêm được mang từ xứ Chiêm Thành để trồng ở Miền Bắc và sau đó được cư dân ưa chuộng trồng đại trà nhiều năm.
Về nguồn gốc, giống lúa này có thể được người Chiêm Thành du nhập từ Ấn Độ, nơi có hệ thống thủy lợi và nông dân làm 2 vụ lúa mỗi năm từ lâu. Nước Chiêm Thành chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa và tôn giáo Ấn Độ.
Vụ Chiêm em cấy lúa Di,
vụ Mùa lúa Dé, sớm thì Ba giăng.
Hình 5: Bút tích ruộng lạc và hai vụ lúa ở Giao Chỉ
Lúa Di, lúa Ba giăng (trăng) đều là giống lúa sớm, có ít hoặc không quang cảm được trồng trong vụ Chiêm ở Miền Bắc. Ở Miền Trung và Miền Nam, nông dân cũng canh tác 2 vụ mỗi năm với giống lúa sớm cho mùa đầu nhưng không gọi là vụ Chiêm. Vụ Chiêm được trồng từ tháng 11 đến tháng giêng, gặt tháng 5; trong khi vụ Mùa trồng tháng 6 gặt tháng 11. Ông Bùi Huy Đáp (1977 và 1980) cũng ghi nhận dân Việt biết trồng lúa hai vụ cách nay khoảng 2 000 năm lịch sử hoặc hơn ở châu thổ sông Hồng.
● Các giống lúa: Trong thời đại Hùng Vương có ít nhứt 3 loại lúa trồng ở 3 vùng sinh thái khác nhau: lúa rẫy trên đất cao, lúa thung lũng dưới chân đồi núi và lúa đất phù sa ở các đồng bằng. Mỗi loại lúa này có 2 thứ lúa tẻ còn ít phổ biến và lúa nếp rất phổ thông của cư dân từ vùng đất cao xuống đất thấp. Theo Lĩnh Nam Chích Quái, vào thời Hùng Vương, “Đất sản xuất nhiều gạo nếp”. Mỗi loại lúa có nhiều giống khác nhau. Ngoài ra, vụ Chiêm và vụ Mùa mỗi vụ cũng có nhiều giống lúa. Do đó, vào cuối thời đại Hùng Vương, Viêt Nam có trên trăm giống lúa được nông dân trồng. Ở di chỉ văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học tìm được nhiều hạt gạo cháy có hình dáng khác nhau cách nay khoảng 3 000 năm: hình bầu, tròn, dài, thon, thon dài, bầu dài, tròn ngắn... (Đào Thế Tuấn, 1988); cho biết nơi đây cư dân đã trồng nhiều giống lúa khác nhau.
● Công cụ sản xuất (Hình 6 và 7): Đến đầu thiên kỷ II trước CN, công cụ đá, chủ yếu rìu đá vẫn còn phổ biến rộng rãi trong nền văn hóa Phùng Nguyên dù kỹ thuật luyện kim đã bắt đầu. Đến giai đoạn Đồng Đậu và Gò Mun, các dụng cụ bằng đá được thay thế dần bởi dụng cụ đồng, thau, rồi công cụ sắt xuất hiện ở hậu kỳ thời đại Hùng Vương. Các chiếc rìu đá, rìu đồng được cư dân sử dụng để chặt cây, cày xới đất trồng trọt, mặc dù các nơi khác đã dùng cuốc đá từ lâu như cư dân cổ ở miền Đông Nam Bộ.
Càng về sau trong hậu kỳ thời đại Hùng Vương, các nhà khảo cổ tìm thấy lưỡi cày đồng (Hình 2) và cuốc, mai thuổng bằng sắt với số lượng lớn, trong khi các công cụ sản xuất bằng đá giảm dần. Các loại cày đồng với lưỡi hình tim và hình cánh bướm thông dụng hơn hết để cày ruộng. Các liềm đồng cũng được tìm thấy với số lượng khá lớn dùng để gặt lúa. Ngoài ra, do ngành nông nghiệp sản xuất dồi dào nên các nhà khảo cổ học mới phát hiện những chiếc vò, bình, nồi đủ loại ở Thiệu Dương, Đông Sơn; bình, âu, lọ ở Việt Khê, Đào Thịnh; những thạp đồng ở ĐàoThịnh, Đông Sơn, Việt Khê; những thố đồng ở Việt Khê, Thiệu Dương… được dùng để làm vật chứa hay tồn trữ bấy giờ (Văn Tân và những cộng sự viên, 2007). Các kho vựa cũng thường thấy khắc ghi trên nhiều trống đồng Đông Sơn.
Ngoài ra, cư dân còn trồng một số hoa màu khác như trầu cau, dưa hấu (sử tích), trồng dâu nuôi tầm, khoai, đậu,..., kết hợp với nghề chăn nuôi, đánh cá, săn bắn, nghề gốm, nghề luyện kim, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp khác... trong các làng xóm năng động.
Hình 6: Lưỡi cày bằng đồng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn (2 500-3 000 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)
Hình 7: Đồ đồng văn hóa Đông Sơn
1: Rìu bôn; 2: rìu hình chữ nhựt; 3-8: rìu xoè cân; 9: rìu xéo hình thuyền; 10,11: rìu xéo hình dao xén; 12,13: rìu xéo gót vuông; 14,15: đục; 16: dùi; 17: lưỡi câu; 18: nhíp; 19: dũa; 20: cuốc chữ U; 21: xẻng; 22: thuổng; 23: lưỡi cày (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
(ii) Nghề chăn nuôi: Cư dân Việt cổ đã biết đến nghề chăn nuôi khá lâu. Trong di chỉ Đa Bút (khoảng 6 000-5 000 năm), Theo Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (2000), cư dân Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi vì trong các di chỉ và mộ táng có những xương răng chó, lợn, trâu, bò... Tượng gà bằng đất nung được phát hiện ở di chỉ Đồng Đậu (Lê Thái Dũng, 2017). Các nhà khảo cổ tìm thấy xương trâu, lợn và suy đoán cư dân biết thuần dưỡng động vật (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Điều này chứng minh rằng người Việt biết dùng sức kéo trâu bò để làm ruộng, biết cày cấy trước thời Bắc thuộc chứ không phải như đã ghi trong sử sách Trung Quốc (Hậu Hán Thư và Thủy Kinh Chú trong Bùi Thiết, 2000) và các sách sử Việt viết theo tài liệu Trung Hoa: Thái thú Nhậm Diên dạy dân Cửu Chân cày bừa (có thể ở nơi chuyên làm nương rẫy). Có thể người Trung Hoa đem các chiếc cày, cuốc bằng sắt vào xứ Giao Chỉ và Cửu Chân vào buổi đầu Bắc thuộc (Phạm Văn Sơn, 1960) giúp cho việc làm đất ruộng mau lẹ và cày xới sâu hơn để tăng sản xuất. Tuy nhiên, dân tộc Việt đã biết sử dụng kim loại sắt vào buổi đầu lập quốc, với câu chuyện cổ tích Thánh Gióng vào đời vua Hùng Vương thứ ba, khoảng 600-700 năm trước CN.
(iii) Nghề đánh cá trong các sông rạch, ven biển đã xuất hiện lâu đời từ nền văn hóa Đa Bút-Quỳnh Văn đến Phùng Nguyên và các nền văn hóa tiếp theo. Các nhà khảo cổ học tìm thấy vỏ sò ốc, xương cá, răng cá, chì lưới, lưỡi câu, mãnh gốm có hình cá... trong nhiều di chỉ khảo cổ khai quật. Trong thời hậu kỳ Hùng Vương, đặc biệt trong nền văn hóa Đông Sơn, nghề đánh cá tiến triển mạnh hơn, cư dân biết đóng những chiếc ghe, thuyền lớn để đi trên sông, biển, được thấy trên hoa văn trống đồng Đông Sơn (Hình 8 ).
Hình 8: Ảnh chiếc thuyền trên trống đồng
Tóm lại. ngành nông nghiệp lúa nước tiến bộ nhanh vào thời đại Hùng Vương, mặc dù đòi hỏi nhiều sức lao động và óc sáng tạo so với làm nương rẫy. Đó là nhờ cư dân Việt sớm biết chăn nuôi, sử dụng sức kéo trâu bò từ nền văn hóa Đa Bút, Phùng Nguyên, có kinh nghiệm về quản lý thủy triều lên xuống, lúa bậc thang, về khí hậu hai mùa mưa nắng mỗi năm, và đặc biệt sự sáng tạo các công cụ sản xuất bằng kim loại có hiệu quả khai thác và sản xuất cao.
Trong giai đoạn hậu kỳ Đồng Thau đến sơ kỳ thời đại Sắt, dân Việt cổ đã nắm vững một số phương pháp canh tác tiến bộ của ngành làm ruộng nước và nương rẫy, nhằm khai thác đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả ở Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Đồng thời cư dân ở miền Đông Nam Bộ và và ĐBSCL cũng đã trồng lúa rẫy trên đất cao và lúa nước ở đất thấp để sinh sống với nền nông nghiệp dùng cuốc cách nay ít nhứt 4 000 năm. Song hoạt động săn bắn và hái lượm vẫn còn tồn tại, nhưng đã trở nên thứ yếu, chỉ còn thấy ở các vùng cao nguyên, đồi núi và rừng sâu.
Một cách tổng thể, vào thời đại Hùng Vương ngành sản xuất lúa gạo có 6 hiện tượng biến đổi lớn xảy ra trong nước Việt cổ, dẫn đến nền văn minh lúa nước sung túc, rỡ ràng một thời, như sau:
1) Nền nông nghiệp dùng rìu trong thời tiền và sơ sử được chuyển qua nông nghiệp dùng cuốc cày để nâng cao hiệu năng sản xuất;
2) Công cụ sản xuất bằng đồ đá mài chuyển qua công cụ sản xuất bằng đồng, thau và sắt, cộng thêm sức kéo trâu bò làm năng suất lúa từ vài chục kg lên 0,54 t/ha vào đầu Công Nguyên (Trần văn Đạt, 2010);
3) Từ nghề làm nương rẫy du canh với năng suất kém chuyển qua nghề trồng lúa nước cố định trên các vùng đất thấp rộng lớn và màu mỡ hơn;
4) Từ trồng lúa gieo thẳng trong thời tiền sử và sơ sử chuyển qua cấy lúa trong thời đại Hùng Vương để bảo đảm sản xuất nhiều thóc gạo và lâu bền. (Ngày nay ngược lại, từ cấy lúa chuyển qua gieo thẳng nhờ thuốc diệt cỏ và thiếu lực lao động ở nông thôn);
5) Cư dân di chuyển từ những hang động trên đất cao thưa thớt xuống sống tập trung ở làng ấp trên các gò đất cao, thung lũng và nhứt là đồng bằng ven sông rạch nhờ hiện tượng biển thoái cuối cùng; và
6) Người Việt cổ tăng gia sản xuất thực phẩm qua nỗ lực khai thác các đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Cả… khi dân số ngày càng thêm đông.
Tóm lại, sau Cuộc Cách Mạng Đá Mới khoảng 6 000 năm, thời đại Kim Khí ló dạng, mang luồng gió mới và năng lượng sinh hoạt đến nhân loại, nhứt là nền nông nghiệp sơ khai có thêm sức sống và nhiều sáng tạo mới để nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa nước có thêm các công cụ sản xuất tinh xảo và hữu hiệu giúp cư dân Việt cổ sản xuất nhiều lương thực; góp phần tạo ra nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng thế giới với nền văn minh lúa nước rực rỡ trong thời đại Hùng Vương. Nhưng tiếc thay góc trời phương Nam vừa ấm áp chan hòa ánh nắng ban mai thì tham vọng Bắc phương luôn rình rập kéo đến với lòng tham vô độ, đã làm cho đời sống của hơn một triệu người Việt cổ bấy giờ chìm đắm trong khốn khổ cả ngàn năm!
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bùi Huy Đáp. 1977. Lúa Việt Nam trong vùng lúa Nam và Đông Nam Châu Á. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, Tr. 248.
2. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
3. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
4. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
5. Lê Thái Dũng. 2017. Tìm hiểu văn hóa Thời Đại Hùng Vương. NXB Hồng Đức, Hà Nội, 255 tr.
6. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
7. Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.
8. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
9. Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
10. Nguyễn Khắc Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.
11. Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.
12. Trần Văn Đạt. 2010. Lịch sử trồng lúa Việt Nam. Nhà in 5-Star Printing, Nam California. 489 trang.
13. Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử - văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội. NXB Văn Học, 275 trang.
14. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.
15. Viện Khảo Cổ Học. 2002. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 519 tr.
16. Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.
[1] Cây quang lang (Arenga pinnata, họ Arecaceae) sống ở miền đồi núi, còn gọi là cây báng hay búng báng, đao rừng, dừa rừng… Tổ tiên ta đã từng lấy bột trong thân cây và củ để ăn thay cơm. Ruột thân cây chứa nhiều bột gỡ ra làm bánh ăn ngon. Cuống cụm hoa chứa nhiều nước, ngọt có thể nấu thành đường ăn hoặc cho lên men để chế rượu. Nhân hạt luộc chín ăn ngon. Ðồng bào miền núi cũng thường trồng thêm ở một số nơi để lấy bột ăn thay lương thực khi cần thiết (mỗi cây có thể cho khoảng 100kg bột). Nõn cây bóc vỏ cứng, thái nhỏ, luộc bỏ nước, dùng nấu canh ăn hay xào ăn. (https://www.ydhvn.com/lists/cay-duoc-lieu-cay-bang-bung-bang-doac-quang-lang-dao-rung-arenga-pinnata-wurmb-merr).