Huy Lữ TRẦN VĂN ĐẠT
Nguyên Chánh Chuyên gia FAO - Rome

LỊCH SỬ TRỒNG LÚA


 

Tiến Sĩ  TRẦN VĂN ĐẠT

Nguyên Chánh Chuyên Gia Lúa Gạo và

Thư Ký Điều Hành Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế

Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc, Rome, Italy

 

LỊCH SỬ TRỒNG LÚA VIỆT NAM

 

NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

 

                                           MỤC LỤC                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                             Trang      

LỜI GIỚI THIỆU...................................................................        9

LỜI MỞ ĐẦU  .........................................................................      11

PHẦN I.   CÂY LÚA VIỆT NAM....................................           13

Chương 1:  Tầm quan trọng ngành trồng lúa.....................       15

Chương 2:  Nguồn gốc cây lúa trồng  ....................................     31

1.      Xếp loại lúa ......................................................................     32

2.      Nguồn gốc cây lúa châu Phi …………………..……........   33

3.      Nguồn gốc cây lúa châu Á ..............................................     35

Chương 3:  Tiến hóa cây lúa và các loại lúa...........................    59

1.      Tiến trình phát triển của cây lúa .......................................    60

2.      Các loại lúa ở Việt Nam  ..................................................    66

Chương 4: Những nông dân đầu tiên tại Việt Nam .............     89

1.      Dấu hiệu xuất hiện nền nông nghiệp sơ khai

tại đất Việt cổ ............................................................................     90

 PHẦN II.   TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ TRỒNG LÚA ............   100

Chương 5:   Giai đoạn săn bắt-hái lượm và

 thuần hóa cây lúa thời Nguyên thủy ……........……   101

1.      Thời đại Đá Cũ ở Việt Nam ………………………...….    105

2.      Giai đoạn săn bắt-hái lượm (18 000 đến 11 000 năm BP) -
Nền văn hóa Sơn Vi ……………….……………..….....    108

3.      Nền nông nghiệp sơ khai (11 000 đến 7 000 năm BP) -   

Nền văn hóa Hòa Bình .....................................................   112

Chương 6:   Giai đoạn trồng lúa rẫy thời đại Đá Mới ….…   122

1.      Nền văn hóa Bắc Sơn (10 000-7 000 năm BP) ……........   123

2.      Nền văn hóa ven biển Đa Bút-Quỳnh Văn

(6 000-3 000 năm BP) …………………….……...……..   128

Chương 7:   Phát triển lúa nước sơ kỳ thời đại Kim Khí

        (5 000-3 000 năm BP) ………………...…   …..    133

1.      Nền văn hóa Phùng Nguyên (4 500-3 500 năm BP)    ...    133

2.      Nền văn hóa Nam Bộ: Cầu Sắt-Suối Linh

(4 500-3 000 năm BP) ……………………….……..   ...    137

3.      Nền văn hóa Tiền Sa Huỳnh (3 500-3 000 năm BP) ...…   140

4.      Nền văn hóa Đồng Đậu (3 500-3 000 năm BP) …...…....   144 

5.      Nền văn hóa Gò Mun (3 100-2 800 năm BP) ……..…...   148

Chương 8:  Phát triển lúa nước hậu kỳ thời đại Ki.m Khí                       
                 (3 000-1 800 năm BP) ……....…………….............   157

1.      Nền văn hóa Đông Sơn (2 800-1 800 năm BP) ...............  158

2.      Nền văn minh lúa nước ………………………..............…   …  166

3.      Thử ước tính năng suất và diện tích trồng lúa

thời cận Công Nguyên ...............................................................  179

 Chương 9:   Trồng lúa cổ truyền thời Bắc thuộc

        (179 tr CN-938 sau CN) ........................................  182

1.      Sơ lược quá trình Bắc thuộc lần thứ nhứt …………........   183

2.      Hậu quả của thời Bắc thuộc hà khắc….………….,,,,,..…   186

3.      Sử dụng kỹ thuật trồng lúa cổ truyền ………..……,....…   191

Chương 10:   Mở rộng trồng lúa nước thời Độc Lập

         phong kiến (939-1884 sau CN) ……...…............,…...  198

1.      Bành trướng lúa nước với cuộc Nam tiến dân tộc,............ .199

2.      Chủ trương nông nghiệp lúa qua các triều đại

phong kiến …………………………………............…,,…  203

3.      Lề lối canh tác lúa thời phong kiến ..…….…,,............…… 213

Chương 11:   Phát triển trồng lúa cải tiến thời

                       Pháp thuộc (1885-1954) …………….….    218

1.      Tổ chức quản lý nông nghiệp thời Pháp thuộc …..........…  219

2.      Ngành nghiên cứu lúa gạo và giáo dục nông nghiệp

thời Pháp thuộc .......................................................................     220

3.      Cơ cấu xã hội ngành trồng lúa ................................,,,,,,,,,,,,....     224

4.      Chế độ thuế điền thổ………………………………,,,,,,,,,,,,….    230

5.      Sản xuất lúa gạo thời Pháp thuộc ........................,,,,,,,,,,,,.........    232

Chương 12:   Phát triển sản xuất lúa hiện đại từ 1954

          đến Đổi Mới kinh tế .................................,,,,,,,,,,,,.........    245

1.      Sơ lược tổ chức quản lý nông nghiệp Việt Nam

(1954-2017) …………………………………….....…….    246

2.      Các thời kỳ phát triển sản xuất lúa hiện đại

(1954-2017)……………………………...…,,,,,………...    248

3.      Trình độ nông dân và đặc tính nông hộ

trồng lúa hiện đại…….........................,,,,,.........................    263

4.      Thời kỳ tái cơ cấu nông nghiệp lúa từ 2013 …,,,,……....    268

5.      Một số công nghệ tiến bộ nổi bật thời hiện đại.....,,,,,…...    271

PHẦN III.   TIẾN HÓA SẢN XUẤT VÀ THỊ TRƯỜNG

        LÚA GẠO  .........................................................     276      

 Chương 13:   Các hệ sinh thái trồng lúa và tiến hóa ……...    277

1.      Ngành trồng lúa rẫy và tiến hóa .............................,,,,,....     278

2.      Ngành trồng lúa nước trời ...............................................     283

3.      Lúa tưới tiêu và thách thức ...............................................    293

Chương 14:   Tiến hóa quy trình sản xuất lúa... …........   300

1.      Vụ lúa qua các thời đại ..............................................................    300

2.      Các giống lúa từ văn hóa Bắc Sơn đến nay ...............................    301

3.      Tiến hóa công cụ sản xuất lúa ....................................................    316

4.      Phát triển thủy nông ...................................................................    321

5.      Tiến hóa chăm sóc và bảo vệ lúa ...............................................    332

6.      Tiến hóa canh tác lúa từ thời Cổ Đại đến nay.............................    348

7.      Tiến hóa diện tích và năng suất lúa ............................................    355                                                

Chương 15:   Tiến hóa kỹ thuật sản xuất lúa ..........................   363

1.      Nông nghiệp chính xác ......................................................   363

2.      Kiểm tra lúa .......................................................................   370

3.      Thu hẹp khoảng cách năng suất lúa ...................................   372

4.      Áp dụng các kỹ thuật tân tiến ............................................   374

5.      Công nghệ sinh học trong ngành trồng lúa hiện đại …......   382

Chương 16:   Tiến hóa thu hoạch và hậu thu hoạch lúa …....  400

1.      Vấn đề hậu thu hoạch: chất lượng và thất thoát lúa ....................   401

2.      Gặt lúa .........................................................................................   401

3.      Đập lúa ……………………………………………..............….    406

4.      Phơi sấy lúa ................................................................................    408

5.      Xay chà lúa ................................................................................    413

6.      Tồn trữ lúa .................................................................................    416

7.      Sử dụng và biến chế lúa gạo.......................................................    419

Chương 17: Tiến hóa chính sách sản xuất và

thị trường lúa gạo .......................................................    432

1.      Tiến hóa chính sách sản xuất lúa gạo................................    433

2.      Tiến hóa hoạt động thương mại nội địa ...........................    438

3.      Giai đoạn xuất khẩu lúa gạo thật sự thời tiền chiến

(1860-1961) .....................................................................    448

4.      Giai đoạn nhập khẩu lúa gạo thật sự (1962-1988) ..........    452

5.      Giai đoạn tái xuất khẩu lúa gạo thời Đổi Mới

kinh tế (1989 đến nay) …………………………....…….    455

KẾT LUẬN ..............................................................................    463

ENGLISH SUMMARY.............................................................    471

PHỤ BẢN .................................................................................    519

- Phụ bản 1: Biến đổi khí hậu, biển tiến - biển lùi và

       sụt lún ĐBSCL .....................................................     520

- Phụ bản 2: Cuộc Cách Mạng Xanh tại Việt Nam ..................     537

- Phụ bản 3: Vài ý kiến: Xây dựng thương hiệu lúa gạo

       Việt Nam …………………………………..….....    555

- Phụ bản 4: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa

       ở Việt Nam, 1961-2017 ........................................    561

- Phụ bản 5: Diện tích, năng suất và sản lượng theo

       địa phương của Việt Nam, 2016 ...........................    564

- Phụ bản 6: Dân số Việt Nam ở thành thị và nông thôn,

                   1950-2050 ..............................................................    567

- Phụ bản 7: Thay đổi khẩu phần gạo tại Việt Nam và

        thế giới từ 1961 đến 2012-14 ...............................    568

- Phụ bản 8: Việt Nam: diện tích, dân số, mật độ, nông thôn,

                   thành thị theo từng địa phương, 2017....................    570

 

CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................    575                       


LỜI GIỚI THIỆU

 Từ thời đại lập quốc đến ngày nay, dân tộcViệt trường tồn làn hờ lúa gạo. Thực vậy, câu tục ngữ ‘Sống vì gạo, bạo vì tiềnđã nói lên hai nhu cầu thiết yếu trong nền kinh tế. Xưa kia, giống lúa là các giống cổ truyền, loại ‘rơm nhiều thóc ít’. Lúc đó dân số không đông thế mà đã xảy ra nhiều nạn đói. Ngày nay, với đô thị hóa, diện tích đất trồng lúa ngày càng bị thu hẹp nên phải tăng năng suất trên diện tích canh tác.

Với sự biến đổi khí hậu do khí nhà kính gây nên, nhiều hệ sinh thái sẽ bị biến đổi: nơi này cường độ khô nóng kéo dài hơn, nơi kia nước mặn sẽ xâm nhập sớm hơn, sâu hơn và cao hơn với nhiều vùng đất thấp bị ngập. Như vậy, cây lúa cũng phải có giống thích nghi với các điều kiện sinh thái khác: cần giống thích nghi với nước sâu, cần giống lúa kháng hạn hơn, ít nhu cầu về nước hơn. Tóm lại, vẫn còn nhiều thách thức về lúa gạo trước mắt.

            Điều này đòi hỏi các nhà nông học phải lai tạo các giống mới thích nghi với các điều kiện sinh thái khác. Với công nghệ di truyền ngày càng tinh vi, khoa học đã khảo cứu bản đồ genome của cây lúa và từ đó biết tính chất của mỗi gen trong tế bào cây lúa, kéo theo triễn vọng lai giống với ít bất trắc hơn, nhanh chóng hơn. Nếu không có các giống lúa ‘rơm ít, thóc nhiều’ như ngày nay thì nhân loại đã phải chịu đựng những nạn đói khủng khiếp.

Tôi đã gặp tác giả lúc còn làm việc ở Phi châu, cùng đi thăm các ruộng lúa và cũng có gặp tác giả ở Rome, lúc Tiến sĩ Đạt làm việc tại cơ quan Lương Nông Quốc Tế. Ở cương vị sau này, tác giả đã đi nhiều nơi trên thế giới nên đã tiếp xúc được nhiều nguồn tư liệuvề lúa trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay, tác giả về hưu, nhưng vẫn muốn cống hiến những gì thu thập trong đời mình, thực là một việc văn hoá thiết thực và bổ ích. Bổ ích vì truyền lại các tri thức cho thế hệ tiếp nối; thiết thực vì lúa gạo là lương thực chủ chốt con người Á đông. Sách này dẫn chứng nhiều tài liệu, nhiều hình ảnh nên rất phong phú và đóng góp các kiến thức tích lũy trong cuộc đời chuyên viên.

Xin trân trọng giới thiệu với độc giả bốn phương một quyển sách rất giá trị.

 Thái Công Tụng

Nguyên Giám Đốc Viện Khảo Cứu (trước 1975),

Nguyên Giáo Sư Trung Tâm Quốc Gia Giáo Dục Nông Nghiệp (trước 1975)

 

LỜI MỞ ĐẦU

 Lúa gạo là thực phẩm quan trọng trên thế giới khi được hơn phân nửa nhân loại hay 4 tỷ người tiêu thụ và được Hội đồng Khoáng đại Liên Hiệp Quốc ở New York vinh danh năm 2004, nhưng quá trình tiến hóa lịch sử của loài Hòa thảo này chưa được hiểu biết rõ ràng. Do đó, quyển “Lịch sử trồng lúa Việt Nam” được biên soạn sau thời gian dài chuẩn bị, nhằm đóng góp vào nghiên cứu sự hiện diện, ngưồn gốc và tiến hóa của cây lúa bản xứ từ thời nguyên thủy đến hiện đại. Sách xuất bản lần này có thể xem là thế hệ thứ ba ra đời cho cùng đối tượng và mục đích với nhiều thông tin cập nhựt và một số chi tiết mới cụ thể hơn, tiếp theo thế hệ thứ nhứt thời kỳ thu thập tài liệu liên hệ của quyển “Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam từ thời nguyên thủy đến hiện đại” được nhà xuất bản Nông Nghiệp ấn hành 2002, tái bản 2004, và thế hệ thứ hai phát  họa tiến trình lịch sử với quyển “Lịch sử trồng lúa Việt Nam” được hình thành và xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2010.

Tài liệu mới này ngoài việc bổ túc và cập nhựt hóa các dữ liệu, còn mang đến một số thông tin mới về nôi nông nghiệp đầu tiên nhân loại xuất hiện ở vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ Tây Nam Á hay còn gọi “Levant” cách nay khoảng 11 000 năm, ở Trung Quốc 10 000 năm và Việt Nam 8 000 năm. Nhiều giả thuyết về nguồn gốc cây lúa châu Á, gồm mô hình một nguồn gốc và đa trung tâm đã được đề cập đến. Sự thuần hóa cây lúa có thể xảy ra nhiều lần một cách độc lập hàng ngàn năm trên lục địa này. Nhiều chỉ dấu đáng tin cậy cho biết ngành lúa rẫy ra đời trước lúa nước trên vùng đất cao Đông Nam Á cách nay khoảng 6 000 năm. Những hoa văn điêu luyện khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn là bằng chứng hùng hồn lưu lại hậu thế một thông điệp sống động và thuyết phục về nền văn minh lúa nước rực rỡ ở Việt Nam trong thời Cổ Đại. Việc du nhập lưỡi cày sắt từ nhà Hán vào xứ Giao Chỉ và giao thoa giữa hai nền văn hóa Đông Sơn - Hán tộc giúp sản xuất nhiều gạo thóc vào đầu Công Nguyên. Ngoài ra, một số tiến bộ kỹ thuật mới đã bắt đầu áp dụng như công nghệ MicroCT giúp khám phá cây lúa thuần hiện diện ở đồng bằng sông Cửu Long cách nay ít nhứt 4 100 năm. Hạt gạo vàng, loại thực phẩm GMO được chấp thuận phổ biến đại trà ở châu Úc và Tân Tây Lan, sáng tạo cây lúa vô tính…

Gần đây, do gặp nhiều trở ngại đầu ra của thị trường xuất khẩu trong thời đại tự do mậu dịch - WTO, cũng như tình trạng nông thôn còn chậm tiến và mức thu nhập nông dân thấp, năm 2013 nhà nước mở ra một hướng đi mới - Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gồm cả ngành trồng lúa. Chủ yếu tái cấu trúc ngành trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị gia tăng, điều chỉnh giảm dần lượng gạo sản xuất trong nước, hàng hóa xuất khẩu phải mang thương hiệu Việt Nam…

Công việc tìm hiểu lịch sử trồng lúa Việt Nam là một vấn đề lớn, đòi hỏi nghiên cứu sâu rộng, đa dạng và tích cực dấn thân trong lãnh vực này với thời gian dài. Trong niềm hứng thú thôi thúc về một loại Hòa thảo có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến sự phồn vinh của nhiều dân tộc trên thế giới, người viết mong mỏi đóng góp một ít vào việc làm sáng tỏ cội nguồn và quá trình tiến hóa cây lúa Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử đã qua. Chắc chắn quyển tài liệu còn nhiều khiếm khuyết, sai sót; cho nên tác giả rất mong đón nhận ý kiến xây dựng và tư liệu bổ túc nếu có, để nội dung sách được hoàn chỉnh và phong phú hơn.

Xin thành thật cảm tạ các thân hữu và một số chuyên gia đóng góp ý kiến cho biên soạn quyển sách này, đặc biệt Viện Khảo Cổ Học cung cấp các tài liệu thành tựu khảo cổ học vô cùng quý báu. Chúng tôi cũng chân thành cảm ơn nhà xuất bản Phụ Nữ Hà Nội đã hết lòng hỗ trợ cho tập tài liệu được ra mắt độc giả, đồng thời cung cấp một số thông tin cập nhựt mới về các giai đoạn tiến hóa phát triển ngành trồng lúa ở nước ta từ thời nguyên thủy đến hiện đại.

 Trần Văn Đạt, Ph.D.

Cựu Chánh chuyên gia FAO, Rome

PHẦN  I:

CÂY LÚA

VIỆT NAM

 

CHƯƠNG 1

TẦM QUAN TRỌNG

CỦA NGÀNH TRỒNG LÚA 

Năm 2017, thế giới có 163 nước trồng lúa và sản xuất khoảng 756 triệu tấn thóc trên 163,2 triệu ha (FAOSTAT, 2018). Đa số nông dân là thành phần nghèo, họ sản xuất lúa chủ yếu cho tiêu thụ gia đình và hy vọng số lúa còn lại bán ra thị trường để kiếm thêm ngân khoản cho các chi tiêu khác. Lúa gạo là thức ăn căn bản của 36 quốc gia và cung cấp từ 20 đến 70% nguồn năng lượng quan trọng mỗi ngày cho 4 tỷ dân thế giới, đặc biệt tại nhiều nước châu Á. Cây lúa là một loại thảo mộc đa năng, có thể sinh sống và chịu đựng nhiều điều kiện môi trường khắc nghiệt như ngập úng nhiều tháng, nước mặn, đất phèn và các loại đất có vấn đề; nên thường được dùng làm “màu tiền phong” trong các công trình khai khẩn đất mới và trở thành lương thực truyền thống của nhiều quốc gia. Ngành trồng lúa còn cung cấp hàng triệu việc làm ở nông thôn, đóng góp vào sự lớn mạnh của nhiều dân tộc và chi phối trực tiếp vào đời sống ấm no thịnh vượng của người sản xuất. Cũng vì thế, cây lúa là loại thảo mộc đầu tiên được Liên Hiệp Quốc và thế giới vinh danh vào năm 2004 trên diễn đàn quốc tế ở New York, Hoa Kỳ.

Tại Việt Nam, cây lương thực này đóng vai trò tối quan trọng trong an ninh thực phẩm và có sự tương quan chặt chẽ với đà tiến hóa, lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc qua hàng ngàn năm. Từ giữa thời đại Đá Mới cách nay độ 7-6 thiên kỷ, các nhóm trồng lúa rẫy đã xuất hiện nhiều nơi trong nước giúp cho đời sống cư dân ổn định hơn và bớt di chuyển kiếm thức ăn hàng ngày; đó là bước ngoặc quan trọng cho tiến trình phát triển con người và đất nước sau này. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến, lúa gạo vẫn là nguồn thuế quan trọng cho ngân khố nhà nước, ngoài cung cấp việc làm và lương thực căn bản cho người dân. Dưới thời Pháp Thuộc, thực dân đã triệt để sử dụng nhân lực bản địa khai thác đồng bằng sông Cửu Long tăng gia sản xuất lúa gạo để phục vụ nền kinh tế xuất khẩu. Đến cuộc Cách Mạng Xanh từ 1968 và thời Đổi Mới kinh tế từ 1988, ngành sản xuất lúa gạo mới thật sự phát triển nhanh chóng, đưa đất nước trở lại địa vị xuất khẩu hàng đầu thế giới và mang về hàng năm số ngoại tệ đáng kể; nhưng cùng lúc giá lúa gạo nội địa và thế giới sút giảm liên tục cùng với lòng tham của thương lái-doanh nghiệp làm cho đời sống người canh tác gặp nhiều khó khăn, nhứt là tại những vùng sản xuất dư thừa. Tình trạng này không những chỉ xảy ra ở Việt Nam còn thấy nhiều nước trồng lúa châu Á, ngoại trừ Nhựt Bổn, Đại Hàn và Đài Loan có chương trình bao cấp lớn lao của nhà nước.

Do đó, đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” được nhà nước phê duyệt năm 2013, trong đó Tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát động thực hiện, với mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất để tăng sức cạnh tranh kinh tế, cải thiện đời sống nông dân và nông thôn, bảo vệ môi trường lành mạnh và đáp ứng biến đổi khí hậu trong xu hướng toàn cầu hóa và thương mại tự do hiện nay. Sức ép này càng lớn hơn khi đất nước trở thành hội viên thứ 150 của Tổ Chức Thương Mại Thế giới - WTO từ năm 2007.

 1.   LÚA GẠO TRONG AN NINH LƯƠNG THỰC VÀ KINH TẾ QUỐC GIA

Việt Nam vốn là một xứ nông nghiệp lấy lúa gạo làm căn bản của nền kinh tế. Hiện nay, nước ta có 33,1 triệu ha đất đai, trong đó có 27,3 triệu đất nông nghiệp mà cây lúa chiếm đến 4,1 triệu ha, rừng 14,9 triệu ha, thủy sản 797 300 ha và muối 17 600 ha (Tổng Cục Thống Kê, 2017). Khoảng 65% dân chúng còn sống với nghề nông bao gồm lúa gạo, bắp, cây có củ và rể, hoa màu phụ, cây ăn quả, cây công nghệ, chăn nuôi, ngư nghiệp và lâm nghiệp. Năm 2016, nền nông nghiệp đã đóng góp vào GDP cả nước 16,3% (Tổng Cục Thống Kê, 2017), trong đó ngành lúa gạo và ngư nghiệp gần đây đã mang ngoại tệ cho đất nước hàng năm nhiều tỷ Mỹ kim mỗi ngành. Trong khoảng thời gian từ 1989 đến 2017, ngành xuất khẩu lúa gạo Việt Nam thường chiếm vị thế thứ hai hoặc ba trên thị trường thế giới, đã đem về đất nước tổng số ngoại tệ gần 43 tỷ Mỹ kim.

            Cây lúa có mặt tại Viêt Nam từ thời tiền sử và trở nên phổ biến rộng rãi trong xã hội Văn Lang cách nay 4 000 năm, do loài thảo mộc này sản xuất lương thực có hiệu quả cao so với các cây lương thực khác. Thật vậy, cây lúa có thể sống để sản xuất trong bất cứ điều kiện khí hậu và môi trường khó khăn, từ đất cao thiếu nước đến các đầm lầy trũng thấp, từ đất phù sa phì nhiêu đến các loại đất phèn, mặn, than bùn. Ngoài ra, hạt lúa còn có khả năng tồn trữ lâu dài, giúp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Do đó, cây lúa đã thay thế dần các cây đậu, củ, kê, lúa miến, ốc, sò..., những loại lương thực quan trọng của thời đại hái lượm tiền sử và sơ sử.

Tiếp theo, các triều đại quân chủ luôn khuyến khích khai khẩn đất hoang để bành trướng sản xuất, với mục đích vừa nuôi dân và thu thuế cho nhà nước. Trong quá trình phát triển quốc gia, sự xáo trộn và bất ổn xã hội thường xảy ra tại các đô thị lớn và những nơi dân cư đông đảo chỉ vì lương thực không được cung cấp đầy đủ, kịp lúc nên các cơn sốt giá ảo xảy ra, hoặc gặp lúc khí hậu bất thường, gian thương thao túng. Vào thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng đã giới hạn bán lúa gạo cho nước ngoài chỉ nhằm giữ giá thấp trong nước để tránh dân nổi loạn. Năm 1929, tỉnh Nghệ An đã có độ 500 người chết đói. Đến 1945, Miền Bắc có nạn đói trầm trọng xảy ra làm thiệt mạng 2 triệu người, chỉ vì không có gạo để mua. Vào tháng 4-5/2008, nước ta lại xuất hiện cơn “sốt gạo ảo” làm dân thành thị và nhà nước lo lắng không ít trong lúc thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng lương thực. Từ tháng 11-2007, đặc biệt 2008-2009 thế giới bước vào cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế-tài chánh trầm trọng nhứt trong hơn 70 năm qua, làm cho nhiều nước gồm cả Việt Nam điêu đứng; nhưng ngành nông nghiệp, nhứt là xuất khẩu lúa gạo và thủy sản đã trở nên vị cứu tinh giúp quốc gia hồi phục nhanh chóng!

 2.   LÚA GẠO VÀ NGUỒN DINH DƯỠNG CỦA DÂN TỘC

Lúa gạo là nguồn năng lượng lớn của nhân loại, riêng hơn 3 tỷ người châu Á, gạo cung cấp từ 60 đến 70% calories (Juliano, 2003). Hiện nay lúa gạo ngày càng trở nên phổ biến sâu rộng ở các lục địa khác, như châu Mỹ, Trung Đông và nhất là châu Phi, vì loại thực phẩm này được xem như thức ăn bổ dưỡng lành mạnh cho sức khoẻ con người và thích hợp cho đa dạng hóa thực phẩm hàng ngày. Khẩu phần gạo hàng năm cho mỗi đầu người châu Á thay đổi từ 50 đến hơn 191kg, bình quân 120kg. Những nước trồng lúa nghèo càng dùng nhiều cơm gạo để có đủ năng lượng cho sinh hoạt hàng ngày. Năm 2014, Việt Nam là xứ có khẩu phần gạo lớn nhứt thế giới, kế đến Indonesia và Bangladesh (Xem Phụ bản 6: Thay đổi khẩu phần tại Việt Nam và thế giới, 1961-2014).

            Tại Việt Nam, lúa gạo đã trở thành thức ăn cơ bản từ thời đại Hùng Vương. Vua Hùng Vương thứ VI chọn Hoàng Tử Lang Liêu làm người kế vị mình từ cuộc thi nấu thức ăn giữa 22 Hoàng Tử. Hoàng Tử Lang Liêu chọn nấu bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho Trời và Đất, và gạo nếp là loại lương thực chính của dân tộc. Tuy nhiên, các loại lương thực khác như khoai, đậu, tôm cá, sò hến, thú rừng vẫn còn giữ vai trò quan trọng lúc bấy giờ; cho nên, khẩu phần gạo cho mỗi đầu người còn thấp. Số khẩu phần này tăng lên theo thời gian và sự lớn mạnh của ngành sản xuất lúa gạo trong nước theo từng thời đại. Trong thời Bắc thuộc với chính sách cai trị hà khắc bóc lột, người dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm trong khi phải làm việc nặng nhọc suốt ngày, không kể thành phần thống trị và những cộng sự viên bản xứ. Đến thời kỳ Độc Lập phong kiến và thực dân về sau, người dân cũng hưởng được hai hoặc ba bữa cơm mỗi ngày, tùy theo tình trạng khí hậu mỗi năm được mùa hay thất mùa, chưa kể đến thành phần lưu dân nghèo khó trên bước đường mở mang bờ cõi của dân tộc.

Khẩu phần thật sự có thống kê của người Việt Nam đã thay đổi từ 146,7kg gạo/người/năm trong 1970, xuống 132,2kg năm 1980, tăng lên 150,3kg năm 1990, 168,4kg năm 2000 và 191kg năm 2014, cho thấy đa số người dân dù đủ no ấm nhưng vẫn còn nghèo theo kinh nghiệm quốc tế. Chẳng hạn, theo FAOSTAT 2013, Bangladesh có khẩu phần gạo mỗi năm là 171kg, Việt Nam: 145kg, Philippines: 119kg, Thái Lan: 115kg, Đại Hàn: 85kg, Malaysia: 82kg và Nhựt Bổn: 60kg.

Về dinh dưỡng, gạo và phó sản còn dùng để chế biến thức ăn, thời cổ sơ có bánh chưng, bánh dày, xôi, rượu... , ngày nay có thêm bánh ếch, bánh tét, bánh phồng, bánh tráng, bún, cơm rượu, cớm dẹp, gạo thính, bột gạo, bánh phòng tôm, thức ăn nhanh, dầu, hoặc các thức uống... Gạo là loại thực phẩm carbohydrate hỗn tạp, chứa tinh bột (80%), một thành phần chủ lực cung cấp nhiều năng lượng, protein (7,5%), nước (12%), vitamin và các chất khoáng (0,5%) cần thiết cho cơ thể (Bảng 1).

Tinh bột chứa trong hạt gạo dưới hình thức carbohydrate (carb) và trong con người dưới dạng glucogen, gồm có loại carb đơn giản như chất đường glucose, fructose, lactose và sucrose; và loại carb hỗn tạp là một chuỗi phân tử glucose nối kết nhau chứa nhiều chất sợi. Tinh bột cung cấp phần lớn năng lượng cho con người. Gạo trắng chứa carb rất cao, độ 82gr/100gr. Do đó, 90% năng lượng gạo do carb cung cấp (Juliano, 2003). Trong tinh bột có hai thành phần - amylose và amylopectin. Hai loại tinh bột này ảnh hưởng rất nhiều đến hạt cơm sau khi nấu, nhưng không ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng. Hạt gạo có nhiều chất amylose sẽ làm cho hạt cơm cứng và hạt chứa ít amylose, nghĩa là nhiều amylopectin làm cơm dẻo hơn.

Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của 100g gạo trắng, gạo lứt và nếp

________________________________________________

Thành phần           Gạo trắng                    Gạo lứt    Gạo nếp

dinh dưỡng

________________________________________________

Năng lượng, kcal          361                  362               355

Nước, g                        10,2                 11,2              11,7

Chất béo, g                  0,8                   2,4                 0,6

Chất sợi, g                    0,6                   2,8                   0

Carbohydrate, g           82,0                 87,7                81

Protein, g                     6,0                   7,4                 6,3

Vitamin B-1, mg          0,07                 0,26             0,08

Vitamin B-2, mg,         0,02                 0,04             0,03

Niacin, mg                   1,8                   5,5                 1,8

Calcium, mg                8                      12                    7

Phosphorus, mg           87                    255                 63

Kali, mg                       111                  326                  0

Chất muối, mg             31                    12                    0

________________________________________________

Nguồn: Juliano and Villareal, 1993

            Nếp chứa từ 0-10% amylose (hay 90-100% amylopectin) là thức ăn chính của người Lào, người Thái ở vùng Đông Bắc Thái Lan và nhiều dân tộc thiểu số ở các vùng cao nguyên và đồi núi Việt Nam.

Gạo Japonica có từ 14-16% amylose cho cơm dẻo và dính nhau, là thức ăn căn bản của vùng ôn đới, như Nhựt Bổn, Đại Hàn, Bắc Triều Tiên và miền bắc Trung Quốc (độ 30% diện tích cả nước). Đa số gạo thơm có 21-23% amylose nên gạo không dẻo lắm mà cũng không cứng lắm sau khi nguội, ngoại trừ gạo Basmati với hạt cơm rời nhau. Các loại gạo truyền thống của người Đông Nam Á có khoảng 21-25% amylose.

Chỉ số đường huyết (glycemic index) hay GI giúp đo ảnh hưởng của tinh bột carb đến lượng đường trong máu. GI của gạo tùy thuộc hàm lượng amylose, mức độ xay chà, thời gian sau khi ăn và cách nấu chín hạt gạo.

Chất carb bị tiêu hóa nhanh cho nhiều đường (glucose) trong máu hay GI cao. Trái lại, chất carb bị tiêu hóa chậm cho đường trong máu ít hơn hay GI thấp. Do đó, gạo chín sẵn (pre-cooked) có GI cao hơn gạo thường. Gạo chứa nhiều amylose (ít amylopectin) có GI thấp hơn loại gạo có ít amylose (nhiều amylopectin). Vì thế gạo nếp và gạo hạt tròn Japonica có GI cao hơn gạo hạt dài Indica, trong khi gạo trắng hạt dàigạo Basmati trắng với bách phân amylose gần giống nhau, không khác nhiều về chỉ số hóa đường GI (Bảng 2). Chỉ số đường huyết thấp khi GI dưới 55, trung bình 56-69 và cao trên 70. Chỉ số đường huyết chỉ cho biết lượng đường vào lúc đó mà thôi, trong khi lượng đường trong máu có thể khác nhau với thời gian trong ngày, mức độ hoạt động và theo những thay đổi chất hormone trong cơ thể. 

Bảng 2: Chỉ số đường huyết GI của vài loại gạo chính 

Loại gạo

Gạo trắng

Gạo lứt

Gạo chín sẳn

 

Hạt tròn (Japonica)

76

62

Cao hơn

Hạt dài (Indica)

50-60

48

76

Basmati

57

-

67-68

Nếp

75-98

-

-

Nguồn: Glycemic index foundation (www.glycemicindex.com/). 

Cho nên, hiện nay y học sử dụng công cụ chỉ số huyết sắc tố A1c để chẩn đoán và kiểm soát tiền tiểu đường có hiệu quả hơn. Chỉ số huyết sắc tố A1c (Hemoglobin A (adult) và theo thứ tự 1c, còn có A1b, A1a1, A1a2) được dùng để đo đường huyết trung bình trong 2-3 tháng trước. Huyết sắc tố là một protein trong hồng huyết cầu vận chuyển oxy máu trong cơ thể, có tuổi thọ 3 tháng. Khi chỉ số A1c cao có nghĩa là máu có quá nhiều đường gắn vào tế bào huyết sắc tố và ngược lại. Xét nghiệm A1c không yêu cầu nhịn đói. Một người không phải là bệnh nhân tiểu đường có khoảng 5% huyết sắc tố đường hóa hoặc ít hơn. Mức A1c bình thường là dưới 5,7%, tiền tiểu đường khi A1c = 5,7 - 6,4% và gợi ý bệnh tiểu đường khi A1c bằng hoặc cao hơn 6,7% (Lê Giang, 2015). 

Protein: Gạo là loại thức ăn dễ tiêu hóa và cung cấp loại protein tốt cho con người. Chất protein cung cấp các phân tử amino acid để thành lập mô bì, tạo ra enzym, kích thích tố và chất kháng sinh. Chỉ số giá trị sử dụng protein thật sự của gạo là 63, so với 49 cho lúa mì và 36 cho bắp (căn cứ trên protein của trứng là 100) (Chandler, 1979).

Vitamin: Cũng giống như các loại ngũ cốc khác, lúa gạo không chứa vitamin A, C hay D, nhưng có vitamin B-1, vitamin B-2, niacin, vitamin E, ít chất sắt và kẽm và nhiều chất khoáng Mg, P, K, Ca.

Thiamin là vitamin B1 giúp tiêu hóa chất đường glucose để sản xuất năng lượng, vì thế hỗ trợ cho các tế bào thần kinh, hoạt động của tim và khẩu vị. Vitamin B1 không thể dự trữ trong cơ thể nên phải cung cấp hàng ngày. Gạo trắng cung cấp 0,07mg B1/100gr.

Riboflavin: Gạo chứa ít chất riboflavin hay vitamin B2, rất cần thiết cho sản xuất năng lượng và nuôi dưỡng bì mô của mắt và da. Gạo trắng chứa 0,02mg B2/100gr.

Niacin là yếu tố cần thiết để phân tách chất glucose cho năng lượng, da và hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Gạo trắng chứa 1,8mg Niacin/100gr.

Vitamin E là một loại sinh tố tan trong mỡ, giúp cho vitamin A và các chất béo chống oxyd hóa trong tế bào và bảo vệ sự hủy hoại bì mô của cơ thể.

Ngoài ra, gạo còn cung cấp những chất khoáng cần thiết cho cơ thể với ít chất sắt (thành phần của hồng huyết cầu và enzym) và kẽm (giúp chống oxyd hóa trong máu, thành phần của enzym trong tăng trưởng, phân chia tế bào), nhưng nhiều chất P (giúp xương, răng, biến hóa trong cơ thể), K (cho tổng hợp protein, hoạt động enzym), Ca (giúp xương, răng và điều hòa cơ thể), muối (giữ cân bằng chất lõng trong cơ thể, hoạt động bình thường của hệ thần kinh và bắp thịt)... (Bảng 3).

Rất tiếc rằng hạt lúa khi xay chà thành gạo đánh mất nhiều vitamin và các chất vi lượng quan trọng khác. Sau khi xay chà, gạo vẫn còn giữ nhiều chất protein so với các loại ngũ cốc khác; tuy nhiên chất protein thô của hạt lúa kém hơn. Lysine là loại amino acid bị giới hạn lớn nhất, nhưng cấu tạo 4% protein gạo, gấp đôi so với bắp không vỏ. 

Bảng 3: Vitamin, chất vi lượng của lúa, gạo lứt, gạo trắng và phó sản ở 14% ẩm độ. 

 

Loại gạo

 

Năng lượng

(kcal)

Thia

mine

(mg)

Ribo

flavin

(mg)

Niacin

(mg)

Ca

(mg)

P

(g)

Phy

tin P

(g)

Sắt

(mg)

Kẽm

(mg)

Lúa

378

0,33

0,11

5,60

80

0,39

0,21

6,00

3,1

Lứt

385

0,61

0,14

5,30

50

0,43

0,27

5,20

2,8

Gạo

373

0,11

0,06

2,40

30

0,15

0,07

2,80

2,3

Cám

476

2,40

0,43

49,9

120

2,50

2,20

43,0

25,8

Trấu

332

0,.21

0,07

4,20

130

0,07

 

9,50

4,0

 

Nguồn: Juliano and Villareal, 1993 

Các amino acid khác như theonine và methionine cũng cao hơn ngũ cốc khác, dù thế các loại amino acid này cũng không đủ cho nhu cầu hàng ngày của con người, nên cần phải bổ túc thêm. Nhiều chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo dùng gạo lứt để ăn hàng ngày, nhưng rất ít người áp dụng vì hạt gạo lứt không thích hợp cho tồn trữ lâu dài do chứa nhiều chất dầu trong cám dễ sinh ra mùi hôi, có hại cho sức khoẻ con người nếu giữ lâu. Ngoài ra, ăn nhiều gạo lứt có thể làm cho bao tử khó chịu. Ăn cơm trắng lâu ngày đã trở thành thói quen của đa số dân chúng dùng gạo. Một số dân tộc khác như miền Nam Ấn Độ, Bangladesh, Sri Lanka, Nigeria, Ghana lại thích dùng loại gạo hấp có nhiều chất bổ dưỡng hơn gạo trắng. Lúa hấp chiếm khoảng 20% tổng sản lượng thế giới.

Lúa gạo giữ vai trò thiết yếu trong tình trạng dinh dưỡng và sức khoẻ của những người ăn cơm hàng ngày. Trong những xứ tiêu thụ gạo, các thức ăn hàng ngày có rất ít chất mỡ, vôi, sắt, riboflavin và ascorbic acid. Vì thế các nước dùng gạo hàng ngày mà không bổ túc thêm các loại thức ăn khác thường thiếu chất protein (cho trẻ con) làm cho số tử vong cao; thiếu vitamin A ở phần lớn trẻ con gây ra bệnh mù mắt; thiếu chất sắt gây ra bệnh thiếu máu ở trẻ con từ 5-12 tuổi và phụ nữ trong thời kỳ thai nghén; thiếu chất iod gây bệnh bướu cổ; thiếu một số chất khác như thiamin, riboflavin thường xảy ra ở những vùng ăn gạo trắng hơn là vùng ăn gạo hấp, gây ra bệnh phù thũng.

Do đó, trong các chương trình phát triển và an ninh lương thực, không thể quên chú ý đến chất lượng lúa gạo liên hệ đến sức khoẻ con người. Cần đẩy mạnh công tác cải thiện di truyền lúa để có dinh dưỡng gạo tốt hơn, qua phương pháp lai tạo truyền thống hoặc công nghệ sinh học như gạo vàng cung cấp vitamin A, chất sắt. Hơn 70% gạo cung cấp cho giới tiêu thụ ở Mỹ chứa thêm các chất vi lượng như folic acid, thiamin, niacin và sắ dưới hình thức gạo hấp. Thành phần các chất dinh dưỡng và bần tố của gạo, các phó sản được ghi trong Bảng 2 và 3. 

3.   LÚA GẠO VÀ NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC

Ngoài sự đóng góp vào an ninh lương thực, ruộng lúa còn tạo nên phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp, màu xanh tươi mát hoặc vàng mượt của những cánh đồng thẳng tắp thu hút các cuộc du lịch sinh thái và là nơi giải trí lành mạnh cho dân thành thị; cho nên cây lúa đóng góp bằng nhiều cách vào sự thịnh vượng cộng đồng nông thôn. Ở Sapa, Hà Giang, Yên Bái… các thửa ruộng bậc thang bình lặng và thơ mộng đã góp phần làm tăng vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng và thu hút du khách (Hình 1). Nhưng rất tiếc phần lớn nông dân trồng lúa trên thế giới hiện nay còn kém mở mang! 

 


                 Hình 1: Ruộng bậc thang huyện Mù Cang Chải, Yên bái

            Cây lúa đã có mặt hàng thiên kỷ trên đất nước này nên đã trở thành yếu tố cần thiết, không thể tách rời đời sống và văn minh dân tộc. Ở Việt Nam có nền văn minh lúa khô cách nay 6 000 năm và văn minh lúa nước cách nay 3 000-4 000 năm với các vùng sinh thái tương phản. Nước ta có 54 sắc tộc, mà mỗi sắc tộc có nền văn hóa riêng rẻ và màu sắc cá biệt; làm cho nền văn hóa lúa đa diện đa màu từ đồi núi cao đến các thung lũng, ven sông rạch, ao đầm và đồng bằng dài vô tận. Lúa gạo hiện diện trong các lễ hội cổ truyền, các cuộc hành lễ tôn giáo, tập tục, văn chương dân tộc, thơ phú, họa phẩm, ca nhạc, và dĩ nhiên trong nhà bếp của mọi gia đình nước ta.

Những lễ hội thường được tổ chức vào đầu mùa lúa hoặc mùa gạo mới. Các buổi lễ lâu đời nhất còn được ghi nhận trong sách sử của Trung Quốc. Vào khoảng gần 5 000 năm trước, Vua Thần Nông đã dự lễ gieo hạt giống ngũ cốc: lúa, lúa mì, khoai lang và hai loại kê (millet). Nhà vua tự tay gieo hạt giống và sau đó các quần thần để mở đầu cho vụ mùa mỗi năm. Tại Việt Nam, lễ Tịch Điền đã được tổ chức vào đầu mùa mưa, còn gọi lễ Hạ Điền (xuống ruộng), từ triều đại Hùng Vương, cách nay độ 4 000-2 200 năm đến Lê Hoàn vào đầu thế kỷ XI, và đặc biệt quan tâm bởi triều đại nhà Nguyễn vào thế kỷ XIX. Đầu thế kỷ XXI, Việt Nam lại cổ xúy các lễ hội này trong dân gian. Ngoài ra, còn có lễ Thượng Điền, Tết Cơm Mới (hay lễ Thường Tân vào tháng 10 âm lịch) để lấy phẩm vật đầu mùa cúng bái thần linh phò hộ và tạ ơn trời đất...

Ở Việt Nam, mỗi sắc tộc có một hoặc vài lễ hội lúa gạo truyền thống nổi tiếng, như người Mường thường được xem là người Việt cổ sống rải rác nhiều nơi từ Miền Bắc đến Miền Trung và Tây Nguyên, mỗi năm họ tổ chức ngày lễ hội cơm mới truyền thống, với thay đổi chút ít tùy nơi (Hình 2). Theo quan niệm của họ, lúa mới luôn được dành làm lễ cúng Trời đất và tổ tiên trước khi người dân dùng đến. Ở các tỉnh Miền Bắc, người Mường bắt đầu mùa lễ cơm mới bằng cách rước vía lúa về nhà. Họ lựa chọn và cắt 7 hoặc 9 gié lúa tốt đã chín tượng trưng cho vía lúa, cột thành bó đem về nhà treo ở cột cái bên cạnh bàn thờ tổ tiên. Sau đó, họ ra đồng gặt lúa vào tháng 10 âm lịch, rồi nấu cơm cúng tạ ơn trời đất cho họ được mùa lúa tươi tốt và cầu nguyện mưa thuận gió hòa cho mùa sắp tới. Ở Đăk Lăk, người Mường giản dị hơn cho lễ hội mừng lúa mới, không còn tổ chức rước vía lúa về nhà, chỉ làm lễ mừng lúa mới sau khi gặt hái xong. Trong ngày lễ hội, người phụ nữ mặt áo cổ truyền, giã gạo và tiếng chiêng trống cùng với các cuộc vui vang dội khắp thôn bản, 

Lễ hội mừng lúa mới của dân tộc K’ho Srê của tỉnh Lâm Đồng được tổ chức vào mùa thu hoạch xong để tạ ơn thần lúa đã ban cho gia đình ấm no, xóm làng sung túc, và cầu mong năm sau được mùa thuận lợi và gia đình phát đạt hơn. Vật tế lễ thường là gà, heo và rượu cần. Người giàu hơn có thể mổ trâu. Buổi cúng lễ được tổ chức tại bồ lúa mới (VOV.vn, 2017).

Người Mạ ở Đắt Nông cũng có lễ hội mừng lúa mới trước kia chỉ dành trong gia đình và dòng họ, sau này thành lễ hội chung cho cả làng, nhằm cầu mong hồn lúa, thần linh che chở và phù hộ cho lúa tốt, được mùa, dân làng ấm no hạnh phúc. Lễ vật cúng thường là một con heo, một con gà, gạo nếp, ché rượu cần, một gùi bông lúa… Già làng cắt tiết một gà trống để lấy máu bôi lên cây nêu và các vật xung quanh, rồi khấn gọi hồn lúa, các thần linh chứng giám. Sau cùng, Ông mời mỗi người một nắm cơm và một miếng thịt, rồi họ bắt đầu chuyền tay nhau uống rượu cần theo thứ tự già, trẻ, nam, nữ trong tiếng chiêng rộn rã, cùng nhịp múa uyển chuyển ăn mừng một mùa lúa thành công (Nông thôn Việt, 2017).

Đối với người Cơ Tu ở miền Tây Nam Quảng Nam, ngày lễ hội mừng lúa mới được tổ chức rộn rịp để tạ ơn thần linh đã cho họ mùa thuận lợi, đời sống ấm no và hạnh phúc. Trong lễ hội này, còn có lễ đâm trâu cúng thần linh. Sau lễ, thịt trâu được cắt nhỏ để mời khách tham dự và chia đều cả làng. Rượu cần, xôi nếp, thịt heo, gà, trái cây… được mang ra đãi khách cùng tiếng trống, chiêng, những điệu múa hát vui vẻ vang trong xóm làng (Di tích lịch sử văn hóa, 2016).

Các hội hè liên quan đến lúa gạo cũng là những dịp để tăng cường sự liên đới xã hội, gồm có các cuộc thăm viếng gia đình, bạn bè, những trò chơi, thể thao và cũng tạo môi trường cho giới thanh nam, thanh nữ có cơ hội gặp gỡ và tình tự. Vào mùa cấy lúa (Hình 3), dân tộc kinh và vài sắc tộc say mê những cuộc thi đua hò hát suốt ngày làm việc và những tiếng hát giọng hò nương theo gió vang vội khắp đồng ruộng, về tận thôn làng...

Rủ nhau bước xuống ruộng vàng,Nơi lộng tiếng hát nơi vang tiếng cười.

Đến mùa gặt, ngoài đồng ruộng nhộn nhịp rộn ràng với kẻ gặt, người đập, gom lúa, gánh thóc về làng. Những đêm trăng sáng, tiếng chày giã gạo hòa lẫn tiếng trẻ con vui chơi, đùa giỡn trong xóm..., khiến nhà nông quên hết ngày tháng dầm mưa dãi nắng, cực nhọc ngoài đồng.

Sáng trăng giã gạo ngoài trời,

Cám bay phảng phất nhớ người đàng xa.

Ngày xưa, nếp là lương thực chính của cư dân Việt cổ qua tục bánh chưng bánh dày thời Hùng Vương, nhưng nay chỉ là đặc sản dùng trong các lễ hội truyền thống, ngày giỗ gia đình, sản xuất rượu và các thức ăn khác. Bánh chưng, bánh dày nay trở nên phổ biến trong dân gian, nhứt là dịp Tết Nguyên đán. Trong các lễ cưới tân thời, người ta rải gạo vào cô dâu chú rễ để cầu chúc họ được hạnh phúc bền lâu. Còn các loại gạo thơm hảo hạng rất quý vì hiếm có giá cao nên chỉ giới thượng lưu, vua chúa thời xưa và người giàu mới có khả năng dùng trong các bữa ăn hàng ngày. Giới trung lưu và nghèo khó chỉ dùng gạo thơm trong những dịp đặc biệt như những ngày Tết, kỵ cơm hoặc chiêu đãi khách quý.

Ngoài ra, hệ thống sản xuất lúa gạo còn giữ vai trò bảo tồn đất và nước trong thời gian lâu dài. Ruộng được trồng lúa hàng ngàn năm vẫn còn tồn tại đến ngày nay, nhờ nhiều loại vi sinh vật cung cấp chất dinh dưỡng trong đất. Các kỹ thuật ruộng bậc thang, làm bờ bao, san bằng mặt đất và đánh bùn trong canh tác giúp đất giữ nước lâu dài, không để chảy tràn hoặc thẩm thấu vào lòng đất. Những kỹ thuật này giúp ngăn ngừa xói mòn đất đai, di chuyển chất bùn, trong khi đó làm dễ dàng hoạt động cày xới đất, diệt cỏ dại, làm tăng các chất dinh dưỡng sẵn sàng cho cây lúa sử dụng và giúp tránh phần nào nắng hạn hoặc lụt lội. Ruộng lúa còn giữ vai trò quan trọng trong các cuộc khai khẩn đất mới, đặc biệt ở những vùng đất đai có vấn đề như đất mặn, đất phèn và đất than bùn vì cây lúa là loại thực vật đa năng có thể chịu đựng điều kiện môi trường thiên nhiên khắc nghiệt như thế.

Hơn nữa, các hệ nuôi trồng đa dạng sinh học như lúa-chăn nuôi gia súc, cá, tôm, ếch nhái cung cấp thêm protein, vitamin và các chất khoáng trong thức ăn con người, không kể đến làm tăng thu nhập nông dân. Nông nghiệp lúa còn sản xuất các phó sản trấu, rơm rạ và cám là loại năng lượng tái sử dụng, làm phân compost, thức ăn gia súc, vật dụng xây cất, v.v. đồng thời có thêm vai trò quan trọng giữ chất Carbon trong đất (IRC, 2003). 

4.   NĂM LÚA GẠO QUỐC TẾ 2004

Vào ngày 16-12-2002, phiên họp thứ 57 hàng niên của Hội Đồng Khoáng Đại Liên Hiệp Quốc (LHQ) ở New York đã tuyên bố năm 2004Năm Lúa Gạo Quốc tế (Năm LGQT) và yêu cầu Tổ Chức FAO giúp thực hiện Năm LGQT với hợp tác của các cơ quan quốc tế liên hệ, cơ quan phi chính phủ và lãnh vực tư nhân. Lời tuyên bố LHQ về Năm LGQT là kết quả của những nỗ lực liên tục từ 1999 của tổ Chức FAO và Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế (IRRI), với nhiệt tình hỗ trợ của nước Philippines và 43 quốc gia khác trên thế giới gồm cả Việt Nam (Trần Văn Đạt, 2005) (Hình 4 & 5).


Logo Năm Lúa Gạo QT-2004



Huy chương Năm Lúa gạo QT-2004

Sự tuyên bố Năm LGQT cho một loại màu duy nhứt, là hiện tượng hiếm thấy trong lịch sử LHQ. Tổ chức này đã nhìn nhận: “Cần tập trung sự chú ý của thế giới vào vai trò của cây lúa trong cung cấp an ninh lương thực và xóa đói giảm nghèo trong nỗ lực hoàn thành mục tiêu phát triển đồng thuận quốc tế, gồm cả các mục tiêu đề ra trong Tuyên Bố Thiên Niên Kỷ năm 2000” (FAO, 2005).

Do đó, mục đích chính của Năm LGQT, trong ngắn hạn, là làm tăng sự hiểu biết của thế giới về các khó khăn, thử thách và những cơ hội sẵn có của ngành sản xuất lúa gạo cũng như sự liên hệ của thực phẩm này đến tình trạng an ninh lương thực, nghèo khó, bền vững sản xuất và lành mạnh môi trường trên thế giới. Trong trung và dài hạn, mục tiêu Năm LGQT nhằm kêu gọi sự hỗ trợ của các nước tiến bộ cho các lãnh vực nghiên cứu và phát triển, và các nước trồng lúa thực hiện các chương trình và dự án giải quyết các khó khăn nhằm cải tiến năng suất, tăng gia sản xuất bền vững, nâng cao lợi tức và thịnh vượng của nông dân trong khi bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ sắp tới.

             Tóm lại, cây lúa đã không thể tách rời từ các nền văn hóa của đất nước. Lúa gạo là sự sống, biểu tượng cho nền văn minh sống thực của các dân tộc trồng lúa. Loài thảo mộc này đã trở thành người bạn thân thiết gắn bó, trải qua các giai đoạn khó khăn và thịnh vượng xuyên suốt quá trình lịch sử xây dựng lớn mạnh đất nước. Truyền thống văn hóa với hiện diện lúa gạo đã ăn sâu vào tận cội nguồn mỗi người Việt Nam. Ngành trồng lúa là yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế quốc gia, đã đóng góp vào sự sinh tồn của nhiều dân tộc và cũng gắn liền với quá trình phát triển và giữ vững đất nước hùng mạnh. Trong nước ta, có lúc hàng trăm ngàn người phải thiệt mạng oan uổng vì các nạn đói hoành hành dữ dội. Cây lúa còn là chủ nhân của hàng triệu việc làm, đóng góp rất quan trọng vào lớn mạnh quốc gia; hơn nữa, còn giúp bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên, môi trường khi được con người quản lý thích đáng. Thật vậy, cây lúa đã thể hiện dưới nhiều hình thức hữu ích - năng động, đa dạng và đa năng có mặt ngàn đời với loài người.

Trên thế giới, lúa gạo không những là một loại lương thực hàng đầu trong các chiến lược chống nạn đói kém, nghèo khổ và bệnh tật, còn góp phần to lớn làm phong phú đa dạng sinh học và cũng là thành tố thiết yếu của gia tài văn hóa bản địa và thế giới. Nhưng gần đây, sản xuất lúa gạo thế giới đang đối diện với một số vấn đề cấp bách: dân số tiếp tục gia tăng, nguồn tài nguyên thiên nhiên đất và nước suy giảm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng xấu và mức độ sản xuất chậm lại so với thời kỳ Cách Mạng Xanh vừa qua (FAO, 2005). Các thử thách này không thể đối phó riêng rẻ bởi một cơ quan hoặc tổ chức duy nhứt nào để đi đến thành công, mà cần sự hợp tác và liên đới chặt chẽ tất cả các giới liên hệ trên thế giới. Vì thế, LHQ và nhiều nước hội viên đã long trọng tổ chức đón chào Năm Lúa Gạo Quốc Tế-2004. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

  1. Chandler, R.F. 1979. Rice in the Tropics: A guide to the development of national programs. Westview Press/Boulder, Colorado, pp 256.
  2. Dantocmiennui.vn. 2017. Lễ mừng cơm mới của người Mường
  3. Di tích lịch sử văn hóa. 2016. Quảng Nam: Hội mừng lúa mới của đồng bào Cơ Tu
  4. Lê Giang. 2015. Xét nghiệm huyết sắc tố kiểm tra bệnh tiểu đường
  5. IRC. 2003. International Rice Commission (IRC) Newsletter, Vol. 52, Special Issue for the International Year of Rice - 2004, FAO, Rome, pp 46.
  6. FAO. 2004 và 2018. FAOSTAT .
  7. FAO. 2005. Rice is life - International Year of Rice 2004 and its implementation, FAO, Rome, pp 133.
  8. Juliano, B.O. 2003. Rice chemistry and quality. Philrice, Philippines, pp 480.
  9. Juliano, B.O. and Villareal, C.P. 1993. Grain quality evaluation of world rices. IRRI, Philippines.
  10. Nông thôn Việt. 2017. Những lễ hội độc đáo của đồng bào Mạ
  11. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2017. Số liệu thống kê - Nông nghiệp
  12. Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo thế giới: Hiện trạng và khuynh hướng phát triển trong thế kỷ 21. NXB Nông Nghiệp, tr.7-9.
  13. VOV.vn. 2017. Độc đáo lễ hội mừng lúa mới của dân tộc K’ho.

CHƯƠNG 2

NGUỒN GỐC

CÂY LÚA TRỒNG 

Nguồn gốc và phân bố cây lúa luôn là đề tài tranh luận nóng bỏng của các nhà khoa học và khảo cổ học thế giới cũng như trong nước. Về công cuộc khảo cổ học, các nước ôn đới và vùng khô hạn có ưu thế hơn những nước nhiệt đới ẩm ướt để bảo tồn di vật và di tích thiên nhiên dưới dạng chất hữu cơ ngoài trời hoặc bị chôn vùi trong lòng đất. Hơn nữa, địa hình của các di chỉ khảo cổ ở đồng bằng, thung lũng hoặc đồi núi cũng ảnh hưởng không ít đến sự lưu giữ các di vật khảo cổ qua hàng ngàn năm. Tuy nhiên, nhờ các kỹ thuật và khoa học tiến bộ khám phá các hạt phytolites, gạo than, võ trấu trong các mảnh gốm, vật liệu xây cất cổ xưa… đã giúp làm sáng tỏ một số vấn đề tranh luận. Gần đây, những công nghệ di truyền hiện đại, công nghệ sinh học, tin học, chất đồng vị phóng xạ, sự kết hợp công nghệ di truyền, tin học, mô hình thuần hóa, công nghệ MicroCT cùng các phương pháp phân tích khoa học đã giúp các nhà nghiên cứu mang ra ánh sáng nhiều vấn đề khảo cổ trước đây chưa được rõ ràng. Dù vậy, hiện thời vẫn chưa có đồng thuận về nguồn gốc cây lúa trồng châu Á.

Thế giới hiện có 2 loại lúa trồng với hai nguồn gốc lịch sử khác nhau, bên cạnh còn nhiều loại lúa hoang sống rải rác trên các lục địa. Đó là lúa trồng châu Á (Oryza sativa, Linn.) và lúa trồng châu Phi (Oryza glaberrima, Steud.).

Theo một số nhà nghiên cứu, địa điểm nguồn gốc xuất phát cây lúa trồng phải hội đủ 4 tiêu chuẩn sau đây:

(i)                 Tổ tiên trực tiếp của cây lúa hay lúa hoang phải hiện diện hoặc đã xuất hiện nơi đó;

(ii)               Di chỉ khảo cổ xác nhận cây lúa đã được trồng nơi đó;

(iii)             Sự hiện diện loài nguyên thủy của cây lúa trồng; và

(iv)             Biến đổi di truyền giữa lúa trồng và lúa hoang phải khác biệt ở nơi đó. 

1.   XẾP LOẠI LÚA

Cây lúa trồng thuộc họ Poaceae (Graminea hay họ Hòa thảo), phụ họ Pryzoideae, tộc Oryzae, dòng (genus) Oryza, loài Oryza sativa Oryza glaberrima. Oryza sativa là một loại cỏ có bộ gen gồm 430Mb trên 12 nhiễm sắc thể. Nó nổi tiếng là dễ sửa đổi di truyền, và có thể làm mẫu cho sinh học ngũ cốc. Ngoài 2 loại lúa trồng Oryza sativa Oryza glaberrima, còn có 25 loài lúa hoang sống rải rác ở Đông Nam Á, Nam Á, Úc Châu, New Guinea, Phi Châu, Trung và Nam Mỹ.

Sự xếp loại cho cây lúa trải qua một thời gian hơn 200 năm, với rất nhiều tranh luận giữa các nhà nghiên cứu vì không có hệ thống xếp loại duy nhứt được đồng thuận. Do đó, có nhiều loài lúa hoang được xếp cùng tên hoặc lẫn lộn nhau của các nhà nghiên cứu, ngoại trừ hai loài lúa trồng (O. sativaO. glaberrima) và 7 loài lúa hoang (australiensis, eichingeri, latifolia, minuta, schlechteri, ridleyi và brachyantha) (Nayar, 1973). Chẳng hạn, loài spontaneaperennis được xem như rất gần với lúa trồng O. sativa; nên có tên thay đổi rất thường: loài Oryza dưới dạng spontanea, hàng niên, xem như một loài độc lập O. fatua, hay O. sativa var. fatua hoặc O. rufipogon (Sampath, 1962). Loài đa niên O. perennis đươc xem như O. rufipogon Griff và loài hàng niên như O. nivara Sharma et Shastry.

Vào 1753, ông Lineaeus, người đầu tiên đã mô tả và xếp loài lúa sativa trong dòng Oryza. Pilger (1915) tìm được và mô tả loài thứ hai, schlechteri từ mẫu thu thập được bởi Schlechter vào năm 1907 ở miền bắc Tân Guinea (Nayar, 1973). Bà Prodoehl (1922) đã viết bản thảo chi tiết cho giống lúa này và 17 loài được mô tả khá chi tiết. Sau đó, dòng Oryza được đặc biệt quan tâm đến với rất nhiều chi tiết bởi nhiều nhà nghiên cứu, như Roscheviez (1931), Chevalier (1932), Sasaki (1935), Morinaga (1943), Chatterjee (1948), Sampath (1961, 1962, 1964), Tateoka (1963, 1964), Chang (1964), Shastry 1965, và Sharma và Shastry (1965, 1971), Sharma (1973) và Nayar (1973). Trong đó, ông Morinaga (1943, 1954) là người đầu tiên đã sử dụng kỹ thuật phân tích genome để định danh các loài lúa hoang. Công trình nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học này (sự tiếp hợp của các nhiễm sắc thể giống nhau) đã giúp phân tích các loài lúa được chính xác hơn. 

2.   NGUỒN GỐC CÂY LÚA CHÂU PHI

Nguồn gốc cây lúa châu Phi không phải là đề tài tranh cải lớn trong giới khoa học và khảo cổ học liên hệ, được biết xuất phát từ loài lúa tổ tiên Oryza longistaminata /Oryza barthii, có nguồn cội từ lưu vực sông Niger đến xứ Senegal cách nay khoảng 3 500 năm. Cây lúa châu Phi có thể bắt nguồn từ thượng lưu sông Niger (nay thuộc Mali) và sau dó lan tỏa đến 2 trung tâm phụ: vùng Gambia, Senegal (Casamance) - Guinea Bissau, và trung tâm kia trong khu rừng Guinea giữa Sierra Leone và miền tây Côte d’Ivoire (Olga F. Linares, 2002) (Hình 1).

Năm 2018, Cubry và những cộng sự viên ở Montpellier, Pháp sử dụng 246 trình tự toàn bộ gen lúa mới, đã suy ra cái nôi của việc thuần hóa cây lúa châu Phi là ở vùng đồng bằng nội địa Nigeria, phía bắc xứ Mali. Việc thuần hóa được bắt đầu là do sự suy giảm mạnh của hầu hết các quần thể hoang dã từ hơn 10 000 năm trước trong quá trình khô hạn hóa sa mạc Sahara. Một gen, PROG1, liên quan đến kiểu hình kiến ​​trúc cây thẳng đứng, cho thấy sự tuyển

 Hình 1: Vùng nguồn gốc cây lúa châu Phi (ảnh nternet)

 lựa hội tụ xảy ra ở cả hai loài lúa trồng Oryza glaberrima từ Châu Phi và Oryza sativa từ Châu Á. Còn gen hạt dễ rụng, sh5, cho thấy là do sự tuyển lựa chính trong quá trình thuần hóa cây lúa châu Phi, nhưng lại không phải trong quá trình thuần hóa cây lúa châu Á, như có người báo cáo. Tại sao?

Mặc dù con người ở châu Phi và châu Á thuần hóa lúa một cách độc lập và cách nhau hàng ngàn năm, họ đã làm thay đổi bộ gen (hay gien, gene) của loài hòa thảo này theo những cách tương tự (Ewen Callaway, 2014). Do đó, cây lúa châu Á có thể được thuần hóa nhiều lần, độc lập tại nhiều nơi khác nhau trong lục địa này, như đã được báo cáo từ các chuyên gia Viện lúa IRRI ở Philippines.

Cây lúa châu Phi khác với cây lúa châu Á đặc biệt ở lá thìa ngắn, hình cụt, vỏ trấu láng (glaberrima) (Hình 2), còn lá thìa cây lúa châu Á hình V, dài và nhọn ở hai đầu, vỏ trấu nhám. Lúa châu Phi phát triển chậm tại châu lục này do năng suất thấp và chất lượng kém, cho nên lúa châu Á có ưu thế hơn để thay thế loại lúa này theo thời gian do nhu cầu của người địa phương, mặc dù lúa châu Phi có khả năng kháng sâu bệnh cao và chịu đựng khí hậu khắc nghiệt bất thường. Về lịch sử, lúa châu Á được các thương buôn Á Rập đem vào châu Phi giữa thế kỷ VI và người Bồ Đào Nha đem vào thế kỷ XVI.

Gần đây, lúa NERICA (New rice for Africa) hay “Lúa mới cho châu Phi” là một loại lúa được lai tạo ở châu Phi giữa lúa châu Á có năng suất cao và lúa châu Phi có năng suất thấp, nhưng mang một số gen kháng sâu bệnh và chịu hạn hán. Giống lúa mới này (buổi đầu chỉ là loại lúa rẫy, nay có thêm nhiều giống lúa dành cho hệ lúa nước) có năng suất cao hơn lúa rẫy địa phương 35%, có khả năng cạnh tranh cỏ dại mạnh, chín sớm (100 ngày), hàm lượng protein cao, chịu hạn hán và thích hợp với hệ sản xuất lúa ít dùng phân hóa học, thuốc sát trùng và chăm sóc.

Hình 2: Hạt lúa châu Phi (ảnh nternet)

            Trong 2016, châu Phi có 43 nước trồng lúa, với diện tích từ 33 ha ở Eswatini (Swaziland cũ) đến 3 triệu ha ở Nigeria (FAOSTAT, 2018). Hiện nay, nước trồng lúa lớn nhứt tại lục địa này là Nigeria và xứ có năng suất cao nhứt là Ai Cập với khoảng 8-9 t/ha. Cùng thời gian trên, châu Phi nhập khẩu khoảng 12,7 triệu tấn gạo và những nước nhập khẩu gạo lớn gồm có Benin, Senegal, Côte d’Ivoire, Guinea, Gambia, Ghana... Khẩu vị ăn uống của người Phi thay đổi theo thời gian, trình độ văn minh và mức sống du mục. Đa số người dân thành thị và vùng phụ cận cũng như giới giàu sang ưa thích dùng bánh mì và cơm gạo thay thế các thức ăn truyền thống như kê, lúa miến, bắp, khoai mỡ, vì chất lượng ngon hơn và tiện dụng trong nấu nướng (Trần Văn Đạt, 2005).

3.  NGUỒN GỐC CÂY LÚA CHÂU Á

Cây lúa châu Á (Hình 3) hiện chiếm ưu thế trong khâu sản xuất, tiêu thụ và thị trường thế giới vì năng suất cao gấp 2-3 lần lúa châu Phi. Nguồn gốc và phân phối của cây lúa này  khó có thể xác định rõ ràng vì cây lúa được con người thuần hóa và canh tác từ thời tiền sử. Nhiều cuộc nghiên cứu và thành tựu khảo cổ học từ cuối thế kỷ XIX đến nay đã giúp chúng ta hiểu khá rõ ràng từ nhiều góc cạnh vấn đề, cũng như giúp nhiều người tin tưởng hơn cho một số giả thuyết về nguồn gốc cây lúa trồng châu Á.

Từ lâu cuộc thảo luận nguồn gốc cây lúa châu Á sôi nổi ở hai nước Trung Quốc và Ấn Độ; nhưng rất nhiều chuyên gia đã nghiên cứu và đề nghị nhiều địa điểm nguồn gốc khác nhau tùy theo cách suy luận, phương pháp nghiên cứu và các tư liệu thu thập được từ lịch sử, dân gian và công trình khảo cổ học. Cho đến thập niên 1950, các nghiên cứu mới có cơ sở vững chắc hơn khi kỹ thuật di truyền tế bào được áp dụng và gần đây công nghệ di truyền hiện đại, sinh học, thông tin, thông minh nhân tạo hay AI, mô hình thuần hóa… đang giúp con người mở rộng tầm hiểu biết hơn.

Trong hai thế kỷ qua, có nhiều giả thuyết về nguồn gốc cây lúa trồng, nhưng 5 giả thuyết sau đây được các nhà khảo cứu đề cập đến nhiều nhứt: nguồn gốc Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, đa trung tâm (Trần Văn Đạt, 2010) và nguồn gốc một trung tâm. 

3.1.    Giả thuyết nguồn gốc Trung Quốc

Vào năm 1882, de Candolle đã dựa vào tài liệu của Bretschneider và Stanislav Julien đề cập về một nghi lễ tôn giáo đặt ra bởi hoàng đế Thần Nông (2 800-2 700 trước Công Nguyên - CN) và cho rằng cây lúa trồng ở Trung Quốc sớm hơn Ấn Độ. Trong nghi lễ này, Hoàng Đế và các quan cao cấp gieo trồng 5 loại hạt ngũ cốc: lúa, khoai ngọt, lúa mì và hai loại hạt kê. Do đó, ông de Candolle và nhiều người khác cho rằng các loại hạt giống trên xuất xứ từ Trung Quốc. 

Ông Chatterjee (1947, 1948) lúc đầu cho rằng cây lúa xuất xứ từ Ấn Độ vì người Ả Rập lần đầu tiên biết đến cây lúa từ Ấn Độ. Sau đó, Chatterjee thay đổi lập trường khi tìm thấy tên thông thường Oryza gần giống với chữ Hy Lạp Oruza và chữ Tamil Arisi và tất cả chữ này đều bắt nguồn từ chữ Ou-lizz, có nghĩa là lúa ở tiếng thổ ngữ Nengpo của người Tàu, cộng thêm tục lệ nghi lễ gieo lúa ở đời Thần Nông. Tuy nhiên, chữ dùng cho cây lúa trong triều đại nhà Chu đã liên quan đến thổ ngữ của miền biển Trung Quốc, Đông Dương và Thái Lan. 

Ông Ting (1949) đề nghị rằng cây lúa xuất phát từ Trung Quốc, vì loại thảo mộc này đã được nói đến lần đầu tiên trong văn học dưới thời Thần Nông và trong thời đại Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn (2 600-2 200 tr CN). Ting cho biết hạt lúa và lá lúa được tìm thấy trong cuộc khai quật Yan-shao 2 600 tr CN và cũng tìm thấy bộ xương (1 400-1 122 tr CN) có khắc đặc tính cây lúa. Ông cũng báo cáo đã tìm được mày lúa và hạt lúa ở địa điểm khai quật cách Uckan 150km trong vùng thung lũng sông Hoàng Hà. Ông cho rằng hạt lúa có liên hệ với “O. sativa f. spontanea ssp. Keng Ting”. Hạt lúa có chiều dài 6,97mm và chiều rộng 3,47mm với mày có lông, hạt có đuôi. Vài di tích khảo cổ lúa được tìm thấy lần đầu tiên ở vài nơi của nền văn hóa Lungshnoid. Các di vật khác được báo cáo ở thiên niên kỷ thứ III và IV tr CN. Mẫu lúa trồng cổ nhứt thuộc loại Indica được tìm thấy ở cuộc khai quật tại Ho-mu-tu, phía đông Trung Quốc vào niên đại 5 008 ± 117 tr CN hay cách nay khoảng 7 000 năm.

Theo Bellwood (2005:116), cuộc nghiên cứu gần đây ở động Xianrendong và Diaotonghuan, đông bắc tỉnh Jiangxi cho biết phytoliths[1] lúa dại đã có mặt cách nay khoảng 13 000 năm; nhưng trong thời kỳ lạnh giá và khô khan “Tiểu hạn” (Younger Dryas: 13 000-11 500 năm) lúa dại vắng mặt, đã làm cho các nhà nghiên cứu Trung Quốc xét lại phytoliths lúa mà họ cho rằng một phần do thuần hóa cách nay khoảng 9 000-8 000 năm tr CN! (Zhao, 1998, Lu et al., 2000). Nhưng ngoài những khám phá hang động trên, thông tin về giai đoạn chuyển hóa thành nền nông nghiệp sơ cổ còn rất thưa thớt.

3.2.    Giả thuyết nguồn gốc Ấn Độ

Ông Watt (1892) viết rất nhiều sách về lúa, đã tìm thấy vài loài lúa hoang ở India như rufipogon (hàng niên và đa niên) và Porterssia coarctata. Lúa gạo cũng được sử dụng ở nhiều nghi lễ trong xứ này. Do đó, Ông kết luận cây lúa trồng có thể xuất phát từ bán đảo Ấn Độ và lan rộng đến các nơi khác. Ramiah và Ghose (1961) ủng hộ lý thuyết của Watt. Cây lúa đến Trung Quốc vào khoảng 3 000 trước CN từ Nam Á và Đông Nam Á.

Ông Vavilov (1951) cho rằng Ấn Độ có thể là trung tâm nguồn gốc cây lúa và sau đó được di chuyển đến Trung Quốc. Roschevicz (1931) tin rằng Africa là nguồn gốc cây lúa sativa vì lục địa này có nhiều loài lúa hoang hơn Châu Á và lúa trồng có thể tự xuất hiện ở Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Dương.

Ông Gustchin (1938) đề nghị cây lúa có thể xuất hiện đầu tiên ở cả hai bên triền núi Hy Mã Lạp Sơn. Những hạt lúa hóa thạch được tìm thấy ở Hastinapur (Uttar Pradesh) có niên đại phóng xạ cách nay từ 2700 đến 3000 năm (Chowdhury and Ghosh, 1953).

Ở Ấn Độ, di vật lâu đời của lúa được tìm thấy ở vỏ trấu trộn với đất sét (vật dụng kiến trúc) tại Lothal (Quận Ahmedabad, Gujarat) được xác định niên đại 2 300 tr CN. Mười một mẫu lúa trên 2 000 năm được tìm thấy ở nhiều nơi và được báo cáo ở Ấn Độ. Hai mẫu lúa cổ xưa thuộc nền văn minh Harappan nổi tiếng ở Ấn Độ khoảng 2 200-1 700 tr CN (Nayar, 1973). Di vật cổ nhứt là hạt lúa và trấu được tìm thấy trên đồ gốm và phân bò ở Koldihwa, Uttar Pradhesh, có niên đại phóng xạ 6 570 và 4 530 tr CN (Vishnu-Mittre 1976; Sharma et al. 1980). 

3.3.    Giả thuyết nguồn gốc vùng núi Đông Nam Á

Tại vùng Đông Nam Á gồm cả Việt Nam với nhiều núi non, còn rất ít công cuộc khai quật trên diện tích rộng lớn để nghiên cứu so với các hoạt động khảo cổ học qui mô tại hai quốc gia lớn Trung Quốc và Ấn Độ; cho nên, các giả thuyết và công cuộc khảo cổ học của vùng này chưa có tiếng vang nhiều để tạo ra sức thuyết phục đối với các nhà khảo cổ học Tây phương. Ngoài ra, trong thiên kỷ từ V đến IV các vùng đồng bằng trũng thấp ở ven biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương bị biển tiến Flandrian xâm nhập có lúc lên đến +5 m trên mực nước biển hiện nay; nên làm ngập lụt, cuốn trôi hoặc hủy hoại nhiều di vật trong thời gian hai ngàn năm đó.

Trong thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết nguồn gốc cây lúa trồng ở vùng Đông Nam Á, bên cạnh giả thuyết về Trung Quốc và Ấn Độ.

Ông Hamada (1949) và Burkill (1953) xem Đông Dương là trung tâm xuất hiện của cây lúa vì cây lúa phân hóa sâu rộng hơn hết ở vùng này. 

Ông Vavilov (1951) cho rằng một số hoa màu gồm cả lúa bắt nguồn từ trung tâm Hindustan, gồm có Ấn Độ Assam và Myanmar (Miến Điện).

Ông Barrau (1966) cho rằng cây lúa có thể đã được thuần hóa ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương vì có rất nhiều lúa dại nổi tiếng ở vùng này. 

Năm 1952, nhà địa chất học Carl Sawer đưa giả thuyết thảo mộc đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông Solheim II, Giáo Sư nhân chủng học và học trò Chester Gorman thuộc Đại Học Hawaii muốn chứng minh giả thuyết này qua nhiều cuộc khai quật tại miền bắc Thái Lan, đặc biệt ở Non Nok Tha. Họ khám phá dấu tích hạt và trấu trên gốm có niên đại ít nhứt 6 000 năm và đồng ý với Ông Sawer nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong nền văn hóa Hòa Bình cách nay ít nhứt 8 000 năm tại miền bắc biên giới Thái Lan và Miến Điện, tuy nhiên cần phải khảo cứu thêm để đánh giá xác nhận (Solheim II, 1967 và 1971).

Ông Moringa (1972) nêu giả thuyết rằng cây lúa có thể bắt nguồn từ vùng núi non và thung lũng Đông Nam Á hơn là từ Ấn Độ, vì nhiều nền văn hóa cổ xưa xuất phát từ vùng núi non này. Sau khi lai giống giữa những giống lúa ở chân núi Hy Mã Lạp Sơn như Nepal, Bhutan và Shikkimu với các giống lúa ở 6 vùng sinh thái như (i) japonica ở vùng ôn đới; (ii) aus (hè-thu), (iii) boro (đông-xuân), (iv) aman (mùa) ở vịnh Bengal; (v) tjereh và (vi) bulu (javanica) ở Indonesia, Ông suy đoán lúa trồng xuất phát từ miền đông nam chân núi Hymalaya và bành trướng đến 6 vùng sinh thái trên. Lúa aus, boro, aman và tjereh thuộc nhóm lúa indica.

Ông Chang (1976), sau khi quan sát 34 000 dòng lúa thế giới ở ngân hàng gen IRRI, nhận thấy rằng có biến đổi rộng lớn trong các đặc tính và sinh thái của các giống lúa thu thập ở vùng núi non Đông Nam Á, gồm có Nepal, Shikkim, Assam (Ấn Độ), Bangladesh, Bắc Myanmar, Bắc Thái Lan, Bắc Lào và Tây Nam Trung Quốc.

Ông Nakagahra (1976) căn cứ trên nghiên cứu về sự phân bố của 12  loại lúa  isozymes từ các vùng khác nhau ở châu Á, nhận thấy có biến đổi lớn của các giống lúa từ Assam đến Laos và cho rằng nguồn gốc cây lúa trồng ở vùng núi non Đông Nam Á như Myanmar, Thái Lan và Vân Nam của Trung Quốc. 

Ông Watanabe (1997), sau khi nghiên cứu trên các vỏ trấu trong các lâu đài xưa cổ đổ nát để tìm lộ trình của lúa ở Á Châu, cho rằng trung tâm nguồn gốc trồng lúa ở vùng Assam-Vân Nam. 

3.4. Giả thuyết nguồn gốc đa trung tâm

Thông thường công tác nghiên cứu về địa danh và thời gian của nguồn gốc cây lúa căn cứ trên các di chỉ khảo cổ, lịch sử, ngôn ngữ học và chứng cớ thực vật học. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào một vài sự kiện mà kết luận thì không thể chính xác và khoa học, do các nguyên nhân sau đây:

(i)     Căn cứ vào nghi lễ gieo lúa xa xưa ở Trung Quốc để kết luận về nguồn gốc của cây lúa, lúa mì, khoai ngọt bắt nguồn từ nước này thì không chỉnh lắm, vì các hạt giống này có thể xuất xứ từ các nơi khác hơn Trung Quốc. Thí dụ, cây lúa mì xuất phát từ Trung Đông, khoai ngọt xuất xứ từ Nam Mỹ. 

(ii)   Di tích khảo cổ được sử dụng nhiều nhứt trong quá khứ cho các nghiên cứu về nguồn gốc thảo mộc. Tuy nhiên, các vùng có nhiều đồi núi và khí hậu nóng và ẩm ướt như Đông Nam Á với khí hậu gió mùa Tây Nam rất khó giữ được các mẫu di vật khảo cổ lâu dài, so với các vùng có khí hậu ôn đới hoặc lạnh và khô hơn như châu thổ sông Hoàng Hà, Dương Tử của Trung Quốc. Nếu chỉ căn cứ vào niên đại của các di vật khảo cổ tìm được, khả năng ước đoán về nguồn gốc có thể sai lầm lớn.

(iii) Ngoài ra, các tranh luận nêu trên thường căn cứ trên số lượng mẫu lúa nghiên cứu còn rất giới hạn.

(iv) Sự khác biệt tên lúa dại của loài O. sativa có thể gây ra suy đoán nhầm lẫn.

(v)   Các mẫu lúa hoang thật sự không còn nữa vì do sự lai giống thiên nhiên giữa các lúa trồng và các loại lúa hoang hàng niên. 

(vi) Không áp dụng các biện pháp tổng hợp trong công việc nghiên cứu.

Do đó, ông Chang (1976, 1985), chuyên gia di truyền lúa của IRRI, xem xét lại tất cả tin liệu và các dữ kiện từ khoa học, khảo cổ, sinh học tiến hóa, hệ thống sinh học và lịch sử nông nghiệp để đưa ra kết luận rằng lúa trồng ở châu Á có thể bắt nguồn từ nhiều địa điểm một cách độc lập và đồng bộ, vì những nơi này hiện có nhiều loài lúa hoang và lúa trồng cùng sống trong một môi trường. Những địa điểm này khởi đầu từ đồng bằng sông Hằng đến miền bắc Myanmar, miền đông bắc Thái Lan, bắc Lào, bắc Việt Nam, miền nam và tây nam Trung Quốc, và những vùng lân cận khác. Xin nhắc lại rằng ông Morinaga (1955) cũng nêu giả thuyết đa nguồn của cây lúa trồng vì nhiều biến đổi di truyền của cây lúa ở châu Á.

Điều này cũng có thể suy diễn cho nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện độc lập tại nhiều nơi, vì sự di chuyển xuyên quốc gia hoặc lục địa còn rất giới hạn vào thời đại Đá Mới cách nay 10-8 thiên kỷ. 

Giã thuyết 2 nguồn gốc (Nam Văn Hội Quán, 2017):

-          Năm 2007, Kovach và những cộng sự viên nghiên cứu biểu đồ gen của 2 nhóm lúa Japonica và Indica, nhận thấy chúng có những bộ gen rất khác nhau, nên chúng có khả năng được thuần hóa một cách độc lập nhau ở miền nam Trung Quốc và Ấn Độ (Hình 4).

-          Londo và cộng sự viên (2006) trong một nghiên cứu khác đã đưa ra giả thuyết lúa Indica được thuần hóa ở phía nam dãy Hy Mã Lạp Sơn còn Japonica được thuần hóa ở miền nam Trung Quốc.

-          Van Driem (1998) và Hazarika (2006) nêu giả thuyết lúa Indica có nguồn gốc tại vùng vịnh phía bắc bờ biển Bengal, còn Japonica có nguồn gốc tại trung lưu Dương Tử.

-          Oka (1988) đưa giả thuyết lúa có nguồn gốc tại lưu vực sông Hằng, Ấn Độ và hạ lưu sông Dương Tử, Trung Quốc.

                  Tóm lại, tất cả 4 giả thuyết nêu trên đều hội đủ 4 tiêu chuẩn cho nguồn gốc cây lúa châu Á (tổ tiên lúa hiện diện, khảo cổ xác nhận cây lúa xưa ở đó, loài nguyên thủy cây lúa cũng ở đó và biến đổi di truyền lúa trồng và lúa hoang khác biệt); nhưng theo tài liệu Trung Quốc chỉ có di vật lúa phát hiện lâu đời nhứt cách nay khoảng 10 000 năm trong các cuộc khai quật khảo cổ ở châu thổ sông Dương Tử. Nếu vậy, câu hỏi tiếp theo được đặt ra cây lúa châu Á được thuần hóa một lần duy nhứt hay nhiều lần suốt trong thời kỳ Đá Mới cách nay 10 000-5 000 năm? Trong dự án 3 000 bộ gen lúa, các chuyên gia IRRI kết luận lúa châu Á đã được thuần hóa nhiều lần một cách độc lập hàng ngàn năm (Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung, 2018), (IRRI, 2018). 

3.5.    Giả thuyết mô hình một nguồn gốc (News Network Archaeography, 2011) và (Ewen Callaway, 2014)

Đây là kết quả nghiên cứu gen vào đầu thế kỷ 21, nhờ phối hợp sử dụng tiến bộ khoa học từ công nghệ di truyền, tin học và mô hình đã giúp các nhà khảo cổ giải quyết một số vấn đề khó khăn gặp phải khi đi tìm nguồn gốc và lộ trình con người rời khỏi châu Phi cách nay cả trăm ngàn năm. Cũng vậy, từ sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp này để tìm nguồn gốc cây lúa trồng, một số khám phá mới được báo cáo gần đây về thời kỳ xuất hiện của loài lúa Japonica (hạt gạo tròn và dẻo - nếp) và lúa Indica (hạt gạo dài, không dẻo - tẻ), cũng như nguồn gốc cây lúa thuần đã gây nhiều ngạc nhiên trong giới chuyên ngành; dĩ nhiên, còn cần nghiên cứu rộng rãi hơn để có thêm dữ kiện chính xác.

Năm 2011, dựa vào mô hình nghiên cứu dữ liệu di truyền trong tiến hóa loài người, các nhà nghiên cứu của bốn trường đại học Mỹ: Đại học New York (Genomics & Biology), Đại học Washington ở Saint Louis (Biology), Đại học Stanford (Genetics) và Đại học Purdue (Agronomy), dưới sự dẫn đầu của Dr. Michael Purugganan (Đại học New York), đã đánh giá lại lịch sử tiến hóa và phát sinh loài lúa thuần bằng cách sử dụng các dữ liệu đã công bố trước đây, mặc dù còn giới hạn không đại diện cho tất cả các nhóm lúa trên thế giới. Kết quả nghiên cứu được đăng trong Kỷ yếu của Học viện Khoa học Quốc gia, Hoa Kỳ (Proceedings of the National Academy of Sciences - PNAS) như sau:

(1)  Nguồn gốc lúa Japonica và Indica
(Hình 5 và 6): Các chuyên gia PNAS đã sử dụng kỹ thuật toán vi tính hóa hiện đại, như đã dùng trước đây xem xét dữ liệu di truyền của tiến hóa con người, và đưa ra kết luận nhóm lúa Japonica xuất hiện trước Indica hàng ngàn năm. Sau đó, lúa Japonica lan rộng xuống miền nam như Đông Nam Á và Ấn Độ, nơi đó cây lúa này có lẽ đột biến hoặc/và lai giống với một loài lúa khác chưa biết nguồn gốc để tạo ra lúa Indica muộn hơn.

            Về điều kiện thổ ngơi, lúa Japonica thích ứng với vùng ôn đới, được trồng vào mùa hè ở Bắc Mỹ, châu Âu, Nhựt Bổn, Triều Tiên và miền bắc Trung Quốc. Cho nên, áp lực của mùa đông rét lạnh và sau thời kỳ tiểu hạn lạnh khô ngắn cách nay 13 000-11 500 năm, cùng với áp lực dân số có thể là nguyên nhân ra đời sớm của loài lúa Japonica. Trong khi lúa Indica bành trướng rộng rãi và mau lẹ khắp năm châu, nhờ khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thuận lợi. Đến nay, lúa Indica chiếm đến 80% tổng sản lượng thế giới, còn Japonica chỉ 20%.

Sự tách rời nguồn gốc lúa Indica từ lúa Japonica hiện còn là đề tài tranh cải trong giới khoa học. Có vài nghiên cứu về đặc tính  hạt dễ rụng của cây lúa hoang giúp loại lúa này lan rộng nhanh trong môi trường so với cây lúa trồng ít rụng; cho nên họ cho rằng gen chống hạt rụng trong lúa Indica có thể do đột biến từ lúa Japonica sinh ra trước. Nhưng tại sao lúa Indica không thể có đột biến hoặc do con người lai tạo tuyển chọn để có gen kháng hạt rụng trong khi cây lúa châu Phi (cũng loài Indica) có khả năng này (Ewen Callaway, 2014)?

Hơn nữa, Ông Tao Sang, một nhà di truyền thực vật tại Viện Thực vật học của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc đã tìm thấy gen sh4 ngăn chặn hạt rụng của cây lúa thuần, cho biết lúa Japonica và Indica có nguồn gốc di truyền rất khác nhau.

Hình 6: Lúa Indica (ảnh Internet)


Lúa Japonica

Một ví dụ khác là đột biến tương tự trong một gen được gọi là Rc trong lớp cám hạt lúa hoặc pericarp (làm mất màu đỏ của hạt gạo lúa hoang). Một số nghiên cứu về sau này cũng có kết luận nguồn gốc cây lúa theo cùng một mô hình: Japonica xuất hiện trước Indica. Tuy nhiên, họ còn tranh nhau giải thích tại sao Indica và Japonica khác biệt về mặt di truyền trên hầu hết bộ gen của chúng, nhưng lại chia sẻ chung những đột biến về đặc tính chính làm cho cây lúa dễ trồng hơn? Dù sao sự thật hiển nhiên là việc lai tạo giống của con người đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử rất sớm của lúa thuần (Ewen Callaway, 2014). Cũng vậy, năm 2018, Ông Cubry và cộng sự viên ở Montpellier, Pháp khi nghiên cứu nguồn gốc cây lúa châu Phi và gen hạt dễ rụng sh5 cho biết cả hai loại lúa trồng châu Phi và lúa châu Á đều do sự tuyển lựa của con người trong quá trình thuần hóa (Cubry và cộng sự viên, 2018).

  (2)  Nguồn gốc cây lúa thuần: Theo cuộc nghiên cứu trên, các chuyên gia này sắp xếp lại trình tự của 630 đoạn gen trên các nhiễm sắc thể chọn từ các giống lúa thuần và lúa dại cho biết chuỗi thứ tự gen phù hợp hơn với thuyết mô hình một nguồn gốc của các loài lúa thế giới. Họ suy diễn các loài lúa trồng hiện nay có cùng chung một nguồn gốc xuất phát duy nhứt từ miền nam lưu vực sông Dương Tử hay Trường Giang vì nơi đó các nhà khảo cổ Trung Quốc tìm thấy lúa hiện diện lâu đời nhứt, mặc dù số mẫu lúa được dùng trong nghiên cứu này chưa đủ đại diện cho tất cả các loại lúa trồng châu Á.

Ngoài ra, những nhà nghiên cứu PNAS trên cũng sử dụng "đồng hồ phân tử" của gen lúa để xem khi nào cây lúa trải qua thời kỳ tiến hóa thuần dưỡng. Họ tìm thấy nguồn gốc của cây lúa trồng cách nay khoảng 8 200 năm, trong khi hai nhóm lúa Indica và Japonica tách rời nhau cách nay khoảng 3 900 năm. Họ cho biết những kết quả nghiên cứu trên đây phù hợp với một số nghiên cứu khảo cổ học tại Trung Quốc, nơi các nhà khảo cổ đã phát hiện trong thế kỷ XX vừa qua các loài lúa thuần xuất hiện tại lưu vực sông Dương Tử cách nay độ 11 000 đến 10 000 năm; trong khi thuần hóa lúa ở sông Hằng, Ấn Độ chỉ cách nay khoảng 4 000 năm (News Network Archaeography, 2011) và (Ewen Callaway, 2014). Cây lúa  lan tỏa từ lưu vực sông Trường Giang đến các nơi khác ở miền nam như Nam Á, Đông Nam Á và miền đông của Trung Quốc (Hình 7).

Dù thế, một số chuyên gia lúa gạo quốc tế khác chưa tin tưởng hoàn toàn về các giả thuyết của nhóm chuyên gia Mỹ PNAS do dữ liêu về dòng lúa mẫu dùng trong nghiên cứu còn giới hạn. Ngay cả các nhà nghiên cứu Trung Quốc, nguồn gốc cây lúa có thể xuất phát tại vùng Châu Giang (Pearl river), Quảng Đông ở tận cuối miền nam Trung Quốc (vùng đất Việt cổ), thay vì ở miền nam sông Dương Tử thuộc trung nguyên xứ này. Ông Bin Han, nhà di truyền của Viện Sinh học Thượng Hải, thuộc Học viện Khoa học Trung Hoa (Shanghai Institute for Biological Sciences of the Chinese Academy of Sciences) và nhóm cộng sự đã nghiên cứu trên 1 000 giống lúa thuần và 446 lúa dại của nhiều nước châu Á, tìm thấy nhiều giống lúa Japonica và Inđica có di truyền rất gần với các giống lúa hoang ở châu thổ Châu Giang; nhưng vấn đề này vẫn còn tranh cải vì vùng Châu Giang không có di vật khảo cổ liên quan đến lúa gạo được phát hiện. Ông Han lý luận lưu vực sông Dương Tử là vùng đất màu mỡ nên có kho lúa tồn trữ được tìm thấy nơi đó, còn vùng Châu Giang kém phì nhiêu nên không có lúa dư thừa để tồn trữ trong thời tiền sử, nhưng có khí hậu cận nhiệt đới thích hợp cho trồng lúa hơn (Ewen Callaway, 2014).

Theo quan điểm của Tiến sĩ Dorian Fuller, nhà khảo cổ-thực vật học tại Đại học Warwick, Anh Quốc sau khi đến nghiên cứu thung lũng sông Dương Tử cho rằng những cư dân đầu tiên chỉ sống về nghề săn bắt, thức ăn chủ yếu là hạt sồi (acorn), hạt dẻ và cá. Nhóm nghiên cứu của Ông tìm thấy dấu vết hạt gạo xuất hiện bắt đầu từ 7 000 năm trước, nhưng những hạt gạo còn thay đổi hình dạng, chứng tỏ hạt gạo chưa được thuần hóa và hàng ngàn năm sau đó hạt sồi đã biến mất tại các địa điểm khảo cổ của Trung Quốc (Ewen Callaway, 2014).

Với tiến bộ công nghệ mau lẹ, Ông Fuller tin tưởng các nhà nghiên cứu đang trở lại dùng các công nghệ DNA xưa đã một thời tạo ra cách mạng hiểu biết về tiến hóa con người. Nếu họ có thể phục hồi DNA từ những hạt gạo cổ còn lại, các nhà nghiên cứu có thể xác định khi nào và ở đâu các gen thuần hóa quan trọng xuất hiện. Hầu hết hạt gạo tìm thấy từ các di chỉ khảo cổ đều bị cháy nám, và những nỗ lực tìm kiếm DNA từ ngũ cốc cổ xưa trong quá khứ đã thất bại; nhưng các máy trình tự hiện đại có thể giải mã các sợi DNA rất ngắn - có thể từ những mảnh gạo cổ còn lại có hàng ngàn năm tuổi. Điều đó có nghĩa là họ có thể tìm thấy DNA và thậm chí toàn bộ hệ gen từ hạt gạo cổ (Ewen Callaway, 2014); cho nên có thể đưa tới một cuộc cách mạng mới trong ngành khảo cổ học trong tương lai.

Ngoài ra, một khám phá mới đáng chú ý vừa xảy ra gần đây trong nông nghiệp lúa từ dự án “3 000 bộ gen lúa” (The 3 000 rice genomes project) của Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế IRRI tại Philippines với sự hợp tác của Viện Khoa học cây trồng thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS), BGI-Thẩm Quyến và 13 quốc gia, được bảo trợ bởi quỹ  Bill & Melinda Gates Foundation. Trong dự án này, các nhà nghiên cứu đã giải trình 3024 dòng lúa đại diện từ 89 quốc gia trên thế giới, bao gồm 2 466 dòng từ IRRI, và 558 dòng từ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Ngày 24-5-2018, họ đã báo cáo kết quả nghiên cứu trên tạp chí Nature số 557: Trong hai nhóm lúa chính Indica và Japonica, công tác phân tích dữ kiện cho thấy sự hiện diện của nhiều quần thể lúa mà trước đây chưa hề được báo cáo có nguồn gốc địa lý đặc biệt và có tính duy nhất. Bằng chứng khác cho thấy cây lúa châu Á đã được thuần hóa nhiều lần một cách độc lập qua hàng ngàn năm (Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung, 2018), (IRRI, 2018).

Kết quả cuộc nghiên cứu này phù hợp với giả thuyết nguồn gốc đa trung tâm của Dr. T.T. Chang (1976, 1985), nhưng có vẻ không cùng hướng với kết luận về lúa trồng một nguồn gốc được đăng trong Kỷ yếu của Học viện Khoa học Quốc gia Mỹ - PNAS nói trên. Ngoài ra, theo Dr. D. Fuller, trong nghiên cứu mô hình thuần hóa, bằng chứng di truyền và dữ liệu khảo cổ học cũng cung cấp thông tin về số lần thuần hóa đã xảy ra độc lập về mặt địa lý và văn hóa. Các dữ liệu có sẵn đã tiết lộ quá trình thuần hóa xảy ra chậm từ hàng trăm đến hàng ngàn năm, dường như có các quá trình song song trong các loài không liên quan từ các nơi khác nhau trên thế giới (Fuller, 2014).  

Hình 8:a) Sự thuần hóa của Oryza sativaOryza glaberrima.

                             b) Mối quan hệ giữa các phân loài Oryza sativa và tổ tiên của chúng, Oryza rufipogon Oryza nivara.

(Dấu hoa thị màu đỏ biểu thị thời gian phân kỳ của japonica từ dòng O. rufipogon (~ 18 kya). Ngày đầu tiên này có thể phản ánh sự phân kỳ giữa quần thể O. rufipogon hiện tại và quần thể lúa hoang tuyệt chủng là các tổ tiên của O. sativa variegata japonica. Bằng chứng cho thấy sự lai tạo đã dẫn đến sự xâm nhập của các gen từ japonica đến indica và aus (được chỉ ra bởi các mũi tên màu xanh). Lúa châu Á và châu Phi được thuần hóa một cách độc lập cách nhau 6.000 năm.) (kya: nghìn năm trước) (Wing, R. A, M. D. Purugganan và O Zhang. 2018). 

               Do đó, cũng trong 2018, nhà sinh học Michael Purugganan của Trung tâm nghiên cứu gen và Hệ thống Sinh học thuộc Bộ môn Sinh học của Đại học New York (người dẫn đầu trong bài viết đồng tác giả của nghiên cứu mô hình một nguồn gốc PNAS) cùng 2 nhà khoa học khác đã viết về “The rice genome revolution: from an ancient grain to green super rice”, được đăng trên tạp chí Nature Reviews Genetics. Các nhà khoa học này đã kết hợp nghiên cứu PNAS và dự án 3 000 bộ gen lúa của IRRI để đề nghị một mô hình mới theo hướng của PNAS, trong đó việc thuần hóa cây lúa dường như chỉ xảy ra một lần ở cây lúa Japonica tại vùng châu thổ sông Dương Tử, Trung Quốc và tiếp theo sự hồi giao của alen Japonica với một trong hai loại lúa hoang hoặc proto-Indica và/hoặc proto-Aus ngày nay, tạo nên các nhóm lúa khác nhau, như lúa Japonica nhiệt đới, lúa thơm, lúa Aus/Boro, bên cạnh hai nhóm chính Indica và Japonica (Wing et al., 2018) (Hình . Tại sao cây lúa châu Á chỉ được thuần hóa một lần ở Trung Quốc trong khi cây lúa châu Phi cũng loại Indica được thuần hóa độc lập khoảng 6 000 năm sau? 

Riêng tại Việt Nam, lúa hoang rất phong phú và hiện diện rải rác khắp lãnh thổ, từ Miền Nam đến Miền Trung và Miền Bắc. Lúa hoang đa niên O. rufipogon và lúa hoang hàng niên O. Nivara là những loài nguyên thủy, tổ tiên của các giống lúa trồng ngày nay Indica và Japonica, đã hiện diện lâu đời ở nước ta. Đó là một trong những yếu tố quan trọng xác nhận cây lúa có nguồn gốc ở Việt Nam. Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ cũng tin tưởng Miền Bắc Việt Nam là một trung tâm nguồn gốc lúa trồng của thế giới (Liên lạc cá nhân, 2000) (Trần Văn Đạt, 2005). Để có thông tin nhiều hơn, xin xem thêm Chương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa.

            Theo các thành tựu khảo cổ học Việt Nam, nền văn hóa Hòa Bình đã xuất hiện ít nhứt cách nay 12 000-10 000 năm (Viện Khảo Cổ Học, 1998). Nhiều nhà khảo cổ học thế giới cho rằng Việt Nam có thể góp phần vào vai trò sáng lập nền nông nghiệp sơ khai nhứt là di chỉ Đa Bút và Cái Bèo, có niên đại được xác nhận cách nay ít nhứt 8 000-6 500 năm (Bellwood, 2005). Bà Colani (1926), nhà khảo cổ học khám phá nền văn hóa Hòa Bình, đã tìm được ở hang động của di chỉ Bắc Sơn một mảnh đá có khắc hình lá họ Hòa thảo (lá dài với những gân song song), và cho rằng đó lá lúa (Hình 9) (Theo Bùi Huy Đáp, 1980).

Tại Việt Nam, lần đầu tiên các nhà khảo cổ học tìm thấy những hạt gạo cháy tại di chỉ Đồng Đậu (tỉnh Vĩnh Phúc) khai quật 1962, có niên đại phóng xạ 3 050 ± 100 năm (Hình 10) (Viện Khảo Cổ Học, 1999), nhiều hạt lúa có hình dạng khác nhau ở di chỉ Gò Mun có tuổi carbon 1 120 ± 100 tr. CN (Sakurai, 1987), và dấu vết phấn hoa của một dòng lúa nước được tìm thấy ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng) có niên đại phóng xạ 3 405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).

Hình 9: Hình lá cây thuộc họ Hòa thảo (B)

                      trên đầu mũi nhọn (A) (theo M. Colani)

Hình 10: Hạt gạo cháy vào thời kỳ văn hóa Đồng Đậu

(3 000 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)

Năm 2017, cuộc nghiên cứu được tài trợ bởi chính phủ Úc tại di chỉ khảo cổ An Sơn, Lộc Giang nằm trên tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, Đức Hòa, tỉnh Long An, với sử dụng kỹ thuật mới MicoCT cho biết: lúa thuần được tìm thấy trên các mảnh gốm vào thời đại Đá Mới sớm có niên đại 4 150-3 265 BP (Barron và những cộng sự viên, 2017). Do đó, ngành trồng lúa nước đã xuất hiện khắp nước, từ Miền Bắc đến Miền Nam cách nay ít nhứt 4 000 năm.

Ngoài ra, di chỉ Đa Bút có nền văn hóa duyên hải sớm hơn các nền văn hóa lục địa (từ 6 000-5 000 năm BP), với xuất hiện đồ gốm sớm, biết chăn nuôi, làm vườn và có thể trồng lúa, nhờ giao thương với các nước trong vùng và hải đảo. Ở Miền Nam, có nền nông nghiệp cuốc đá chuyên trồng lúa nương và lúa nước ở Miền Đông Nam Bộ cách nay ít nhứt 5 000-4 000 năm, và nông nghiệp phãng trồng lúa nước ở Miền Tây trong nền văn hóa Óc Eo và tiền Óc Eo cách nay khoảng 4 000-3 000 năm.

Do đó, miền Thượng du Bắc Việt có thể là một trong những trung tâm nguồn gốc lúa trồng châu Á nếu cây lúa này được thuần hóa nhiều lần qua hàng ngàn năm tồn tại theo giả thuyết đa trung. Từ đó, cây lúa phát tán đến các nơi khác theo người di cư và giới thương buôn.

Hy vọng các nhà khảo cổ học Việt Nam quan tâm nhiều hơn đến lịch sử nông nghiệp nội địa, thực hiện nhiều cuộc điều tra, thám sát và khai quật sâu rộng hơn để có khám phá mới các vết tích lúa gạo cổ xưa ngoài các thành quả hiện có. Đồng thời, các chuyên gia liên hệ cần tiếp xúc và sử dụng các công nghệ di truyền tiên tiến, sinh học, tin học, MicroCT, phytoliths, mô hình thuần hóa, thông minh nhân tạo AI và các tiến bộ mới khác để đóng góp trí tuệ nhiều hơn, giúp sự hiểu biết nguồn gốc cây lúa trồng trong nước được chính xác và khoa học. 

Công nghỆ MicoCT 

Gần Đây, MicoCT, một phương pháp mới có thể giúp tìm hiểu và xác định tình trạng thuần hóa của lúa còn tồn tại trong các mảnh gốm cổ một cách hiệu quả và không phá hủy. MicroCT (kích thước voxel (là đơn vị thể tích, được xác định trong không gian 3D) có thể là 1 µm hoặc nhỏ hơn) là phương pháp không phá hủy có thể cung cấp hình thái 3D một cách chi tiết để xác định và hình dung từng vỏ trấu, hạt lúa và vết sẹo cho vật liệu hữu cơ và dấu vết trong các mảnh gốm cổ, từ đó xác định mức độ thuần hóa và niên đại khảo cổ chính xác.

      Với phương pháp MicroCT mới này, một mảnh gốm cổ được cắt nhỏ, chụp ảnh cắt lớp (CT scan), quan sát bề mặt cắt bằng kinh hiển vi quang học để tìm vết tích vỏ trấu trên mặt cắt, phân tích các thành phần mảnh trấu để có thể xác định mức độ thuần hóa, niên đại... Tuy nhiên, cần thận trọng khi dùng kỹ thuật mới này vì việc sự sử dụng hiện nay còn quá hạn chế đối với các phương pháp khảo cổ sinh vật nhiệt đới hiện đại ở VN cũng như Đông Nam Á; cho nên khi mới áp dụng MicroCT cho các mảnh gốm cổ các nhà nghiên cứu không thể phân tích giải thích tinh tế hơn (Hình 11). 

Hình 11:  (A) - Ảnh của mảnh gốm 1 (An Sơn) cho thấy mảnh cắt được dùng cho chụp ảnh cắt lớp. (B) - Hình ảnh từ kính hiển vi quang học của dấu vết lúa trên bề mặt của mảnh gốm 1. (C) - Ảnh SEM của dấu vết lúa hiện trên mặt cắt của mảnh gốm 1. (D) - Ảnh hiển thị phần đất sét có mật độ cao, mỏng trong mảnh cắt của mảnh gốm 1. (E) - Ảnh cho thấy phần khoáng sản trong mảnh cắt của mảnh gốm 1. (F) - Ảnh của phần hữu cơ thấp trong mảnh cắt của mảnh gốm 1. (G) - Ảnh của vỏ trấu mục tiêu trong mảnh cắt của mảnh gốm 1, cho thấy hiện diện đặc biệt của lớp biểu bì. (H) - Ảnh của cuống hạt lúa trong mảnh cắt của mảnh gốm 1, được xác định bởi mối quan hệ vị trí với các mảnh vỏ trấu và vết sẹo lõm không đều của cuống hạt (Barron và cộng sự viên, 2017).

 TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.      Barron, A.,Michael TurnerLevi BeechingPeter BellwoodPhilip PiperElle GronoRebecca Jones, Marc OxenhamNguyen Khanh Trung KienTim Senden, and Tim Denham. 2017. MicroCT reveals domesticated rice (Oryza sativa) within pottery sherds from early Neolithic sites (4150-3265 cal BP) in Southeast Asia
(https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5547045/).
2.      Barrau, J. 1966. The Indo-Pacific area as a centre of origin and domestication of plants. Symp. Ethnobot., Centen. Celebrations Peabody Mus. Natur. Hist., Yale Univ., New Haven, Conn. Cited in K.C. Chang (1970).
3.      Bellwood, P. 2005. First Farmers:The Origins of Agricultural Societies. Blackwell Publishing, Victoria, Australia, 360 pages.
4.      Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa ở Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 563 trang.
5.      Burkill, I.H. 1953. Habits of man and the origins of cultivated species of the Old World. Proc. Linn. Soc. London 164: 12-41.
6.      Chang, T.T. 1964. Present knowledge of rice genetics and cytogenetics. Tech. Bull. 1: 96, IRRI, Los Banos, Philippines.
7.      Chang, T.T. 1976. The rice culture.
PhilosophicalTransactions of the Royal Society. London, B, 275:143-157.
8.      Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research, Vol 59 (4): 425-455.
9.      Chatterjee, D. 1947. Botany of wild and cultivated rices. Nature , London, 160: 234-237.
10.  Chatterjee, D. 1948. A modified key and enumeration of the species of Oryza Linn. Indian J. Agr. Sci. 18: 185-192.
11.  Chevalier, A. 1932. Nouvelle contribution à l’ étude systématique des Oryza. Rev. Bot. Appl. Agr. Trop. 12: 1014-1032.
12.  Chowdhury, K.A. and Ghosh, S.S. 1953. Rice in ancient in India. Sci. Cult.19: 207-209.
13.  Colani, M. 1926. Découverte du paléolithique dans la province de Hoabinh, L’Anthropolopie, vol XXVI, Paris, France.
14.  Cubry, P., Tranchant-Dubreuil, C., Thuillet, A., Francois, O., Sabot, F., Vigouroux, Y… 2018. The rise and fall of African rice cultivation revealed by analysis of 246 new genomes. Current Biology, vol. 28:14, 23-7-2018. (https://www.cell.com/current-biology/fulltext/S0960-9822(18)30702-4).
15.  de Candolle. 1883. Origines des plantes cultivées. Bibliothèque scientifique internationale. Paris.
16.  Ewen Callaway. 2014. Domestication: The birth of rice. Nature, 514: 58-59 (30 October 2014)
17.  FAOSTAT. 2018.
18.  Fuller, D. 2014. Modelling domestication. Institute of Archaeology, University College London 
19.  Ghosh, S. S. 1961. Further records of rice (Oryza ssp.) from ancient India. Indian Forest. 87: 295-301.
20.  Gustchin, G.G. 1938. Le riz: origine et histoire de sa culture. Riz Rizicult. 12:61-96.
21.  Hamada, H. 1949. Consideration on the origins of rice cultivation. Nippon Saku-motsu Gakkai Kiji, 18: 106-107.
22.  Hazarika M. 2006. Neolithic Culture of Northeast India: A Recent Perspective on the Origins of Pottery and Agriculture. Ancient Asia: 1:25–44.
23.  Higham, C. F. W. 1989. Rice cultivation and the growth of Southeast Asian civilization. Endeavour 13: 82-8.
24.  IRRI. 2018. Unlocking rice gene diversity for food security (Press release)
25.  Kovach, M. J., Sweeney, M. T., & Mccouch, S. R. 2007. New insights into the history of rice domestication. Trends in Genetics,23(11), 578-587.
26.  Londo, J. P., Chiang, Y., Hung, K., Chiang, T., & Schaal, B. A. 2006. Phylogeography of Asian wild rice, Oryza rufipogon, reveals multiple independent domestications of cultivated rice, Oryza sativa. Proceedings of the National Academy of Sciences,103(25), 9578-9583.
27.  Lu, H, Lieu, Z, Wu, N. et al. 2002. Rice domestication and climate change: phytoliths evidence from East China. Boreas 31:378-85.
28.  Morinaga, T. 1943. Cytogenetical studies on Oryza sativa L. VI. The cytogenetics of F1 hybrid of O. minuta Presl. and O. latifolia Desv. Jap. J Bot. 12:347-357.
29.  Morinaga, T. 1954. Classification of rice varieties on the basis of affinity. In Studies on Rice Breeding. Jap. J. Breed. Suppl. 4:1-14.
30.  Morinaga, T. 1955. History of Japonese rice. Norin, Kyokai, Tokyo (trong Matsuo, 1997).
31.  Morinaga, T. 1972. Japanese rice and its introduction from abroad. In Morinaga, T., Kihara, H., Tshukuba, J and Ueno, M. eds. History of Biology in Japan of dawn of its civilization, Yokendo, Tokyo (trong Matsuo, 1997).
32.  Nakagahra, M. 1976. The differentiation of cultivated rice based on geographical distribution of marker genes.  Current Advances in Breeding, 17: 35-44 (trong Matsuo, 1997).
33.  Nam Văn Hội Quán. 2017.Nguồn gốc của Nông Nghiệp Trồng Lúa (https://www.facebook.com/notes/).
34.  Nayar, N. M. 1973. Origin and cytogenetics of rice. Advances in Genetics, vol 17, Academic Press Inc., New York and London.
35.  News Network Archaeography. 2011. Rice's origins point to China, genome researchers conclude.
Read more at https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2011/05/rices-origins-point-to-china-genome.html#U6WJE18kxKrGAlp6.99.
36.  Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến name 1884. NXB Sài Gòn, 479 trang.
37.  Oka H. I. 1988. Origins of Cultivated Rice. Oxford, New York and Tokyo: Japan Scientific Societies Press and Elsevier.
38.  Olga F. Linares. 2002. African rice (Oryza glaberrima): History and future potential. PNAS (http://www.pnas.org/content/99/25/16360).
39.  Ramiah, K. and Ghose, R. L. 1951. Origine and distribution of rice. Indian, J. Gent. Plant Breed. 11: 7-13.
40.  Pilger, R. 1915. Neue und weniger bekannte Graminee aus Papuasien. Bot. Jaarb. 52: 167-176 (trong Nayar, 1973).
41.  Prodoehl, A. 1922. Oryzae monographice describuntur. Bot Arch. 1: 211-224, 231-255.
42.  Roscheviez, R. J. 1931. A contribution to the study of rice. Tr. Prikl. Bot. Genet. Selek. 27(4): 3-133 (in Russ.)
43.  Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tongking) delta of Vietnam. In History of Asian Rice, Shogakukan, Tokyo, 235-276.
44.  Sampath, S. 1961. Notes on taxonomy of the genus Oryza . Shokubutsugaku Zasshi 74: 269-270.
45.  Sampath, S. 1962. The genus Oryza: Its taxonomy and relationships. Oryza 1 (1): 1-29.
46.  Sampath, S. 1964. Suggestions for a revision of the genus Oryza. In Rice Genetics and Cytogenetics, Proc. Symp., Los Banos, Philippines, Elsevier, Amsterdam, p 22-23.
47.  Sasaki, T. 1935. On the distribution of species in the genus Oryza. In Papers on Crop Science Commemorating Prof. S. Kikkawas 25 years of Service, p 631-750 (in Japanese) (in Nayar, 1973).
48.  Sharma, S.  D. and Shastry, S.V.S. 1965. Taxonomic studies in genus Oryza IV. The Ceylones Oryza spp. Affin O. officinalis Wal. ex Wall. Indian J. Gentics, 25:168-1172. 
49.  Sharma, S. D. and Shastry, S.V.S. 1971. Phylogenetic studies in genus Oryza I.  Primitive characters. Riso, 20:127-136. 
50.  Sharma S. D. 1973. Evolution in genus Oryza. In Advancing Frontiers in Cytogenetics. Hindustan Publishing Corp., New Delhi, p 5-10.
51.  Shastry, S.V.S. 1965. Genomic differentiation in the genus Oryza. Indian J. Genet., 26: 258-282.
52.  Silva F, Stevens C.J, Weisskopf A, Castillo C, Qin L, Bevan A, et al. 2015. Modelling the Geographical Origin of Rice Cultivation in Asia Using the Rice Archaeological Database. PLoS ONE 10(9): e0137024 (https://doi.org/10.1371/journal.pone.0137024).
53.  Solheim II, W.G. 1967. Two pottery traditions of late prehistoric times in Southeast Asia. Historical Archeological and Linguistic Studies on Southern China, Southeast Asia and the Hong Kong region. Ed. F. S. Drake. Hong Kong University Press, Hong Kong 1967, p. 15-22.
54.  Solheim II, W.G. 1971. New light on a forgotten past. National Geographic, Vol. 139, No. 3.
55.  Tateoka, T. 1963. Taxonomic studies of the genus Oryza. III. Key to the species and their enumeration.  Shokubutsugaku Zasshi 76: 165-173.
56.  Tateoka, T. 1964. Taxonomic studies of the genus Oryza. Rice genetics and Cytogenetics, Proc. Symp., Los Banos, Philippines, Elsevier, Amsterdam, p 15-21.
57.  Ting, Y .1949. Origin of rice cultivation in China. Coll. Agr. Sun. Yat. Sen. Univ., Agron. Bull., Ser. III No. 7: 18 (in Chinese).
58.  Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo trên thế giới: Hiện trạng và khuynh hướng phát triển trong thế kỷ 21. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 502 tr.
59.  Trần Văn Đạt. 2010.Lịch sử trồng lúa Việt Nam. Nhà in 5 Star Printing, Nam California, Hoa Kỳ, trang 17-32.
60.  van Driem G. 1998. Neolithic correlates of ancient Tibeto-Burman migrations. In: Blench R and Spriggs M, editors. Archaeology and Language II: Archaeological Data and Linguistic Hypotheses, p. 67-102.
61.  Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
62.  Viện Khảo Cổ Học, 1999. Thời Đại Kim Khí Nam Bộ. Khảo Cổ Việt Nam, Tập II. NXB Khoa Học Xã Hội, tr. 349-398.
63.  Vavilov, N. I. 1951. The Origin, Variation, Immunity and Breeding of Cultivated Plants, Chronica Botanica, Waltham, Massachusette, pp 364.
64.  Vishnu-Mittre. 1976. Discussion. In Early history of agriculture, Philosophical Transactions of Royal Society of London B275: 141.
65.  Watanabe, Y. 1997. Phylogeny and geographical distribution of genus Oryza. Science of the Rice Plant, Vol. 3: Genetics, Food and Agricutlutre Policy Research Center, p. 29-39.
66.  Watt, G. 1892. Rice. In Dictionary of Economic Products of India, Superintendent, Gov. Printing, Calcutta, 5: 498-653.
67.  Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung. 2018.https://d.adroll.com/cm/index/outhttps://d.adroll.com/cm/n/outGenomic variation in 3,010 diverse accessions of Asian cultivated rice. Nature, 557: 43-49.
(https://www.nature.com/articles/s41586-018-0063-9).
68.  Wing, R. A, M. D. Purugganan và O Zhang. 2018. The rice genome revolution: from an ancient grain to green super rice. Nature Reviews Genetics19, 505–517(https://www.nature.com/nrg/). 
69.  Zhao, Z. 1998. The Middle Zangtze region in China is one place where rice was domesticated. Antiquity 72:885-96.

 CHƯƠNG 3

TIẾN HÓA CÂY LÚA

VÀ CÁC LOẠI LÚA

 Ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, cây lúa hoang có thể hiện diện cách nay ít nhứt 18 000 năm sau thời kỳ băng giá cực đại. Đến 10 000-8 000 năm trước, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong nền Văn Hóa Hòa Bình; đây là cuộc Cách Mạng Xanh đầu tiên của nhân loại. Ngoài cuộc sống hàng ngày với săn bắt, các cư dân biết hái lượm trái cây, đậu, khoai và sau đó hạt lúa để có thêm thức ăn hàng ngày. Cây lúa hoang được cư dân thuần hóa từ thiên nhiên hàng ngàn năm để tiến đến sản suất có hệ thống như nghề canh tác lúa rẫy du canh. Loại Hòa thảo này tiến hóa và phát triển không ngừng dưới sức tác động con người và môi trường, qua các nền văn hóa Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Suối Linh-Cầu Sắt, Đông Sơn, cho đến thời kỳ Bắc thuộc, Độc Lập phong kiến, Pháp thuộc, cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng và thời Đổi Mới kinh tế trong nước.

Tiến trình tiến hóa của cây lúa được nhận biết dễ dàng qua hình dạng cây lúa từ loài hoang dại ít chồi, thân nhỏ, lá dài nhỏ màu xanh lợt cong rũ, và hạt dễ rụng khi chín đã phát triển thành cây lúa trồng: lúa rẫy, lúa nước cổ đại; qua thời gian trở nên cây lúa cổ truyền không thay đổi nhiều về hình dạng; sau đó được tuyển chọn, lai tạo giống để trở thành cây lúa cải tiến; và bước tiến hóa cuối cùng do khám phá gen lùn để trở nên cây lúa hiện đại thấp giàn, lá thẳng đứng, màu xanh đậm, phản ứng đạm cao, nhiều chồi, không đổ ngã, hạt ít rụng và năng suất cao.

Hiện nay, cây lúa có mặt từ Nam ra Bắc, từ vùng đồng bằng đến các miền đồi núi, từ các vùng nước mặn, nước lợ, phèn đến nước ngọt, từ nơi ngập nước đến các vùng khô ráo, từ ruộng lúa nổi của đồng bằng sông Cửu Long đến ruộng bậc thang ở Sapa, Yên Bái…, và cây lúa được trồng quanh năm ở nhiều nơi, với chu kỳ sinh lý và các hình dạng chồi, lá, hạt lúa khác nhau tiếp nối thay đổi không ngừng theo thời gian và không gian. 

1.   TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÂY LÚA

Thủy tổ của Cây lúa có thể xuất hiện trên siêu lục địa nguyên thủy Gondwanaland cách nay khoảng 130 triệu năm và phân chia nhiều loài khi siêu lục địa này tách rời nhau. Dòng lúa Oryza phân bố ở vùng xích đạo có dạng đa niên và hàng niên, cao từ 30 cm đến 2 m. Sự tiến hóa của Oryza trải qua 3 giai đoạn được chia thành 3 nhóm loài khác nhau (Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang, 2007):

-          Padia (nguyên thủy): cây thân nhỏ, ưa đất dễ thoát nước trong rừng ẩm nhiệt đới Đông Nam Á, gồm có 3 nhóm loài điển hình: O. schlectrie, O. meyeriana và O. ridleyi.

-          Angustifolia (hơi tiến hóa): Cây nhỏ, thích ứng với đất ngập nước, phát triển vùng nhiệt đới châu Phi, gồm có 4 loài điển hình: O. perrierie, O. tisseranti, O. brachyantha O. angustifolia.

-          Euoryza (tiến hóa): Thân to hoặc trung bình, ưa ánh sáng và thích ứng với đất ngập nước, gồm có hai series: ser Latifoliae (2n có khi 4n)và ser Sativae (2n=24). Đây là nhóm loài tiến hóa nhứt của dòng Oryza và có 2 loài lúa trồng là O. sativa hay lúa châu Á và O. glaberrima hay lúa châu Phi.

Cây lúa hoang (O. rufipogon, Griff.) có thể hiện diện trên đất Việt cổ sau thời kỳ băng giá cực đại cuối cùng khoảng 20 000-18 000 năm, được con người thuần hóa ven những đầm lầy và nương rẫy gần nơi cứ trú có lẽ sau thời kỳ lạnh giá, khô khan “tiểu hạn” (Younger dryas) xảy ra cách nay 13 000 - 11 500 năm. Dưới các ảnh hưởng của môi trường khắc nghiệt như khô hạn, nhiệt độ thay đổi quá lớn và ảnh hưởng gió mùa hoặc đột biến, một số lúa hoang nguyên thủy đa niên đã dần trở nên loài lúa hoang hàng niên (O. nivara) để thích ứng với các điều kiện địa phương. Cây lúa hoang đã trở thành lúa trồng (O. sativa) ngày nay khoảng 8 000-7 000 BP và năng suất tăng từ vài chục kí lô lúa vào thời lập quốc lên 0,54 tấn/ha ở đầu CN và 5,6 tấn/ha năm 2017 (Xem thêm Chương 5: Giai đoạn săn bắt-hái lượm và thuần hóa cây lúa thời Nguyên thủy). Sự tiến hóa này được thể hiện qua 3 quá trình: tiến hóa từ di truyền, tiến hóa do môi trường và tiến hóa nhân tạo. 

1.1.   Tiến hóa di truyền

Từ lúa hoang thành lúa trồng: Vào 1892, Watt đã đề nghị rằng sự tiến hóa này được hình thành bằng cách giảm bớt và biến thái hình dạng cây, hạt mất đuôi, và mày lúa bên dưới rút ngắn nhưng rộng hơn. Bây giờ sự tiến hóa này được biết rõ ràng hơn và sự thay đổi có thể xác định chính xác, gồm có sự thay đổi thói quen qua lai tạo hoặc đột biến từ cây có lá cong oằn thành lá thẳng đứng và gom sát lại; từ hạt dễ rụng thành không rụng, từ gié lúa rời rạc thành gom chặt, tăng trọng lượng và số hạt trên mỗi gié lúa, từ trấu đen trở nên nâu hay vàng óng, từ lớp bì mô (pericarp) đỏ thành trắng (Nayar, 1958). Ngoài ra, đặc tính của tiến hóa còn thể hiện qua sự biến đổi từ cây lúa đa niên thành hàng niên và từ sự thụ phấn chéo một phần trở nên tự thụ phấn ưu thế.  

Một số chuyên gia đã nghiên cứu sự tiến hóa của các dòng Oryza và phân biệt ra làm 3 giai đoạn: từ lúa hoang tiến hóa theo thời gian và không gian, bằng đột biến hoặc dị biến để trở nên loài lúa cải tiến và phải trải qua giai đoạn trung gian lâu dài. Loài lúa hoang ban sơ thích sống nơi rừng rú ẩm thấp hoặc nơi có bóng râm, ít ánh sáng và những vùng đất dễ thoát nước. Ngược lại, loài lúa cải tiến thích sống ngoài ánh sáng và phát triển mạnh mẽ nên thân lúa to hơn, lá rộng và sống trong nước (Porterès, 1950; Sharma và Shastry, 1971). Thời gian tiến hóa từ loài lúa hoang đến khi có hệ

thống sản xuất cây trồng trải qua khoảng ít nhứt 1 000 năm hoặc hơn (Nguyễn Sinh-BBC News, 2007).

Sự tiến hóa của cây lúa Oryza được phác họa trong Hình 1. Loài Oryza sativa có thể tiến hóa trực tiếp từ O. nivara, loài lúa hoang hàng niên, hiện có nhiều trong vùng Đông Nam Á; và loài lúa nivara này có thể phát sinh do tiến trình phát triển từ loài O. rufipogon, một loại lúa hoang đa niên phổ biến ở châu Á, xuyên qua quá trình thuần hóa hoặc đột biến bởi thiên nhiên và con người. Sự thuần hóa lúa hoang có thể tiến hóa do trùng điệp lai tạo và tuyển chọn thiên nhiên (Oka and Morishima, 1997) hoặc do nhiều chu kỳ chuyên biệt - lai giống (Harlan, 1966 và 1975). Ở Việt Nam, lúa hoang O. nivara xuất hiện nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long và nhiều nơi khác và O. rufipogon được tìm thấy nhiều nơi (Bùi Huy Đáp, 1980; Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang, 2001). 

1.2.   Tiến hóa do môi trường

Dưới các ảnh hưởng của môi trường khắc nghiệt như khô hạn hoặc nhiệt độ thay đổi quá lớn, nhiều loài lúa hoang nguyên thủy đa niên đã trở thành loài lúa hàng niên để thích ứng với phong thổ địa phương, khí hậu gió mùa. Về phương diện sinh thái và địa dư, cây lúa châu Á đã tiến hóa lâu dài để thích ứng với các môi trường khác nhau và trở thành 3 nhóm chính: Indica thích hợp với khí hậu nhiệt đới, Japonica (hay Sinica) thích ứng với khí hậu ôn đới cho năng suất cao, và Javanica (Japonica nhiệt đới) có đặc tính trung gian ở giữa hai loại trên (Hình 1).  

 

       Siêu lục địa Gondwanaland

                                              Tổ tiên chung                                   

                 Nam và Đông Nam Á                   Tây Phi Châu 

Lúa hoang đa niên O. rufipogon                   O. longistaminata

Lúa hoang hàng niên O. nivara                   O. breviligulata

Lúa trồng O. Sativa           O. sativa            O. glaberrima    

     Indica               Japonica                                                           

                        ôn đới       nhiệt đới

 

  Hình 1: Sơ đồ tượng trưng cho tiến trình chuyên biệt của hai loại lúa trồng thế giới (Khush, 1997)

             Tuy nhiên, năm 2011, một nhóm chuyên gia Mỹ kết hợp sử dụng công nghệ tin học, di truyền, toán học và mô hình thuần hóa đã đưa ra giả thuyết cây lúa Indica phát sinh từ lúa Japonica sau 3 900 năm, do hiện tượng đột biến thiên nhiên, nhưng giả thuyết này còn là đề tài tranh luận (Xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa trồng).

Hiện nay lúa Indica được trồng trên 80% diện tích trồng lúa thế giới và cung cấp thức ăn cho 4 tỷ người, chủ yếu các nước đang phát triển. Còn lúa Japonica chiếm độ 11% và Javanica khoảng 9%. Ba loại lúa này khác nhau về hình dạng của cây, thân, lá và hạt, thành phần cấu tạo hạt, đặc biệt chất amylose và amylopectin, khả năng chống hạn, kháng lạnh, v.v. (Bảng 1). 

Bảng 1: Đặc tính của các loài lúa Japonica (hay sinica), Javanica và Indica

Đặc tính

 

Japonica

Javanica

Indica

1.   Hình dạng hạt lúa

Ngắn

Rộng

Thon và nhỏ

2.  Chiều dài phiến lá No.2

Ngắn

Dài

Dài

3.   Góc của lá cờ và thân

Nhỏ

Nhỏ

Rộng

4.   Cấu trúc của các thành phần cây lúa

Trung bình

Rộng

Nhỏ

5.   Lá cờ

Ngắn, hẹp

Dài, rộng

Dài, hẹp

6.   Số chồi

Nhiều

Ít

Nhiều

7.   Loại chồi

Thẳng đứng

Thẳng đứng

Tỏa rộng

8.   Lông của lá lúa

Không có

Ít

Nhiều hơn

9.   Lông của mày lúa

Dầy đặc

Dầy đặc

Thưa

10. Đuôi lúa

Thường không có

Thường có

Thường không có

11. Hạt lúa rụng

Khó

Khó

Dễ

12. Chiều dài gié lúa

Ngắn

Dài

Trung bình

13. Nhánh của gié lúa

Ít

Nhiều

Trung bình

14. Tỉ trọng gié lúa

Cao

Trung bình

Trung bình

15. Sức nặng của gié lúa

Nặng

Nặng

Nhẹ

16. Chiều cao cây lúa

Ngắn

Cao hơn

Cao

17. Độ ngã

Khó ngã

Trung bình

Dễ ngã

18. Sức nẩy mầm

Chậm

Nhanh

Nhanh

19. Chịu lạnh

Cao

Ít chịu lạnh

Không chịu lạnh

20. Chịu hạn

Ít

Cao

Cao

Nguồn: Theo Matsuo (1952) và Chandraratna (1964)           

Thêm nữa, 3 nhóm lúa này còn có những đặc tính dễ nhận biết như sau:

-          Lúa Japonica (hay Sinica): Có hạt tròn, ngắn, ít amylose (14-17%), thường không có đuôi, gié ngắn, nhiều chồi thẳng đứng, cây thấp giàn, dễ chịu lạnh và không kháng hạn. Lúa japonica được trồng ở các vùng ôn đới. 

-          Lúa Indica: Có hạt dài thon, nhiều chất amylose (trên 21%), không có đuôi, gié trung bình, thân cây tỏa rộng, cao giàn, không chịu lạnh và có thể chịu hạn hán. Lúa indica rất phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

-          Lúa Javanica (Japonica nhiệt đới): Có tính chất trung gian giữa lúa Japonica và lúa Indica. Loại lúa này có hạt to rộng, chất amylose cao, thường có đuôi, trấu có lông dài, ít chồi, gié dài, thân cây dày thẳng đứng, cây rất cao giàn, không chịu lạnh, chịu hạn hán. Lúa javanica được trồng ở Indonesia, chủ yếu Java và Sumatra.

Ngoài ra, trong thập niên 1980, Glaszmann (1987) đã áp dụng kỹ thuật phân tích “isozyme loci” trong nghiên cứu sâu hơn giữa các nhóm lúa nói trên. Ông có thể phân biệt O. sativa ra làm 6 nhóm: Nhóm I (thuộc indica), II, III, IV, V và VI (thuộc japonica); nhưng nhóm II và III gần giống với nhóm I (indica) và nhóm IV và V gần giống nhóm VI (japonica). Đa số các giống lúa thơm như Basmati 370, Khao dawk mali 105 và lúa rẫy thiên về nhóm VI.

1.3.   Tiến hóa do con người

Vào thời đại nông nghiệp sơ khai trong nền Văn Hóa Hòa Bình, cây lúa hoang được con người thuần dưỡng quanh những đầm lầy và những vùng đất cao ẩm ướt gần nơi cứ trú. Ban đầu, con người lượm các hạt lúa chín rơi rụng trên đất để ăn, sau đó họ hái các hạt bắt đầu chín còn lại trên cây lúa hoang (gié lúa). Qua nhiều năm tháng, khi mùa mưa đến họ biết gieo hạt quanh nơi cư trú rồi chờ cây mọc, lớn lên cho hạt chín để hái ăn. Rồi họ biết lựa chọn các gié lúa hạt to và những cây lúa có hạt ít rơi rụng lúc chín để trồng lại mùa tới sản xuất nhiều hạt hơn. Sau cùng, họ có khuynh hướng tuyển lựa những cây lúa tốt, với nhiều gié, hạt nặng to để dành trồng mùa kế tiếp; tác động này làm cho cây lúa ngày càng cải tiến hơn để sản xuất nhiều hạt hơn. Bên cạnh đó, sự thụ tinh chéo của cây lúa, dù ít 5-10%, cũng tạo nên những giống lúa mới.

Cho đến thế kỷ XVIII, nhờ kỹ thuật lai tạo, cây lúa vốn từ ít chồi đã trở nên nhiều chồi trong điều kiện môi trường thuận lợi, gié từ ít hạt (30-40 hạt/gié) trở nên nhiều hạt (100-300 hạt/gié), cây có nhiều quang cảm trở nên ít hoặc không quang cảm, từ dài ngày (135-210 ngày) trở nên ngắn ngày (60-100 ngày), ít phản ứng đạm trở nên phản ứng đạm cao, chỉ số thu hoạch thấp (0,2-0,3) trở nên cao (0,4-0,6), và cuối cùng năng suất lúa từ thấp (vài chục kg/ha) tăng lên cao (10 000 - 11 000 kg/ha) trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang nỗ lực lai tạo giống siêu lúa xanh có năng suất từ 13-15 t/ha và họ đã thành công ở vùng ôn đới với mùa hè ngày dài.

            Công nghệ sinh học càng tiến bộ cây lúa càng biến đổi nhiều hơn về hình dạng và di truyền để đáp ứng nhu cầu nhân loại. Chẳng hạn, cây lúa chẳng bao giờ sản xuất hạt gạo màu vàng, nay đã có thể sáng tạo hạt vàng chứa nhiều tiền sinh tố A và chất sắt, nhờ kỹ thuật biến đổi gen. 

1.4.   Năng suất tiến hóa

Năng suất lúa tiến triển chậm chạp theo thời gian, từ thời tiền sử đến hiện đại, từ lúa hoang đến lúa trồng, và lúc trình độ con người man di đến văn minh kỹ thuật. Chẳng hạn, ở Trung Quốc, năng suất tăng từ 0,34 t/ha truớc năm 206 tr CN lên 0,59 t/ha trong 220-265 sau CN; 0,85 t/ha trong 581-906; 1,45 t/ha trong 1260-1368; và 1,61 t/ha trong 1644-1911. Trong khi đó, ở Nhựt Bổn, năng suất tăng nhanh hơn: từ 1,01 t/ha trong 800-900 sau CN lên 1,92 t/ha trong 1720-1840; 2,60 t/ha trong 1893-1897; và 3,10 t/ha trong 1903-1907 (Bảng 2). Quả đây là những bước tiến nhảy vọt trong lãnh vực nông nghiệp vào thế kỷ XVIII - XIX và đầu thế kỷ XX, nên có thể gọi đây là những cuộc Cách Mạng Xanh của Nhựt Bổn.

Ở Việt Nam, năng suất bình quân ước tính khoảng 540 kg lúa/ha vào đầu CN tăng lên độ 1 t/ha vào thế kỷ X (chấm dứt đô hộ Nam Hán) nhờ tiếp cận với kỹ thuật Trung Quốc; 1,2 t/ha vào đầu Pháp thuộc do cải thiện hạt giống và chăm sóc; khoảng 2 t/ha vào đầu cuộc Cách Mạng Xanh (1968) do sử dụng kỹ thuật Tây phương; và 5,6 t/ha trong 2017 do phối hợp cải tiến di truyền (với gen lúa lùn) của giống lúa hiện đại, sử dụng nhiều chất nông hóa và khai thác thủy lợi. 

2.   CÁC LOẠI LÚA Ở VIỆT NAM

Trong hơn 100 năm qua, số giống lúa địa phương từ 1 200-2 000 giống vào đầu thế kỷ XX tăng lên hơn 14 000 giống hiện nay, chứng tỏ lúa địa phương đang tiến hóa theo thời gian và không gian khá nhanh, nhưng cũng có một số giống trùng nhau nhưng khác tên và đã thích ứng với điều kiện phong thổ địa phương. Về mặt tiêu thụ, có nhiều loại lúa gạo khác nhau được tìm thấy trên thị trường như: Lúa hoang, lúa nếp, lúa thơm, lúa gạo màu dinh dưỡng, lúa nổi, lúa hữu cơ, lúa GAP và lúa nhập nội (Xem thêm Chương 14:Tiến hóa quy trình sản xuất lúa - Các giống lúa). 

            Bảng 2: Năng suất lúa tại Trung Quốc và Nhựt Bổn trong các thế kỷ qua (t/ha). 

 

Năm

 

Trung Quốc

 

Năm

 

Nhựt Bổn

 

Trước 206 tr CN

0,34

 

 

206 tr CN - 206 sau CN

0,40

 

 

220-265

0,59

 

 

265-317

0,74

800-900

1,01

317-420

0,83

1550

1,65

581-906

0,85

1720

1,92

960-1279

1,04

1840

1,92

1260-1368

1,45

1878-1887

1,85

1368-1644

1,95

1893-1897

2,60

1644-1911

1,61

1903-1907

3,10

 

    Nguồn: Theo Greenland, 1997. 

2.1. Lúa hoang

Lúa hoang, còn gọi là lúa dại, lúa ma hay lúa trời... sống thiên nhiên ở vùng đất hoang vu, các đầm lầy nước ngập, mương rạch, ao hồ hàng trăm ngàn năm; hoặc xâm nhập vào các ruộng lúa gieo thẳng nhiều năm (còn gọi lúa cỏ). Lúa hoang cũng là nguồn cung cấp thực phẩm cho một số địa phương, như miền núi, đồng bằng sông Cửu Long. Huyện Tam Nông, vùng trũng nhứt của Đồng Tháp Mười thuộc Vườn Quốc Gia Tràm Chim, là nơi duy nhứt còn khoảng 200 ha lúa hoang (Oryza rufipogon) hoặc ít hơn.

 

Hình 2: Đập lúa hoang (ảnh: Lâm Tấn Tài)

  

 


            Vào mùa nước nổi rút đi, dân địa phương đi hái lúa ma từ đêm khuya đến sáng sớm (nếu trễ hạt rụng mất nên gọi lúa ma) với chiếc xuồng nhỏ có tấm mê bồ cao 1 thước để che lúa khi dùng gậy hay dầm đập mạnh vào bông lúa cho hạt rơi vào xuồng (Hình 2). Viện Lúa Ô Môn đã tạo giống AS 996 (OM 2431) từ loại lúa hoang này và IR 64.

Tại Việt Nam, lúa hoang hiện diện rải rác khắp lãnh thổ. Sự phân phối của một số giống lúa hoang như Oryza rufipogon, Oryza nivara, Oryza officinalis, Oryza granulata được ghi nhận trong Bảng 3.

Lúa hoang xuất hiện nhiều nơi trên thế giới (Bảng 4). Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy 25 loài lúa hoang trên thế giới, bên cạnh 2 giống lúa trồng của châu Á (Oryza sativa) và châu Phi (Oryza glaberrima). Lúa hoang hiện được các nhà khoa học đặc biệt lưu ý, vì chúng cung cấp một số gen quý giá cho lai tạo giống mới hoặc sử dụng trong công nghệ sinh học, nhằm chống kháng sâu bệnh và chịu đựng các môi trường khó khăn, như mặn, phèn, hạn hán, lũ lụt, v.v. 

Bảng 3: Phân phối các giống lúa hoang ở Việt Nam (Tài liệu thu thập từ 1998) 

Loài

Genome

Phân phối

 

Oryza rufipogon

AA

Thung lũng Điện Biên Phủ, cao nguyên Trung Phần, vùng bờ biển miền nam Trung Phần, và đồng bằng sông Cửu Long

Oryza nivara

AA

Cao nguyên Trung Phần

Oryza officinalis

CC

Cao nguyên Trung Phần, đồng bằng sông Cửu Long

Oryza granulata

Chưa biết

Tây bắc, Đông bắc, vài nơi ở cao nguyên Trung Phần

 

Nguồn: Nguyễn Hữu Nghĩa et al., 2001a. 

Chẳng hạn, O. nivara có gen kháng lúa cỏ lùn; O. longistaminata, O. officinalis có gen kháng bệnh bạc lá; O. minuta có gen kháng bệnh cháy lá, rầy nâu; O. rufipogon có gen chịu đựng phèn chua, v.v.

Lúa hoang có các đặc tính nổi bật như: tự thụ tinh bán phần, thụ phấn chéo cao, hạt chín sớm, không đều và dễ rụng, quang cảm cao, hưu miên dài và mọc mầm không đồng đều. Trong khi lúa trồng có năng suất cao hơn và ổn định, tự thụ phấn cao, hạt chín đều và ít rụng, ít hưu miên, quang cảm thay đổi từ ít đến nhiều tùy theo môi trường và lề lối canh tác, và mọc mầm đều đặn (Bảng 5). Thông thường lúa hoang được phân làm hai loại (Nayar, 1973):

-          Lúa hoang đa niên là loại lúa nước sống ở nhiều vùng khác nhau, cây thẳng và bông lúa nhánh thưa, mang các hạt lúa mỏng, xéo nghiêng và đỉnh hạt có đuôi. Bao phấn chỉ bằng hai phần ba hoặc hơn chiều dài hoa lúa. Lúa hoang này giống như rufipogon đa niên.

-          Lúa hoang hàng niên là cây lúa thẳng đứng hoặc oằn cong, mang các gié lúa với hình dạng và kích thước khác nhau. Các hạt lúa có chiều dài và hình dạng khác nhau, nhưng thường dài hơn rộng và hầu hết có đuôi. Bao phấn của chúng chỉ bằng phân nửa hoặc ngắn hơn chiều dài hoa lúa. Lúa hoang này tương tự rufipogon hàng niên.

 Bảng 4: Các loài lúa Oryza, nhiễm sắc thể, nhóm genome (bộ gen) và sự phân bố 

Loài lúa Oryza

 

X=12

Nhóm genome

Phân bố

O. alta Swallen

48

CCDD

Trung và Nam Mỹ

O. australiensis Domin

24

EE

Châu Úc

O. barthii Chev

 

(O. breviligulata)

24

 

24

AGAG

 

FF

Tây và Đông châu Phi

Tây và Trung châu Phi

O. brachyantha A. Chev. & Roehr.

24, 48

CC, BBCC

Tây, Đông và Trung châu Phi

O. eichingeri A. Peter

24

AGAG

Đông và Tây châu Phi

O. glaberrima Steud.

48

CCDD

Tây châu Phi

O. grandiglumis (Doell) Prod.

48

CCDD

Nam Mỹ

O. granulata Ness & Arn. Ex Hook f.

24

ACUACU

Trung và Nam Mỹ

O. glumaepatula Steud. (O. perennis subsp. cubensis)

48

24

CCDD

AA

Châu Phi

Trung và Nam Mỹ

O. latifolia Desv.

24

A1A1

Châu Úc, Trung và Nam Mỹ

O. longiglumis Jansen

48

MMRR+

Đông Nam Á, Nam Trung Quốc, New Guinea

O. longgistaminata A. Chev. & Roehr

(O. barthii)

24

AA

Châu Phi

O. meridionalis N.Q. Ng

 

 

 

 

O. meyeriana (Zoll. & Morrill ex Steud.) Baill

48

 

24

 

 

24

 

BBCC

 

AA

 

 

CC

Đông Nam Á

 

Nam và Đông Nam Á và Nam Trung Quốc

Nam và Đông Nam Á và Nam Trung Quốc, New Guinea

 

O. minuta J.S. Presl ex C.B. Presl.

48, 24

BBCC, BB

 

Châu Phi, Philippines

O. nivara Sharma & Shastry (O. fatua, O. sativa f. I)

48, 24

AA

AA

Đông Nam Châu Á,

Nam và Đông Nam Á và Nam Trung Quốc

O. officinalis Wall. ex Watt

24

AA

Châu Á

O. punctata Kotschy ex Steud.

24

BB

New Guinea, châu Phi

O. ridleyi Hook f.

48

MMRR+

Đông Nam Á

O. rufipogon W. Griffith (O. perennis, O. fatua, O. perennis subsp. balunga)

24

AA

Đông Nam Á và Nam Á

O. sativa L.

24

AA

Nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới

O. schlechteri Pilger

24

SS

New Guinea

 

Nguồn: Chang, 1985; Sharma, 1973; và Watanabe, 1997. 

Ngoài ra, còn có loại “lúa cỏ” sống chung với lúa ruộng hoặc vùng kế cận, gây ra thất thoát lúa sau khi thu hoạch, ảnh hưởng đến chất lượng lúa gạo nếu quần thể cao. Loại lúa này còn gọi là “lúa đỏ” ở châu Á, châu Phi, châu Âu và châu Mỹ. Hạt lúa cỏ rụng sớm hơn lúa trồng và sẽ mọc mầm lại mùa sau. Lúa cỏ có mức thụ phấn chéo cao so với lúa trồng trong cùng thửa ruộng, vì thế, lúa trồng và lúa cỏ rất khó phân biệt nhau trước khi trổ bông. Đặc tính của loại lúa cỏ này có tính chất trung gian giữa lúa trồng và lúa hoang dại.

 Bảng 5: Đặc tính thích ứng của cây lúa trồng và lúa hoang 

 

Đặc tính

 

 

Lúa trồng

 

Lúa hoang

 

Chỗ cây mọc

Điều khiển bởi người trồng,

Cây lúa luôn cho hạt

Tự sống ở đầm lầy,

Cây cho hạt bất định

Chỗ đặc biệt

Cung cấp bởi người, cày cấy, làm cỏ, tưới nước, bảo vệ

Tự sinh tự hủy

Cách thích ứng

Năng suất cao và ổn định

Chịu đựng khó khăn, có khả năng sinh tồn và cạnh tranh

Phân phối tài nguyên

Chủ yếu cho sản xuất hạt

Tùy sách lược sản xuất nhiều hay ít

Sinh sản

Tự sinh sản hoặc trồng hàng niên

Ít hay nhiều tùy theo sách lược

Thụ phấn

Tự thụ tinh ưu thế

Tự thụ tinh biến đổi

Hạt rơi rụng

Hạt rơi rụng ít

Hạt rơi rụng nhiều tự nhiên

Hưu miên

Ít, mọc mầm đều

Cao, mọc mầm không đồng đều

Ảnh hưởng quang cảm

Thay đổi từ ít đến nhiều

Thường cao

Hình dáng thay đổi

Thường ít

Thường cao

Hạt chín

Đồng đều

Kéo dài thời gian lâu hơn

 

Nguồn: Oka và Morishima, 1997

 2.2. Lúa nếp

Lúa nếp thường có từ 0 đến 10% amylose. Ở Việt Nam, nếp chiếm độ 10% tổng sản lượng lúa, giá cao hơn lúa thường và được dân chúng sử dụng trong những dịp lễ hội, cúng bái, với các sản phẩm như xôi vò, xôi gấc, xôi hoa cau, hoặc bánh chưng, rượu đế. Dân tộc miền núi dùng gạo nếp cho các bữa ăn hàng ngày. Trên thế giới, chỉ có dân tộc Lào và người Thái (gốc Lào) ở miền Đông bắc Thái Lan dùng gạo nếp làm thức ăn căn bản. Trong thế kỷ 18, Ông Lê Quý Đôn ghi nhận một số giống lúa nếp ở vùng bờ biển trong quyển sách Phủ biên tạp lục. Ông đã mô tả 70 giống lúa cổ truyền, trong đó có 29 giống nếp. Một số giống nếp này là nếp Cái, nếp Hoa vàng, nếp hạt to, nếp Tầm xuân, nếp Kỳ lân, nếp Suất, nếp Hạt cau, nếp Hương bầu, nếp Ông lão, nếp Trân, nếp Than... mà nhiều giống còn được trồng đến ngày nay.

 2.3. Lúa thơm

Lúa thơm thường cho năng suất thấp độ 2-3 t/ha, nhưng giá cao gấp 2 hoặc 3 lần loại lúa thường. Mùi thơm của loại lúa này là do gen “fgr” chi phối, được tìm thấy trên nhiễm sắc thể số 8 ở khoảng cách 4,5cm (Ahn et al., 1992). Lúa thơm có số lượng lớn chất hóa học 2-acetyl-1-pyrroline với mùi thơm như loại bắp nổ (popcorn) (Buttery et al., 1983). Mùi thơm của các giống lúa này tùy thuộc vào điều kiện môi trường, như đất đai, khí hậu và giống lúa. Chẳng hạn, Nàng thơm Chợ Đào chỉ có mùi thơm ở vùng Chợ Đào thuộc tỉnh Long An, nếu được trồng ở Cần Thơ sẽ không còn mùi thơm đó nữa.

Trong thời Pháp thuộc, nhóm lúa thơm có hạt gạo dài, trong và thơm, cung cấp một số lượng lớn để xuất khẩu qua Trung Quốc. Nổi tiếng nhất ở miền Bắc là Tám thơm, cây thấp, cứng, gié trung bình, chịu lạnh, nhưng ở vùng đất phì nhiêu có nhiều gié. Sau đó là Tám Xoan, thân cao hơn, gié dài có nhiều hạt. Hai giống này luôn được trồng ở đất màu mỡ và có năng suất cao độ 2-3 t/ha (Dumont, 1995). Các giống lúa thơm khác ở miền Bắc được tìm thấy như Bác Thơm 7, Chi Ưu Hương, Tám Thơm đột biến... 

            Ở miền Nam, giống lúa nổi tiếng là Nàng thơm Chợ Đào, còn gọi là lúa hạt lựu vì có đốm bạc bụng. Nàng thơm Chợ Đào có thân cao, gié nhỏ, trọng lượng 1 000 hạt từ 19 đến 29 gr (bình quân 22 gr). Năng suất trung bình là 2-3 t/ha (Nguyễn Hữu Nghĩa et al., 2000 b). Ngoài ra, còn có các giống lúa thơm nổi tiếng khác như lúa Móng chim, Nàng hương, Nanh chồn (Bà rịa), Tàu hương, Thơm sớm, Thơm lùn, Thơm Bình Chánh, Nàng Thơm Nhà Bè, lúa Huyết rồng (Long An) ...

            Ở miền Trung và Tây Nguyên, có các giống lúa thơm nổi tiếng như lúa Ngự, Cúc thơm, Thái thơm, Nếp than, Nếp trắng, Baké dẻo, Nếp cải hoa vàng. Hai giống lúa thơm nổi tiếng nhứt ở miền Trung là Đế An Cựulúa Ngự, nhưng nay không còn nữa. Lúa thơm ở Tây Nguyên có trọng lượng 1 000 hạt cao, trên 25 gr (Nguyễn Hữu Nghĩa et al., 2001 b). Còn có các giống lúa thơm khác như Baké dẻo, Cúc thơm, Thái thơm, Tám thơm Thanh Hóa, v.v.

            Hiện nay, có nhiều giống lúa thơm được du nhập vào Việt Nam, như Basmati 370, Basmati mutant (Ấn Độ), Khao Dawk Mali 105, Jasmine (Thái Lan), Jasmine 85 (Mỹ), VD10, VD20 (Đài Loan), IR841 (IRRI, Philippines), Bác thơm, Quế hương chiêm, Qua dạ hương, Chi ưu hương (Trung Quốc), v.v. Lúa Basmati là giống lúa thơm nổi tiếng nhất trong các giống lúa này. Lúa Basmati gốc ở Ấn Độ, Pakistan và Nepal, được trồng độ 2 triệu ha trên thế giới hàng năm. Gạo thơm này có hạt nhỏ, dài từ 6,8 - 7,0 mm, tỉ lệ chiều dài và chiều rộng từ 3,5 đến 3,7 và có hàm lượng amylose trung bình 20 - 22%. Gạo Basmati sau khi nấu nở dài ra, nhưng vẫn thon và hạt cơm mềm rời nhau sau nhiều giờ. Hai đặc tính chính của Basmati là mùi thơmcơm nở dài; đặc tính sau này bị chi phối bởi nhiều gen nên gây khó khăn trong tạo giống truyền gen (Khush, 2001).

 2.4. Lúa gạo màu dinh dưỡng (Hình 3)

Ngoài loại gạo trắng truyền thống, còn có gạo màu rất bổ dưỡng cho sức khoẻ con người. Gạo màu là do số lượng lớn của nhiễm sắc chất anthocyanin tích tụ trong những lớp khác nhau của vỏ, bì mô, và lớp aleurone của hạt gạo. Trung Quốc hàng năm thu hoạch độ 400 000 ha lúa màu. Gạo màu thường được dùng trong những ngày lễ hội và trong kỹ nghệ biến chế làm bánh, thức ăn nhẹ, há cảo ngọt, bánh biscuit, bún, bánh Tết và rượu. Tại Việt Nam cũng có gạo màu, nhưng ít được phổ biến, như gạo nếp than, gạo huyết rồng...

- Lúa có gạo đỏ: Những loại gạo đỏ được tìm thấy trong nhiều nước châu Á. Hạt gạo đỏ chứa chất sắt và kẽm cao, trong khi gạo tím có rất nhiều vi lượng đồng, magnesium, calcium, molybdenum và vitamin C, B1, B6 và B12. Nhóm gạo đỏ phần lớn thuộc loại lúa hoang với đa số giống có lớp cám bên ngoài màu đỏ. Loại lúa này được tìm thấy nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long, những vùng có đất phèn. Đồng Tháp Mười, tỉnh Long An, có gạo đỏ gọi là gạo “Huyết rồng” ăn rất ngon và bổ dưỡng, có thể sản xuất nhiều để xuất khẩu. Cơm Huyết rồng có mùi thơm, càng nhai càng có vị ngọt, béo bùi. Những giống lúa đỏ có đặc tính chống chịu cao môi trường khó khăn, ít thuận lợi như đất kém phì nhiêu và đất núi đồi.  

Hình 3: Lúa gạo màu (ảnh của FAO)

- Lúa có gạo đen: Gạo đen là loại gạo đặc biệt được sử dụng nhiều và tìm thấy ở các nước châu Á. Trung Quốc là nước có nhiều giống lúa đen hơn hết, tiếp theo Sri Lanka, Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Bangladesh và Việt Nam. Gạo đen thường tìm thấy ở phôi nhủ đục sáp của các nhóm IndicaJaponica. Ở Việt Nam, gạo tím hay đen được dùng làm thuốc và cho tín ngưỡng, chỉ được trồng ở các vùng núi, dưới dạng gạo tẻ hoặc nếp. “Nếp Đen, còn có tên nếp Than, sắc tím, nước cốt đen, dùng nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín, nhơn khi còn nóng rưới mỡ heo, lá hành và muối trắng, trộn cho đều, mùi vị rất ngọt và giòn.” (trong Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức). Gạo đen của Trung Quốc chứa 37,6% protein, 22,4% chất béo và 17,8% chất sợi, giá trị sức khỏe của gạo đen được đánh giá cao. Gạo đen đặc sản còn giàu lysin, vitamin B, sắt, kẽm, calci, và phospho (Trần Văn Đạt, 2005). 

- Lúa có gạo vàng(Hình 4): Vì loại vitamin A không có sẵn trong các hạt gạo thiên nhiên, nên các nhà khoa học phải sử dụng công nghệ sinh học để sáng tạo loại gạo vàng chứa tiền sinh tố A. Gạo vàng là một thực phẩm biến đổi di truyền được chế tạo bởi đội ngũ khoa học Thụy Sĩ và Đức, do Giáo sư Ingo Potrykus và Dr. Peter Beyer hướng dẫn vào thập niên 1990. Lúa vàng này được phóng thích vào tháng 5 - 2000, sau đó một số viện nghiên cứu trên thế giới, gồm cả Việt Nam tiếp tục khảo nghiệm, lai tạo và phổ biến trong điều kiện địa phương. Gạo vàng chứa tiền sinh tố A (b-carotene) và một số lượng lớn chất sắt. Các nhà khoa học đã đưa 7 gen lạ vào giống lúa TP 309 (lúa Japonica của Đài Loan) để tạo ra màu vàng của hạt gạo. Loại gạo này có thể giúp các trẻ con thiếu dinh dưỡng ở các nước đang phát triển khắc phục được bệnh mù mắt do thiếu vitamin A và bệnh thiếu máu do thiếu chất sắt khi dùng lúa gạo làm thức ăn căn bản. Hiện nay có độ 400 triệu trẻ em bị mù mắt (Xem thêm Chương 15: Tiến hóa kỹ thuật sản xuất lúa). Nhưng gạo vàng là loại thức ăn biến đổi gen GMO nên bị nhiều nhóm Hòa bình xanh chống đối trên thế giới. Hiện nay, loại gạo này chỉ có mặt trên thị trường của Tân Tây Lan và châu Úc.

Hình 4: Gạo vàng (Internet)

Ở các nước tiến bộ, thức ăn chính là thịt nên tạo nhiều chất mỡ cholesterol trong máu, có thể gây ra tai biến nghẽn mạch máu ở tim và óc. Nếu họ dùng thêm nhiều thức ăn có chất carbohydrate (lúa mì, khoai tây, gạo...) làm cho tình trạng “mỡ tim” (triglicerides) trong máu nhiều hơn; cho nên, gần đây giới tiêu thụ tại các nước này có khuynh hướng giảm bớt chất carb. Trái lại, người dân các nước đang phát triển còn thiếu năng lượng trong những bữa ăn hàng ngày, nên lúa gạo và những loại ngũ cốc khác rất cần thiết cho sức khoẻ của họ. 

2.5. Lúa nổi

Lúa nổi hay lúa sạ được trồng nhiều ở các tỉnh An Giang (Long Xuyên, Châu Đốc), Kiên Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang và Long An từ đầu thế kỷ XX. Nhờ phát triển hệ thống thủy lợi, lúa nổi đã trở nên kém quan trọng vì diện tích trồng hầu hết bị thu hẹp rất nhiều và bị thay thế bằng lúa cao năng. Lúa nổi là loại lúa sống ở mực nước sâu (còn gọi là lúa nước sâu), với thân có thể vượt lóng tăng chiều cao theo mực nước trong ruộng (có giống lúa tăng 30 cm/ngày); cho nên thân lúa có thể dài từ 1 đến 5 m. Năng suất thấp từ 1,0 đến 2,5 t/ha, tùy theo vũ lượng lúc đầu mùa gieo hạt. Đặc tính chung là chất lương gạo thấp vì lẫn lộn với gạo đỏ của lúa hoang do phương pháp gieo thẳng gây nên. Do đó, giá trên thị trường rất thấp và người trồng thường nghèo, nếu nông trại nhỏ. Ở những vùng dư thừa lúa gạo, lúa nổi thường dùng để phục vụ ngành chăn nuôi. Lúa nổi cũng được trồng nhiều ở một số nước châu Á như Ấn Độ, Bangladesh, Cambodia, Myanmar, Thái Lan và ở châu Phi, như Mali, Guinea, Guinea-Bissau, Nigeria, Senegal và Sierra Leone. Cả hai loại lúa Oryza sativaOryza glaberrima có những giống lúa nổi với quang cảm cao, chu kỳ sinh trưởng dài từ 6 đến 8 tháng (Xem thêm Chương 13: Các hệ sinh thái trồng lúa và tiến hóa).

 2.6. Lúa hữu cơ

Lúa hữu cơ là một loại nông sản mới có thể tạo ra một thị trường tiêu thụ lớn và mới mẻ trên thế giới, vì các giới giàu sang quan tâm đến sức khoẻ và giới môi sinh chú ý đến ảnh hưởng tiêu cực do sử dụng các kỹ thuật tân tiến và khoa học trong ngành sản xuất thực phẩm. Lúa và các nông sản hữu cơ là một loại thực phẩm mới được các nước tiến bộ cổ võ sản xuất, vì có khuynh hướng khuyến khích sử dụng tài nguyên thiên nhiên lâu bền và bảo đảm cung cấp chất dinh dưỡng an toàn cho con người. Đây là một thị trường có tiềm năng rất lớn ở những nước đã tiến bộ và những nước đang phát triển có mức sống kinh tế cao. Hiện nay, nhiều nơi ở Việt Nam cũng sản xuất lúa gạo hữu cơ cho giới tiêu thụ thượng lưu trong nước và xuất khẩu, nhưng chưa được tổ chức qui mô và thiếu kiểm tra chất lượng rộng rãi.

Vấn đề khó khăn hơn hết được các giới liên hệ đặt ra là làm sao xác nhận đúng loại nông sản hữu cơ, và cải tiến năng suất cùng chất lượng của loại này. Hơn nữa, có nhiều quốc gia đã thiết lập riêng rẽ các tiêu chuẩn và luật lệ cho sản xuất, biến chế và thị trường của các sản phẩm hữu cơ. Cho nên, Ủy Ban Codex FAO/WHO về nhãn hiệu thực phẩm đã nhận thấy cần có một định nghĩa rõ ràng về “hữu cơ” để đưa ra hướng dẫn cho sản xuất, biến chế, nhãn hiệu và thị trường. Vào tháng 6-1999, Ủy Ban Thực Phẩm Codex FAO/WHO đã  họp và chấp nhận như sau:

Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất tổng hợp, nhằm cổ võ và khuyến khích sự lành mạnh của hệ thống nông sinh, gồm đa dạng sinh thái, chu kỳ và các sinh hoạt sinh học đất đai. Loại nông nghiệp này nhấn mạnh vào cách quản lý thiên về sử dụng các đầu vào phi-nông nghiệp, trong khi chú trọng đến điều kiện cấp vùng và thích ứng từng địa phương. Điều này được thực hiện bằng cách dùng, ở nơi nào có thể, các phương pháp nông học, sinh học và cơ động để hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt trong hệ thống này.”(FAO/WHO Codex Alimentarius Commission, 1999, trong de Haen, 1999).

Ngành sản xuất thực phẩm hữu cơ đã xuất hiện nhiều năm, nhưng gần đây mức cầu vượt cung tại nhiều nước phát triển; cho nên nhiều nước phải nhập khẩu để thỏa mãn nhu cầu giới tiêu thụ. Do đó, một thị trường mới trong nông nghiệp đang mở rộng cửa cho các nước đang phát triển tham gia. Những cuộc khảo sát gần đây cho thấy người tiêu thụ hữu cơ thường nghi ngờ vào sản phẩm hữu cơ thực sự được nhập nội dù có nhãn hiệu cầu chứng rõ ràng. Do đó, muốn thành công trong xuất khẩu nông sản hữu cơ cần có nhiều cố gắng tạo lòng tin của giới tiêu thụ với các sản phẩm hội đủ tiêu chuẩn vệ sinh và giá cả cạnh tranh. Trong trường hợp này, hợp tác với các ngành thương mại địa phương để có những nhãn hiệu tương tự cho người tiêu thụ dễ chấp nhận. Ngoài ra, cần chú ý đến các khuynh hướng gần đây trong lãnh vực hữu cơ như: Giới tiêu thụ tin tưởng vào các siêu thị nhỏ chuyên bán sản phẩm hữu cơ, đóng bao bì bằng những chất sinh học dễ tiêu hủy, sản phẩm hữu cơ tiện dụng (như salad đóng bao), thương mại bằng Internet, bán thức ăn hữu cơ ở những canteens và quán công cộng. 

2.7.  Lúa GAP

Trong thế kỷ XXI, ngành nông nghiệp ngoài đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, còn cần phải đáp ứng điều kiện môi trường sản xuất lành mạnh bền vững và mang lợi ích kinh tế xã hội đến mọi người. Do đó, những thách thức lớn của nông nghiệp hiện nay và tương lai là (1) cải tiến an ninh lương thực, đời sống nông thôn và lợi tức nông dân; (2) thỏa mãn nhu cầu tăng gia và đa dạng cho lương thực an toàn và sản phẩm khác; và (3) bảo vệ và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Thực Hành Nông Nghiệp Tốt, còn gọi GAP[2] (Good Agricultural Practices), là một giải pháp nông nghiệp dùng để đối ứng với các thách thức nêu trên. Gần đây, người ta còn gọi là Nông nghiệp xanh và Lúa Xanh. 

GAP từ đâu?

Cơ Quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) đã thảo luận và phát triển GAP từ giữa thập niên 1990. Ban đầu, người ta muốn dùng cụm từ BAP (Best Agricultural Practices - Thực Hành Nông Nghiệp Tốt Nhứt), nhưng bị chỉ trích quá lý tưởng, nên cuối cùng mọi người đồng ý với tên GAP có vẻ khiêm nhường và thực tế hơn. Tiếp theo là một loạt hội họp tư vấn tham khảo để tìm hiểu, thỏa thuận về nguyên tắc, hướng dẫn và biện pháp áp dụng GAP. Khóa họp thứ 17 của Ủy Ban Nông Nghiệp FAO (Committee of Agriculture hay COAG) trong tháng 4-2003 đã khuyến cáo FAO tiếp tục thảo luận và phát triển quan niệm GAP, đặc biệt làm tăng sự chú ý của những giới liên hệ, trao đổi thông tin, phân tích kinh tế, lập dự án thí điểm, hỗ trợ kỹ thuật, huấn luyện, với đặc biệt quan tâm đến nhu cầu của các nước đang phát triển. Ngày 10-12/11/2003, một cuộc họp chuyên gia tư vấn quốc tế về GAP được tổ chức ở Rome để xem xét lại và xác nhận  quan niệm GAP, cung cấp hướng dẫn về các vấn đề quan tâm, tìm ra các chiến lược áp dụng và khuyến cáo FAO về phát triển và thực hiện quan niệm GAP trong các ngành nông nghiệp. 

GAP là gì?

Theo FAO/COAG 2003 GAP paper, Thực Hành Nông Nghiệp Tốt là “những thực hành chú ý đến bền vững môi trường, kinh tế và xã hội trong quá trình sản xuất ngoài đồng ruộng, và tạo ra các thực

phẩm an toàn có chất lượng, và các sản phẩm không phải là lương thực.” Cuộc họp chuyên gia tư vấn quốc tế về GAP trên đã đồng ý mô tả và định nghĩa quan niệm GAP gồm những diện như sau:          

·         Ba “trụ” bền vững: GAP phải có kinh tế cao, bền vững môi trường, và xã hội chấp nhận, gồm cả thực phẩm an toàn và chất lượng,

·         với chú trọng sản phẩm đầu tiên trong khung cơ chế và khuyến khích,

·         quan tâm đến những luật lệ bắt buộc hoặc tự nguyện trong thực hành và hướng dẫn nông nghiệp.

Hiện nay quan niệm GAP đã tiến hóa khá nhiều, vì được nhiều giới như người sản xuất, kỹ nghệ thực phẩm, hiệp hội, cơ quan chính phủ, NGOs đang làm ra các tiêu chuẩn khác nhau cho các hoạt động nông nghiệp đối với nhiều hoa màu, thú vật, thủy sản... Mục tiêu của họ là để đáp ứng đòi hỏi các chuẩn mực của thương mại, cơ quan chính quyền. Cho nên, mục đích của các qui tắc, chuẩn mực và qui định GAP gồm có:

(i)     Bảo đảm thành phẩm an toàn và chất lượng trong hệ thống sản xuất lương thực,

(ii)   Nắm bắt ưu thế thị trường mới bằng cách sửa đổi mặt quản lý cung cấp,

(iii) Cải thiện sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, sức khoẻ người làm việc và điều kiện làm việc, và/hoặc

(iv) Tạo ra cơ hội thị trường mới cho nông dân và giới xuất khẩu trong các nước đang phát triển.

Do đó, tiêu chuẩn GAP của lãnh vực tư và công phải bao gồm 3 trụ chính: lợi tức kinh tế tốt, bền vững môi trường, xã hội có thể chấp nhận gồm cả lương thực an toàn chất lượng; nhưng trên thực tế biến đổi khá nhiều ở từng quốc gia và địa phương. 

Áp dụng tiêu chuẩn GAP

Áp dụng GAP vì thế thay đổi tùy theo từng đối tượng, điều kiện địa phương và đòi hỏi của giới tiêu thụ và nhà nước, nhưng phải bao gồm tất cả các giai đoạn từ sản xuất đến thị trường và tiêu thụ. Trong thực hành, kiến thức về nguyên tắc nông học cơ bản cần phải có để áp dụng đúng quan niệm GAP trong quản lý sản xuất nông sản. Phương pháp Kiểm Tra Màu (Crop Checks), đặc biệt Kiểm Tra Lúa (Rice Checks) là một hình thức GAP, nhằm tăng gia hiệu năng sản suất, lợi tức nông dân và bảo vệ môi trường.

Để áp dụng GAP trong ngành sản xuất nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng, cần phải chú ý đến các lãnh vực sau đây trong khi luôn quan tâm đến 3 trụ chính nêu trên:

Đất đai, nước, màu, bảo vệ mùa màng, thu hoạch, chế biến và tồn trữ, quản lý năng lượng và chất thải, con người (hạnh phúc, sức khoẻ và an toàn), loài hoang dã, và phong cảnh.

Hiện nay, công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp sử dụng nhiều chất hóa học, như chất kích thích tố, chất gia vị, thuốc sát trùng, sát khuẩn, chất kháng sinh... đang làm cho giới tiêu thụ thực phẩm lo sợ; do đó trên  thế giới có nhiều cơ quan tư hoặc công sáng tạo ra các tiêu chuẩn để kiểm soát chất lượng và bảo vệ sức khỏe con người. Ở châu Âu, tiêu chuẩn thương mại EUREPGAP (European Retail Product and Good Agricultural Practice) được khởi sự từ 1997, là một loại chuẩn mực rất thông dụng liên hệ đến sản xuất rau cải và trái cây, nhằm kiểm soát điều kiện sản xuất, cơ chế kiểm tra và chứng nhận sản phẩm. Hội Nghị Toàn Cầu được tổ chức ở Thái Lan trong 9-2007 đã chấp nhận đổi EUREPGAP thành GLOBALGAP, hướng đến tất cả nông dân, không kể sản xuất lớn hay nhỏ. Mục tiêu của GLOBAGAP là giúp các nhà bán lẻ và giới tiêu thụ tin tưởng rằng mọi biện pháp kiểm tra được áp dụng để sản phẩm an toàn cho sức khỏe người dùng. Năm nguyên tắc chính của GLOBAGAP gồm có:

·         Sản xuất nông sản có chất lượng cao

·         Bảo vệ môi trường

·         Sử dụng nguồn năng lượng thiên nhiên tối hảo

·         Yễm trợ sản xuất nông nghiệp có mức kinh tế chấp nhận

·         Cải tiến điều kiện sống của cộng đồng địa phương.

2.8.  Lúa nhập nội

Công tác trao đổi giống lúa ở Việt Nam đã có cách đây ít nhứt hai ngàn năm. Theo sử liệu, dân Lạc Việt đã du nhập giống lúa Chiêm của người Champa vào khoảng thế kỷ II để trồng vụ Đông-xuân và nhờ đó họ mở rộng làm lúa hai vụ mỗi năm. Cách đây hơn ngàn năm (1010 sau CN), do hạn hán ở Trung Quốc, vua Tống cho du nhập giống lúa Chiêm, loại lúa sớm của Việt Nam để trồng kịp thời vụ (Ho, 1969). Nhờ vào du nhập giống lúa ngoại quốc, trong xứ có thêm nhiều giống lúa làm đa dạng sinh học. Vào buổi đầu thực dân Pháp, mục tiêu chính của du nhập các giống lúa ngoại quốc là do nhu cầu xuất khẩu lúa gạo thời bấy giờ để cải thiện chất lượng và năng suất.

Sự du nhập các giống lúa cải thiện từ các nước láng giềng đã có từ lâu, như giống lúa Neang Veng 339 E 23, Prey keo E 53, Puang Ngeon E 49, Tunsart ... Những thí nghiệm về các giống lúa ngoại quốc đầu tiên từ Ấn Độ và Bengal được người Pháp thực hiện ở Nam Kỳ vào năm 1878; nhưng không có kết quả. Thí nghiệm giống lúa du nhập được tiếp tục vào năm 1892 bởi Phòng Thương Mại Sài Gòn với các giống lúa của Miến Điện; và vào năm 1895 bởi Sở Nông Nghiệp Nam Kỳ với các giống lúa của đảo Java (Capus, 1918). Đến năm 1914, giống lúa có chất lượng cao, như giống Caroline, gốc Mỹ, được du nhập từ Indonesia cho chương trình cải thiện giống (Carle, 1927). Lúc bấy giờ, một số các giống du nhập được tuyển chọn và canh tác đại trà, đã thay thế nhiều giống lúa cổ truyền trong nước. 

Từ 1945 đến 1954, một số giống lúa Trung Quốc ngắn ngày (100-110 ngày) đã được du nhập vào Việt Nam. Trong thời gian 1960-68, nhiều giống mới được tuyển chọn từ các giống du nhập, như Nông nghiệp 1, giống 127 và Đông xuân 4, có năng suất cao hơn lúa địa phương (Vũ Tuyến Hoàng, 1995); Nam ninh, Trà trung tử, Mộc tuyền, Bao thai lùn. Các giống lúa châu Âu như Dybowski, Dunghan Shali, Uz Rosz; giống lúa Ấn độ như Jaya; Pakistan như Barkali; Miến Điện như Biplab được du nhập trồng ở Bắc Việt (Bùi Huy Đáp, 1980).

Sự du nhập các giống ngoại quốc ngày càng nhiều và đến cao điểm vào thời kỳ Cách Mạng Xanh xảy ra trong nước, qua các chương trình trao đổi giống lúa của IRRI và các quốc gia láng giềng. Sự trao đổi các giống lúa giữa nhiều quốc gia là yếu tố quan trọng cho hình thành cuộc Cách Mạng Xanh trên thế giới. Trong thời kỳ này, nhiều giống cao năng, ngắn ngày của Trung Quốc đã được du nhập và được trồng đại trà ở Miền Bắc như: Q5, Khang dân, Lưỡng quãng, Ái hoa thanh, Kim cương và các giống lúa lai như: Sán ưu 63, Sán ưu quế 99, Nhị ưu 63, Nhị ưu 838, Bồi tạp sơ thanh, Bồi tạp 49, Bồi tạp 77, v.v.  Các  giống lúa dài ngày được bổ sung gồm có DT10, Xi23, C70, C71 (Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, 1999). Ở Miền Nam, đa số các giống lúa được du nhập từ IRRI ở Philippines, như IR8, IR5, 73-1, 73-2, IR36, IR42, IR64, IR72, IR50404, MTL145, MTL250, IR62032, v.v. 

 

Lúa Chiêm 

Ở Miền Bắc, lúa được canh tác 2 vụ mỗi năm: vụ Chiêm và vụ Mùa, trong khi Miền Trung cũng có hai hoặc ba vụ, nhưng không gọi là vụ Chiêm, mặc dù lúa Chiêm xuất phát từ miền này (Chiêm Thành xưa). Trong vụ Chiêm có nhiều giống lúa sớm với chu kỳ sinh trưởng từ 90-120 ngày như Ba Giăng, Chiêm Chanh, Cút, Di… ít bị ảnh hưởng của quang cảm, nhưng bị nhiệt cảm.

      Lúa Chiêm được trồng ở đồng bằng sông Hồng cách nay gần 2000 năm. Tục ngữ có câu: “Lúa Chiêm là lúa vô nghì, cấy trước trổ trước không kỳ đợi ai”. Giống lúa này đã tạo ra cuộc Cách Mạng Xanh ở đồng bằng sông Hồng vào thời kỳ đó, với hệ thống tưới tiêu, đê đập bắt đầu bành trướng mạnh, cơ cấu sản xuất thay đổi thâm canh hơn; giúp sản xuất lương thực tăng đáng kể vào đầu Công nguyên. Theo sách Di Vật Chí của Tàu: “Lúa ở Giao Chỉ mỗi năm trồng hai lần, về mùa hạ và mùa đông”. Lúa mùa hạ là vụ Mùa và lúa mùa đông là vụ Chiêm. Nhiều sử sách Tàu trong thế kỷ II và III cũng ghi chép như thế. Vài nơi của tỉnh Quảng Nam và Bình Định hiện nay còn trồng giống lúa Chiêm, lúa địa phương trong tháng 5 và gặt tháng 9.

      Thật vậy, lúa Chiêm là giống lúa sớm từ 90 đến 100 ngày. Nhưng khi lúa được trồng ở Miền Bắc trong mùa lạnh (tháng 11, 12) thời gian sinh trưởng dài thêm đến 180 ngày hoặc hơn, do nhiệt độ thấp lúc đầu mùa. Cũng vậy, lúa Thần Nông 8 được trồng ở Miền Nam chỉ có 130 ngày, nhưng trồng ở Miền Bắc vụ Đông-xuân, thời gian từ gieo hạt đến thu hoạch là 180 ngày!

      Lúa Chiêm có nguồn gốc từ Chiêm Thành (hay Champa) ở miền Trung Việt Nam ngày nay. Nước này được thành lập từ năm 192 sau công nguyên, chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn minh Ấn Độ; cho nên, có lẽ lúa Chiêm được du nhập từ Ấn Độ vào nước Chăm, sau đó đến châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, theo Bùi Huy Đáp (1977, 1980) và Maspéro (1980), người Giao Chỉ trồng 2 vụ lúa trước thời kỳ Hán thuộc hay gần 200 năm tr CN; do đó nước Việt cổ - Âu Lạc đã có các giống lúa sớm với ít quang cảm để trồng vụ lúa Đông-xuân từ tháng 11 đến tháng 5. Trước đó, đồng bằng sông Hồng chỉ trồng một vụ Mùa từ tháng 6 đến 11, vì các giống lúa truyền thống có nhiều quang cảm và việc trị thủy chưa nắm vững vào mùa mưa ngập lụt.

      Sau thế kỷ II CN, vụ Đông-xuân được gọi là vụ Chiêm khi lúa Chiêm được đưa từ xứ Chiêm Thành ra Miền Bắc trồng phát triển tốt hơn các giống lúa sớm địa phương và được cư dân ưa thích trồng đại trà.

      Sự di chuyển của lúa Chiêm không ngừng ở Việt Nam, còn tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ XI. Vào đời Tống (960-1279), vùng châu thổ sông Dương Tử, nôi trồng lúa lớn của Trung Quốc bị hạn hán và đói kém trầm trọng lâu ngày; cho nên, năm 1010, vua Tống Chân Tôn (1000-1022) ra lệnh du nhập lúa Chiêm từ phương nam để trồng thử ở tỉnh Phúc Kiến (Chang, 1985 và Greenland, 1997). Với kết quả thử nghiệm tốt, năm 1012, vua Tống ra lệnh mang 30 000 giạ lúa Chiêm từ vùng này trồng khắp thung lũng sông Dương Tử để cứu đói. Mặc dù hạt gạo Chiêm có ít amylopectin làm hạt cơm cứng hơn gạo truyền thống, không thích hợp khẩu vị người Tàu (cơm dẻo hơn), nhưng sau nhiều năm trở thành thói quen và người dân chấp nhận.

      Việc nhập nội giống lúa Chiêm đã mở ra trang sử nông nghiệp mới tại Trung Quốc, mà nhiều người còn gọi là cuộc Cách Mạng Xanh của nước này. Nhờ ưu thế giống sớm, chịu đựng hạn hán và ít quang cảm, giống lúa Chiêm giúp Trung Quốc không những khắc phục nạn đói mà còn mở ra kỷ nguyên phát triển nền nông nghiệp thâm canh, chủ yếu bành trướng thủy lợi, khai thác lúa bậc thang, luân canh, trồng lúa hai ba vụ. Sách sử và tài liệu Tàu cố tránh sự kiện du nhập giống lúa Chiêm từ Việt Nam, do dị ứng tự tôn cố hữu. Họ cho rằng vua Tống sai người đem vàng bạc, châu báu sang nước Chiêm Thành để đổi lấy lúa Chiêm; nhưng theo vài chuyên gia (Greenland, 1997) người Tống có thể du nhập lúa Chiêm qua trao đổi thương mại với Việt Nam để trồng tại tỉnh Phúc Kiến thuộc hữu ngạn sông Dương Tử, vì hai nơi này gần nhau hơn và lúa Chiêm đã được trồng ở đồng bằng sông Hồng hàng trăm năm trước đó. Ngoài ra, ở Trung Quốc lúc đó gọi giống lúa Chiêm là “lúa rẫy Annam”, hoặc “lúa 60 ngày” (từ ngày cấy đến gặt) hoặc “lúa vàng 100 ngày” (từ ngày gieo đến gặt) (Ho, 1969).

 

 

 Lúa TẺ Tép 

Lúa Tẻ Tép được trồng ở Việt Nam từ miền Bắc vào Nam trong nhiều thế kỷ. Vào Thế Chiến thứ 2, người Nhựt đã thu thập một số giống lúa địa phương, gồm lúa Tẻ Tép ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình đem về Nhựt thử nghiệm (Trần Văn Đạt, 2002). Kết quả đánh giá các giống lúa thu thập này không có báo cáo chính thức; và lúa Tẻ Tép không được dùng trong các chương trình lai tạo giống của Nhựt, có lẽ vì giống này thuộc lúa Indica làm ảnh hưởng đến chất lượng của gạo Japonica. Vào cuối thập niên 1960, các chuyên gia lúa Nhựt báo cáo Tẻ Tép có ít nhứt 3 gen kháng bệnh cháy lá (Inukai et al., 1995). Điều này có lẽ do các báo cáo về kết quả nổi bật của Tẻ Tép trong chương trình “Nương Mạ Bệnh Cháy Lá Quốc Tế” (International Blast Nursery-IBN) do FAO bắt đầu thực hiện trong 1961, sau đó chuyển giao cho IRRI. Chương trình này báo cáo về khả năng kháng bệnh cháy lá tuyệt vời của lúa Tẻ Tép trong nhiều năm liên tiếp ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam đã gởi một số giống tham dự Nương Mạ Quốc Tế này, trong đó có lúa Tẻ Tép và Nàng Chệt Cục (gống kháng bệnh cháy lá hạng nhì sau Tẻ Tép).

      Năm 1970, với đà bành trướng mạnh của lúa cao năng Thần Nông, các giống lúa địa phương bị thay thế và biến mất dần, Sở Lúa Gạo thuộc Bộ Nông Nghiệp Miền Nam đã phối hợp cùng các Ty Nông Nghiệp tỉnh thu thập nhiều giống lúa này để bảo tồn. Vào tháng 5 -1970, 312 giống lúa địa phương, gồm lúa Tẻ Tép, được gởi qua Viện Lúa IRRI ở Philippines để đánh giá và lưu trữ, ngoài công tác bảo tồn giống lúa ở Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa Long Định và 7 trại thí nghiệm lúa rải rác của Miền Nam (Thừa Thiên, Phú Yên, Ninh Thuận, Long An, Cần Thơ, Long Xuyên và Bãi Sàu). Trong số giống lúa gởi qua IRRI, chỉ có 241 giống lúa hội đủ tiêu chuẩn để được bảo tồn lâu dài tại Viện này (Trần Văn Đạt, 2002). IRRI tiếp tục nghiên cứu đánh giá lúa Tẻ Tép và xác nhận giống lúa này có nhiều gen kháng bệnh cháy lá cao, rất quý giá cho các chương trình cải thiện giống thế giới (Ou, 1979).

Bệnh cháy lá lúa là một bệnh nguy hiễm, phổ biến khắp nơi trên thế giới cho cả lúa Indica (vùng nhiệt đới) và Japonica (vùng ôn đới), làm thiệt hại hàng năm độ 5 tỉ đô la. Bệnh thường xuất hiện khi điều kiện khí hậu và canh tác thuận lợi (phân đạm cao, nhiệt độ ở giữa 18-20oC, ẩm độ trên 90% trong hơn một tuần lễ, giống lúa dễ nhiễm bệnh…) và dễ nhiễm từ giai đọan mạ non đến thời kỳ đâm chồi, trổ đòng và lập gié. Triệu chứng của bệnh do một loại nấm sản xuất ra những đốm trên lá, đốt thân, gié và hạt lúa, nhưng không có trên bẹ lúa. Các đốm này có hình thoi mà hai đầu hơi nhọn, ở giữa đốm có màu xám hay trắng nhạt và bìa vành màu nâu hay nâu đỏ. Bệnh nặng có nhiều đốm cháy có kích thước đến vài cm trên lá lúa và làm biến mất diệp lục tố. Vì thế, các chuyên gia lai tạo giống quốc tế tìm các gen kháng bệnh này. Lúa Tẻ Tép đã được nghiên cứu và hiện nay xác nhận có 4 gen chống kháng bệnh cháy lá (Pi-kh, Pi-1, Pi-ta và Pi(t)) (Inukai et al., 1995), là một nhân tuyển tốt cung cấp nguồn gen đó. Thế giới còn có các giống lúa khác kháng bệnh cháy lá, như Moroberekan của Phi Châu; Tadukan, Norin 22 của Nhựt; Pusur, Co1 của Ấn Độ; H4, H5 của Sri Lanka; Dawn của Mỹ v.v.; nhưng đa số các giống lúa này chỉ có khả năng chống kháng bệnh tại một vài nơi hoặc vài năm mà thôi. Trong khi đó, lúa Tẻ Tép có khả năng kháng bệnh rộng rãi hơn ở các lục địa trong nhiều năm liên tiếp. Đó là ưu điểm vượt trội của giống lúa Việt Nam:

         Một loài lúa vô danh nơi bản xứ

                Nhưng tuổi tên lừng lẫy khắp năm châu!

                Lúa xanh màu, mộc mạc, sống đồng sâu

                Từng tắm gội nước trời vùng đất thép

                Từng tôi luyện mang tên loài Tẻ Tép

                Vươn vùng lên đề kháng lực đa phương

                Trải muôn đời, gieo phấn rải hoa hương

                Dù thân lá ốm mòn tư phong thẳng

                Dù đất xám khô cằn chồi chắc rắn

                Vốn trời sinh kháng chống đạo ôn vàng

                Mối hiễm nguy luôn đột phá mùa màng

                Làm hao mất hàng vạn ngàn tấn thóc!

                Chẳng buông tha nương mạ non vừa mọc

                Bởi lòng tham mưu diệt hóa giống nòi!

                Chỉ... lúa Tép năng lực kháng tuyệt vời

                Đứng hàng đầu, gen di truyền chống kháng!

                Như truyền thống người Việt Nam ngời sáng!

 

 Nhìn chung, cây lúa hiện nay là thành tựu tiến hóa lâu dài đến hàng ngàn năm của các loài lúa hoang, do tác động môi trường, di truyền và con người, nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu dân tộc. Cũng vì thế, chính con người là mối nguy cơ cho sự biến mất, thoái hóa của nhiều giống lúa truyền thống do hoạt động tuyển chọn di truyền của họ. Cuộc Cách Mạng Xanh vừa qua đã gây ra hiện tượng xói mòn di truyền đến mức độ các nhà di truyền học báo động, do nông dân chỉ trồng một số ít giống cao năng và hiện đại, còn gọi là lúa hiện đại để thay thế nhiều giống lúa địa phương kém năng suất. Lúa hiện đại đã chiếm hơn 95% tổng diện tích gieo trồng của nhiều vùng canh tác lớn trong nước, đặc biệt ở những nơi có hệ thống thủy lợi phát triển tốt. Cho nên, công tác bảo tồn gen ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ, có tầm ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ mai sau.

Ngoài ra, nông dân Việt Nam sản xuất rất nhiều loại gạo tẻ, gạo nếp trên khắp nước, trong khi các loại lúa gạo đặc sản, như gao thơm, gạo màu dinh dưỡng, gạo hữu cơ và gạo GAP còn rất giới hạn, dù có tiềm năng lớn trên thị trường quốc tế để đáp ứng đòi hỏi xã hội thượng lưu. Hiện nay, số lượng sản xuất và xuất khẩu các loại gạo này còn rất ít, khoảng 15-20% tổng sản lượng. Do đó, cần nhiều nỗ lực và đầu tư để phát triển loại lúa gạo tiềm năng này trong những thập niên tới để mang nguồn ngoại tệ về phát triển đất nước. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

1.      Ahn, S.H., Bollich, C.N. and Tanksley, S.D. 1992. Theor. Appl. Genet. 84: 825-828.

2.      Bùi Chí Bửu, Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Thị Lang. 1997. Bảo quản quĩ gen cây lúa. Trong Kết quả Nghiên cứu khoa học 1977-1997, NXB Nông Nghiệp, T.P. Hồ Chí Minh, tr 9-15.

3.      Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang. 2007. Chọn giống cây trồng- Phương pháp truyền thống và phân tử. NXB Nông Nghiệp, TP/HCM, tr. 41-44.

4.      Bùi Huy Đáp. 1977. Lúa Việt Nam trong vùng lúa Nam và Đông Nam Châu Á. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 248.

5.      Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.

6.      Capus, G. 1918. Les riz d’Indochine. In: Annales de Géographie, Librairie Armand Colin, Paris, 5e, 27: 25-42.

7.      Carle, E. 1927. Amélioration des riz de Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, 11 pp.

8.      Chandraratna, M.F. 1964. Genetics and breeding of rice. Longmans, Green, New York, pp 389.

9.      Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research, Vol 59 (4): 425-455.

10.  Chaudhary, R.C. and Tran, D.V. 2001. Speciality rices of the world: a prologue. Speciality rices of the world: breeding, production and marketing, FAO, Rome, p 3-12.

11.  De Haen, H. 1999. Producing and marketing quality organic products: opportunities and Challenges.  

12.  Dumont, R. 1995.  La culture du riz dans le delta du Tonkin. Printing House in Bangkok, Thailand, pp 592.

13.  Glaszmann, J.C. 1987. Isozymes and classification of Asian rice varieties. Theor. Appl. Genet. 74: 21-30.

14.  Greenland, D.J. 1997. The sustainability of rice farming. IRRI and CAB International, pp 273

15.  Harlan, J. R. 1966. Plant introduction and biosystematics. Plant Breeding, Iowa State University Press, Ames, Iowa, p 55-83.

16.  Harlan, J. R. 1975. Crop and Man. Amer. Soc. Agron., Madison, Wisconsin, p 14-18.

17.  Ho, P.T. 1969. Early-ripening rice in Chinese history. Economic History Review, The University of British Columbia, IX:200-218.

18.  Inukai, T., Viet, D.L., Imbe, T., Zeigler, R.S., Kinoshita, T. and Nelson, R.J. 1995. Identification of a fourth blast resistance gene in the Vietnamese indica cultivarTetep. Rice Genet. Newsl., 12:237-238.

19.  Khush, G. S. 1997. Origin, dispersal, cultivation and variation of rice. Plant Mo. Biol. 35:25-34.

20.  Khush, G.S. 2001. Developing Basmati rices with high yield potential. In Speciality Rices of the World: breeding, production and marketing. FAO, Rome, p 15-18.

21.  Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.

22.  Matsuo, T. 1952. Genecological studies on the cultivated rice. Bull. Nat. Inst. Agri. Sci., Series D. 3: 111 (trong Matsuo, 1997).

23.  Nayar, N.M. 1958. Studies on the origin of cultivated rice Oryza sativa L., Assoc. I.A.R.I. Thesis, Indian Agr. Res. Inst., New Delhi, pp 109.

24.  Nayar, N.M. 1973. Origin and cytogenetics of rice. Advances in Genetics, vol 17, Academic Press Inc., New York and London.

25.  Nguyễn Hữu Nghĩa, Lưu Ngọc Trình and Lê Vĩnh Thao. 2001a. Speciality rice in Vietnam: Breeding, production and marketing. Speciality Rices of the World: Breeding, Production and Marketing. FAO, Rome, pp 358.

26.  Nguyễn Hữu Nghĩa, Lưu Ngọc Trình and Lê Vĩnh Thao. 2001b. Improvement of aromatic rice in Vietnam. Speciality Rices of the World: Breeding, Production and Marketing. FAO, Rome, pp 358.

27.  Nguyễn Sinh (BBC News). 2007. Con người cổ đại biết trồng trọt khi nào? (tuoitreonline)..

28.  Oka, H.I and Morishima, H. 1997. Wild and cultivated rice. Science of the Rice Plant, Food and Agricutlure Policy Research Center, Tokyo, p 88-113.

29.  Ou, S.H. 1979. Breeding rice for resistance to blast - A critical view. In Proceedings of the Rice Blast Workshop, held in 1979, Los Banos, Philippines, IRRI, p 82-137.

30.  Portères, R. 1950. Articulation intraspécifique homologue et origine monophylétique de chacune des espèces Oryza sativa L et O. glaberrima St. Rev. Botr Appl. Agr. Trop., 30: 147-157.

31.  Sharma, S.D. and Shastry, S.V.S. 1971. Phylogenetic studies in genus Oryza I. Primitive characters. Riso, 20:127-136. 

32.  Sharma S.D. 1973. Evolution in genus Oryza. In Advancing Frontiers in Cytogenetics. Hindustan Publishing Corp., New Delhi, p 5-10.

33.  Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình sản xuất lúa gạo tại Việt Nam: từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, p 36-37.

34.  Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo thế giới: Hiện trạng và khuynh hướng phát triển trong thế kỷ 21. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp, TP/HCM, p: 31-44.

35.  Vũ Tuyến Hoàng. 1995. National program for Vietnam on food crops research and development.  Vietnam and IRRI: A Partnership in rice research, IRRI and Ministry of Agriculture and Food Industry, p. 41-44.

36.  Watanabe, Y. 1997. Phylogeny and geographical distribution of genus Oryza. Science of the Rice Plant, Vol.3: Genetics, Food and Agricutlutre Policy Research Center, p. 29-39.

37.  Watt, G. 1892. Rice. In Dictionary of Economic Products of India, Superintendent, Gov. Printing, Calcutta, 5: 498-653.

CHƯƠNG 4

NHỮNG NÔNG DÂN

ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM

 Nhiều nhà nghiên cứu Tây Phương cho rằng nôi nông nghiệp đầu tiên của nhân loại ở vùng Lưỡi Liềm Màu Mỡ Tây Nam Á hay còn gọi Levant, gồm các nước Jordan, Syria, Turkey, Iran và Iraq, xuất hiện cách nay khoảng 11 000 năm (Hình 1). Vào thời đó, các cư dân đã biết thuần hóa một ít loài ngũ cốc, đặc biệt lúa mì, lúa mạch và lúa mạch đen (rye: Cecale cereale thuộc tộc Triticeae) (Bellwood, 2005). Gần đây, các nhà khảo cổ tìm thấy lúa mạch đen được trồng sớm hơn, khoảng 13 000 năm ở Abu Hureyra thuộc nước Syria (Ladizinsky, 1999). Từ vùng Levant, nông nghiệp sơ cổ bành trướng qua Bắc Phi, vùng Baltics, châu Âu, Trung Á, Pakistan và Ấn Độ.

Hình 1: Vùng lưỡi liềm Levant (ảnh Internet)

            Ở Đông Á, một nôi nông nghiệp khác xuất hiện muộn hơn Levant từ 1 000 - 2 000 năm ở Trung  Quốc, cách nay khoảng 9 hay 10 thiên kỷ. Đó là vùng thung lũng giữa sông Hoàng Hà và Dương Tử, được biết có nông nghiệp kê xuất hiện ở phía bắc độ 8 000 năm và nông nghiệp lúa ở phía nam (sông Dương Tử) độ 9 000 năm hoặc hơn (Chang and Goodenough, 1.996; Zhang and Wang, 1998; Zhao, 1998; Chen, 1999, News Network Archaeography, 2011 và Ewen Callaway, 2014). Theo Bellwood (2005:116), cuộc nghiên cứu gần đây ở động Xianrendong và Diaotonghuan, đông bắc tỉnh Jiangxi cho kết quả không thực tế. Các nhà khảo cổ Trung Quốc cho biết phytoliths[3] lúa hoang đã có mặt cách nay khoảng 13 000 năm; nhưng trong thời kỳ lạnh giá và khô khan “Tiểu hạn” (Younger Dryas: 13 000-11 500 năm) lúa hoang vắng mặt, đã làm cho các nhà nghiên cứu Trung Quốc xét lại phytoliths lúa và cho biết một phần do thuần hóa khoảng 8 000-9 000 BC! (Zhao, 1998, Lu et al., 2000)!

            Năm 2011, một nhóm khoa học Mỹ phối hợp các dữ liệu công nghệ di truyền, tin học và mô hình thuần hóa đã cho biết qua “đồng hồ phân tử” của gen lúa, nền nông nghiệp lúa của Trung Quốc xuất hiện cách nay khoảng 8200[4] năm (xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa trồng thế giới).

Từ lâu một số học giả Trung Quốc và Tây Phương tin rằng nông nghiệp (gồm cả lúa) của Trung Quốc tiến về hướng đông qua Nhựt Bổn (khoảng 9 000 năm, nhưng lúa 3 000 năm), Triều Tiên (5 500 năm), Đài Loan, Philippines; về hướng nam đến Quảng Đông, đảo Hải Nam (từ 7 000 đến 5 000 năm) và Đông Nam Á, gồm cả Việt Nam cách nay khoảng 4 500 đến 3 500 năm (Bellwood, 2005). 

DẤU HIỆU XUẤT HIỆN NỀN NÔNG NGHIỆP SƠ KHAI TẠI ĐẤT VIỆT CỔ:

Cũng cần nhắc lại: Một vùng được xem là nôi nông nghiệp sơ cổ cần phải có hiện diện cả hai loại thảo mộc hoang dại và thuần hóa vào thời kỳ đó, bên cạnh các di vật và hoạt động nông nghiệp cổ phát hiện. Nếu chỉ tìm thấy di vật như bào tử phấn hoa hoặc phytoliths cây ăn quả hoang trong các tầng văn hóa khảo cổ chẳng hạn, chưa chắc nơi đó đã có nền nông nghiệp trồng trọt. Ngoài ra, nền nông nghiệp nguyên thủy của Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á chủ yếu cây có củ và cây ăn quả có thể xuất hiện và phát triển mạnh trên các vùng đất cao, xen kẻ với các thung lũng nhỏ, do địa hình rừng núi; trong khi nôi nông nghiệp ngũ cốc sơ khai Trung Quốc (sông Dương Tử - Hoàng Hà) và Ấn Độ (sông Hằng) được bắt đầu tại các thung lũng, đồng bằng rộng lớn.

Về nhân chủng học, trên đất Việt cổ Người Vượn có thể hiện diện cách nay độ 250 000 năm hoặc sớm hơn qua một số di vật đá cuội thu thập được ở di chỉ Núi Đọ, Thanh Hóa và Xuân Lộc, Đồng Nai; người Vượn đứng thẳng (Homo erectus) ở Thẩm Khuyên và Thẩm Hai (Lạng Sơn) cách đây khoảng 500 000 năm. Cuộc khai quật mới đây ở Rộc Tưng, An Khê thuộc tỉnh Gia Lai (Tây nguyên) cho biết người Vượn đứng thẳng có thể sinh hoạt tại nơi này cách nay khoảng 800 000 năm, với các công cụ họat động tìm thấy như rìu tay giai đoạn tối cổ của nhân loại - kiểu rìu tay Acheulean của sơ kỳ thời đại Đá Cũ trên thế giới; nhưng hiện chưa tìm thấy di cốt người cũng như di tích động thực vật vì các di tích phân bố ở ngoài trời nên các vật chất hữu cơ qua quá trình lâu dài đã bị phân hủy (Văn Công Hùng, 2017) (Hình 2).

Hình 2: Hiện vật tìm thấy ở Rộc Tưng, Gia Lai (Ảnh: Hải Lê)

Sau này Người Khôn Ngoan Sớm (Homo sapien) có thể hiện diện ở nước ta cách nay 70 000-60 000 năm (Hình 3) và Người Khôn Ngoan Muộn (Homo sapiens sapiens) độ 30 000 năm, căn cứ vào một số di vật khảo cổ được tìm thấy, như răng, cốt người hóa thạch trong các hang động. 

Hình 3: Gia đình người khôn ngoan sớm (Neanderthal) cách nay 60 000 năm trong thời băng giá ở vùng Levant, họa bởi Zdenek Burian (Lewin, 1988)

             Dựa vào nghiên cứu các đặc điểm đo đạc và mô tả các sọ người tại các di chỉ khảo cổ, di cốt người trong văn hóa Hòa Bình có đa số sọ thuộc giống Indonesian (tiền Mã Lai), trong văn hóa Bắc Sơn sọ người dưới dạng Melanesian (hải đảo) và Indonesian, trong văn hóa Quỳnh Văn và Đa Bút sọ người dưới dạng Australo-Melanesian và Mongoloid (Viện Khảo Cổ Học, 1998).

Trong thời đại Đá Mới, đất Việt cổ chịu ảnh hưởng gió mùa Tây Nam, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm rất thích hợp cho phát triển thảo mộc. Cuộc nghiên cứu về khí hậu ở Miền Bắc cho biết không có thời kỳ băng giá trong Kỷ Thứ Tư, như đã thấy ở vùng Levant của nôi nông nghiệp sơ khai nhân loại; nhưng có thể có một thời kỳ lạnh khắc nghiệt đến nước ta và Đông Nam Á vào thời kỳ cuối Cánh Tân, vì tìm thấy lớp dăm đá vôi Cryoclastic (cấu tử đá vôi do nhiệt độ lạnh hình thành) trong mái đá Ngườm ở Thái Nguyên và các phấn hoa của các loài thảo mộc ưa lạnh như Carya (Juglandae), Carpinus (Betalaceae) ở lớp dưới cùng mái đá này (Hà Văn Tấn, 1984). Ngoài ra, cũng có ít ý kiến cho rằng áp lực dân số trong nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn gia tăng, môi trường hoạt động và sinh sống giảm, thúc đẩy sáng tạo chuyển đổi từ sinh hoạt hái lượm - săn bắt qua trồng trọt và chăn nuôi ở các thung lũng hoặc trên sườn núi đá vôi (Viện Khảo Cổ Học, 1998). Có thể những đợt biển tiến đột ngột làm tăng thêm áp lực cho cư dân sống trên đất Việt thời tiền sử.

Các bằng chứng khảo cổ học tại Việt Nam và các vùng lân cận cho thấy nền nông nghiệp sơ khai đã xuất hiện cách nay ít nhứt 10 000-8 000 năm, như sau:

(1) Theo Bellwood (2005), có chỉ dấu cách nay ít nhứt độ 8 000 năm, cư dân Hòa Bình đã biết ít hoạt động quản lý cây lương thực khá lâu đời, với cây có củ và cây ăn quả trước khi ngành nông nghiệp chính thức xâm nhập từ phương Bắc. Ngoài ra, ở vùng bờ biển Việt Nam, di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa) và Cái Bèo (Hải Phòng) đã có sinh hoạt hái lượm - săn bắt và đánh cá cách nay khoảng 6 500 năm hoặc hơn. Môi trường sinh sống của cư dân văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn là các hang động đá vôi và thức ăn phổ biến là loài nhuyễn thể như ốc núi, ốc suối, sò hến, bên cạnh săn bắt thú hoang, vì vỏ sò ốc và xương động vật hoang được tìm thấy với số lượng lớn tại các nơi khai quật. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có nhiều di vật khảo cổ học tìm được trong các cuộc khai quật từ đầu thế kỷ XX đến nay để xác nhận chính thức một nền nông nghiệp sơ khai xảy ra trong nước, khi cuộc Cách Mạng Đá Mới bùng phát trên thế giới; nhưng có một số công cụ sản xuất đá được tìm thấy ở di chỉ Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút..., bên cạnh các khám phá di vật như phấn hoa của một số thảo mộc.

(2) Tại các di chỉ văn hóa Hòa Bình (cách nay khoảng 12 000-10 000 năm), nghiên cứu về bào tử phấn hoa cho biết có nhiều loài bào tử và phấn hoa khác nhau, nhưng chưa có loài thảo mộc nào được thuần dưỡng (Trần Đạt, 1987). Các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy di tích động vật, gồm các loài nhuyễn thể như ốc, trai; xương động vật chưa được thuần hóa như vượn, khỉ, nai, trâu, bò rừng…Tuy nhiên, họ phát hiện một bức họa đầu người trên vách hang Đồng Nội, một số viên đá hoặc mẩu xương có vết khắc những hình lá cây và động vật (Viện Khảo Cổ Học, 1998:162). Hình lá cây này có những gân song song thuộc loài Hòa thảo (theo Bà M. Colani, nhà Khảo cổ học lớn của Pháp); mà trong các loài cây lương thực, cây lúa có lá hình dáng giống như thế (Bùi Huy Đáp, 1980).

Ngoài ra, họ còn tìm thấy trong nền văn hóa Hòa Bình nhiều công cụ đá ghè đẽo một mặt (đa số), hai mặt, có hình dáng hạnh nhân, tam giác, hình đĩa giống như “rìu tay” nhỏ; công cụ xương (rìu xương, đục xương, mũi nhọn xương, nạo vỏ trai) cho biết cư dân có một ít hoạt động quản lý nông nghiệp sơ kỳ. 

(3) Mãi đến cuối nền văn hóa Hòa Bình và trong văn hóa Bắc Sơn (cách nay 8 000-6 000 năm), các di vật được tìm thấy trong các cuộc khai quật gồm có công cụ đá mài, công cụ xương và đồ gốm. Các rìu mài lưỡi, còn gọi rìu Bắc Sơn, các công cụ ghè đẽo chiếm tỉ lệ cao nhứt trong nhóm di vật, chứng tỏ chúng có thể được sử dụng trong các hoạt động chặt, đốn cây, phá rừng để làm rẫy trồng trọt.

(4) Trong nền văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, sinh hoạt con người thường là từng băng nhóm gồm nhiều gia đình độ 20-30 người chiếm một vùng đất nào đó để kiếm ăn hàng ngày. Sau đó, các băng nhóm liên kết nhau qua quan hệ hôn nhân, nên nhiều bộ lạc ra đời cách nay khoảng 6 500 năm. Theo tài liệu dân tộc học, các bộ lạc thường sống với nghề nông, chủ yếu làm vườn ở thung lũng hoặc vùng đất cao; nhưng cũng có nhiều bộ lạc còn hái lượm và săn bắt hoạt động khá mạnh trên các sườn đồi, rừng núi. Các bộ lạc ít di chuyển thường xuyên hơn các bầy người và băng nhóm (Viện Khảo Cổ Học, 1998).

(5) Trong nền văn hóa bờ biển Đa Bút (cách nay 6 000-5 000 năm), các nhà khảo cổ học tìm thấy rìu mài, cưa, đục, chì lưới đá… và xương của một số thú gồm cả trâu, heo; nên họ tin cư dân biết nghề đánh cá và nuôi dưỡng trâu và heo (Patte, 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Như vậy, cư dân vùng này có thể sử dụng súc vật trong ngành nông nghiệp. Ngoài ra, họ còn biết trồng cây ăn quả, rau, củ xung quanh nhà (Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980). Ngành nông nghiệp đã xuất hiện rõ nét hơn ở Việt Nam, mặc dù còn sơ khai cách nay ít nhứt 6 000 năm.

(6) Tại Đông Nam Á, giai đoạn nông nghiệp đầu tiên là nông nghiệp trồng củ và cây ăn trái, thuần hóa nhiều loài thảo mộc; trong khi chăn nuôi chiếm địa vị nhỏ bên cạnh trồng trọt do ít đồng cỏ hiện diện (Viện Khảo Cổ Học, 1998). Ở hang Ma (Spirit cave), vùng biên giới Thái Lan và Miến Điện, nhà khảo cổ học Chester Gorman (1969) đã tìm được 28 loại bào tử phấn hoa của các loài cây ăn trái khác nhau và phỏng đoán nền nông nghiệp cây ăn trái và khoai củ đã bắt đầu xuất hiện cuối văn hóa Hòa Bình của nước này, khoảng 8 000-6 000 năm.

Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu vết vỏ trấu trên những mảnh gốm ở Non Nok Tha thuộc vùng Cao Nguyên Khorat với niên đại phóng xạ khoảng 6 000 năm (Solheim, 1967). Ông Higham (1989) báo cáo vỏ trấu và liềm gặt lúa bằng vỏ sò được tìm thấy ở Khok Phanom Di gần vùng vịnh Thái Lan có niên đại phóng xạ 8 000-6 000 năm BP.

Các nhà nghiên cứu cho rằng thời kỳ nông nghiệp sơ khai với cây củ và ăn quả có thể xuất hiện tại nhiều nước Đông Nam Á cách nay ít nhứt khoảng 8 000 năm trong nền văn hóa Hòa Bình. Con người bắt đầu thuần hóa một số thảo mộc, ngoài sinh hoạt hàng ngày với hái lượm và săn bắt để có thêm thực phẩm và tránh bớt nguy hiểm từ thú dữ. Đó là những nông dân đầu tiên của vùng Đông Nam Á.

Do đó, tại đất Việt cổ, những nông dân đầu tiên biết trồng các loại cây lương thực, chủ yếu cây có củ và cây ăn quả cách nay ít nhứt 8 000-7 000 năm trong giai đoạn muộn của nền văn hóa Hòa Bình; nhưng chưa tìm thấy chứng cớ hoạt động thuần hóa thực vật và động vật, ngoài phát hiện các công cụ sản xuất đáng chú ý. Nông dân có thể trồng lúa rẫy trên các sườn đồi núi, đất cao cách nay ít nhứt 6 000 năm khi các Bộ lạc xuất hiện.

(7) Về nguồn gốc cây lúa trồng ở Châu Á, một số nhà nghiên cứu cho rằng vùng Đông Nam Á gồm cả Việt Nam có thể có nhiều trung tâm nguồn gốc cây lúa trồng độc lập, chứ không phải du nhập từ miền nam sông Dương Tử, Trung Quốc (Hamada,1949; Burkill, 1953; Barra;1966; Solheim II, 1967; Moringa, 1972; và Chang, 1976 và 1985). Tại Việt Nam, các nhà khảo cổ học tìm thấy ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng) nhiều phấn hoa của một giống lúa nước có niên đại cao nhứt đến nay 3 405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Năm 2017, một số nhà nghiên cứu gồm cả Việt-Úc công bố kết quả nghiên cứu trên những mảnh gốm cổ của di chỉ An Sơn và Lộc Giang, tỉnh Long An với công nghệ MicroCT cho thấy cây lúa thuần xuất hiện ở ĐBSCL trong thời đại Đá Mới cách nay ít nhứt 4 000 năm  (Xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa Việt Nam). Ở Thái Lan, cây lúa trồng có thể xuất hiện cách nay khoảng 8 000-6 000 năm.

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu Tây phương và Trung Quốc cho rằng nông nghiệp gồm cả lúa của Việt Nam và các nước Đông Nam Á là do các di dân từ phương Bắc mang đến. Ý kiến này không đồng thuận với kết quả của các cuộc nghiên cứu khác trong nước và Đông Nam Á hơn thế kỷ vừa qua, nhứt là đối với nền nông nghiệp lúa, vì các lý do sau đây:

(i)                 Nền nông nghiệp sơ khai đã xuất hiện ở vùng Đông Nam Á cách nay khoảng 8 thiên kỷ hoặc hơn, trong nền văn hóa Hòa Bình;

(ii)               Cây lúa phân hóa sâu rộng ở Đông Nam Á, gồm cả Việt Nam;

(iii)             Các bộ lạc trồng lúa đã xuất hiện ở các nước Đông Nam Á vào khoảng 6 000 năm trước trong văn hóa Bắc Sơn;

(iv)             Vùng núi non Đông Nam Á có nhiều nền văn hóa cổ sơ và đa canh với nhiều loài thảo mộc, nhứt là hiện diện của nhiều giống lúa hoang;

(v)               Nền nông nghiệp, nhứt là nông nghiệp nhiệt đới, chỉ có thể xuất hiện, tiến hóa và phát triển mạnh ở vùng có khí hậu ấm áp và ẩm ướt; và

(vi)             Các nghiên cứu khoa học và kết luận về nguồn gốc đa trung tâm của Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế (IRRI) ở Philippines.

Cho nên, miền thượng du Bắc Bộ có thể là một trong những trung tâm nguyên thủy của cây lúa trồng ngày nay của châu Á (Chang, 1976 và 1985). Cũng vậy, nền nông nghiệp sơ khai có thể xuất hiện độc lập tại Việt Nam, Thái Lan và vài nơi khác của Đông Nam Á. Năm 2018, dự án 3 000 bộ gen lúa của IRRI một lần nữa đã báo cáo cây lúa châu Á đã được thuần hóa nhiều lần một cách độc lập hàng ngàn năm (Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung, 2018), (IRRI. 2018) (Xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa Việt Nam).

Cho nên, nền nông nghiệp cổ Việt Nam, nhứt là ngành trồng lúa, không nhứt thiết bắt nguồn từ phương Bắc, trái lại, có thể do cư dân lâu đời đã bắt đầu trồng trọt cây ăn trái và cây củ vào thời đại Đá Mới giữa (khoảng 8 000 năm hoặc hơn), sau nôi nông nghiệp đầu tiên của nhân loại khoảng 3 000 năm, nông nghiệp ngũ cốc nguyên thủy Trung Quốc độ 2 000 năm. Họ là những người nông dân đầu tiên tại Việt Nam. 

Tài Liệu Tham Khảo:

  1. Barrau, J. 1966. The Indo-Pacific area as a centre of origin and domestication of plants. Symp. Ethnobot., Centen. Celebrations Peabody Mus. Natur. Hist., Yale Univ., New Haven, Conn. Cited in K.C. Chang (1970).
  2. Bellwood, P. 2005. First Farmers: The Origins of Agricultural Societies. Blackwell Publishing, Victoria, Australia, 360 pages.
  3. Burkill, I.H. 1953. Habits of man and the origins of cultivated species of the Old World. Proc. Linn. Soc. London 164: 12-41.
  4. Bùi Huy Đáp. 1980. Cây lúa Việt Nam. Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 trang.
  5. Colani, M. 1926.  Découverte de paléolithique dans la province de Hoabinh. L’Anthropologie, vol XXVI, Paris.
  6. Chang, T.T. 1976. The rice culture. PhilosophicalTransactions of the Royal Society. London, B, 275:143-157.
  1. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research, Vol 59 (4): 425-455.
  2. Chang, K.C. and Goodenough, W. 1996. Archeology of Southern China and its bearing on the Austronesian homeland. In W. Goodenough ed., Prehistoric settlement of the Pacific, pp. 36-56. Philadelphia: American Philosophical Society.
  3. Chen, X. 1999. On the earliest evidence for rice cultivation in China. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 18:81-94.
  4. Ewen Callaway. 2014. Domestication: The birth of rice. Nature, 514: 58-59 (30 October 2014).
  5. Gorman, C.F. 1969. Hoabinhian: A pebble tools complex with early plant associates in Southeast Asia. Science, vol. 163.
  6. Hà Văn Tấn. 1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam Á. NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1984: 18-20.
  7. Hamada, H. 1949. Consideration on the origins of rice cultivation. Nippon Saku-motsu Gakkai Kiji, 18: 106-107.
  8. Higham, C. F. W. 1989. Rice cultivation and the growth of Southeast Asian civilization. Endeavour 13: 82-8.
  9. Ladizinsky, G. 1999. Identification of the lentil’s wild genetic stock. Genetic Resources and Crop Evolution, 46: 115-8.
  10. Lewin, R. 1988. In the age of mankind. A Smithsonian book of Human Evolution, p 117.
  11. Lu, H, Lieu, Z, Wu, N. et al. 2002. Rice domestication and climate change: phytoliths evidence from East China. Boreas 31:378-85.
  12. Morinaga, T. 1972. Japanese rice and its introduction from abroad. In Morinaga, T., Kihara, H., Tshukuba, J and Ueno, M. eds. History of Biology in Japan of dawn of its civilization, Yokendo, Tokyo (trong Matsuo, 1997).

19.  News Network Archaeography. 2011. Rice's origins point to China, genome researchers conclude.
Read more at
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2011/05/rices-origins-point-to-china-genome.html#U6WJE18kxKrGAlp6.99.

  1. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt. 1980. Phân tích bào tử phấn hoa ở Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa). Những phát hiện mới (NPHM), Viện Khảo Cổ Học 1980.
  2. Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận. 1981. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù, Thần Sa- những di tích của con người thời đại đá. Bắc Thái 1981.
  3. Nguyễn Khắc Sử. 1987. Kỹ nghệ công cụ cuội Việt Nam và vị trí của nó trong thời đá Đông Nam Á. Khảo Cổ Học, 1987 (2): 9-21.
  4. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  5. Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
  6. Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tonkin) delta of Vietnam. In Watanabe T. Edition “History of Asian Rice”, Shogakukan, Tokyo: 235-276.
  7. Solheim, W.W. II. 1967. Two pottery traditions of late prehistoric times in Southeast Asia. Historical Archeological and Linguistic Studies on Southern China, Southeast Asia and the Hong Kong region. Ed. F. S. Drake. Hong Kong University Press, Hong Kong 1967, p. 15-22
  8. Trần Đạt và Đinh Văn Thuận. 1984. Phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phúc). NPHM, Viện Khảo Cổ Học, 1984: 91-93.
  9. Trần Đạt. 1987. Nhìn lại các kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam. Khảo Cổ Học, số 4-1987: 61-68.

29.  Văn Công Hùng. 2017. Tám mươi vạn năm trước, tổ tiên ta và sông Ba... Báo Mới 04/05/2017(https://baomoi.com/tam-muoi-van-nam-truoc-to-tien-ta-va-song-ba/c/22181062.epi).

  1. Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
  2. Vũ Thế Long. 1984. Người Hòa Bình và thế giới động vật. Khảo Cổ Học, số 1, 2-1984.

32.  Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung. 2018. https://d.adroll.com/cm/aol/outhttps://d.adroll.com/cm/index/outhttps://d.adroll.com/cm/n/outGenomic variation in 3,010 diverse accessions of Asian cultivated rice. Nature, 557: 43-49.

  1. Zhang, J. and Wang, X. 1998. Notes on the recent discovery of ancient cultivated rice at Jiahu, Henan province. Antiquity 72:897-901.
  2. Zhao, Z. 1998. The Middle Zangtze region in China is one place where rice was domesticated. Antiquity 72:885-96.

PHẦN II:

TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ TRỒNG LÚA 

 

CHƯƠNG 5

GIAI ĐOẠN

SĂN BẮT-HÁI LƯỢM VÀ

THUẦN HÓA CÂY LÚA

THỜI NGUYÊN THỦY

(18 000 -7 000 năm BP)

Lịch sử trồng lúa là một đề tài lớn trong khi thông tin, tài liệu và nghiên cứu còn nhiều giới hạn. Cây lúa là loại lương thực quan trọng của dân tộc Việt Nam ít nhứt từ 4 500 năm trước và của hơn phân nửa dân số thế giới hay 4 tỷ người hiện nay. Dân tộc có lịch sử, cây lúa cũng cần có lịch sử để tìm hiểu sự tương quan giữa con người và Hòa thảo này. Trong thời gian qua, những thành tựu ngành khảo cổ học và thư tịch trong và ngoài nước đã giúp rọi sáng phần nào sự tiến hóa phát triển của nền nông nghiệp và ngành trồng lúa Việt Nam từ thời nguyên thủy đến hiện đại; nhưng lãnh vực này còn cần thêm nhiều nghiên cứu sâu rộng, nhứt là cần thực hiện thêm công tác thám sát, điều tra và khai quật khảo cổ cũng như áp dụng các công nghệ tiến bộ trong phân tích để sớm có bức tranh rõ nét hơn về lịch sử tiến bộ của ngành này.

Về khảo cổ học, từ lâu các trầm tích hạt lúa, hạt gạo, vỏ trấu, than tro, bào tử phấn hoa, côn trùng, phytoliths, công nghệ di truyền… thường được các nhà nghiên cứu dùng đến để đánh giá niên đại và nguồn gốc cây lúa. Nhưng các di tích khảo cổ thường bị chi phối lâu dài bởi điều kiện khí hậu, môi trường địa phương; cho nên phương pháp xác định niên đại của các di vật thường gặp sai lầm không thể tránh được. Khí hậu nóng ẩm của miền nhiệt đới hủy hoại các vật chất hữu cơ ngoài trời nhanh hơn so với vùng ôn đới, ngoại trừ chúng được hóa thạch hoặc dưới hình thái khác như gạo cháy, phytoliths, trấu trên các mảnh gốm cổ... Hiện tượng biển tiến và biển thoái đã làm cuốn trôi nhiều di tích thực vật cổ ở các vùng đồng bằng trũng thấp ven biển. Dù thế, việc dùng phương pháp đồng vị phóng xạ C14 để xác nhận khung niên đại di vật phát hiện trong các cuộc khai quật hoặc sưu tầm có giá trị tương đối để hiểu biết rõ hơn các nền văn hóa khảo cổ trong thời tiền sử và có sử. Nhờ đó, chúng ta có được một số thông tin đáng tin cậy về tiến trình tiến hóa ngành nông nghiệp lúa qua nhiều giai đoạn thăng hoa của dân tộc và đất nước. Đến đầu thế kỷ XXI, các nhà nghiên cứu còn phối hợp công nghệ di truyền học, sinh học, tin học, toán học và mô hình thuần hóa hoặc công nghệ MicroCT để tìm hiểu nguồn gốc, phân bố con người và thảo mộc trên thế giới.

Các phát hiện khảo cổ học trong hơn một thế kỷ qua cho biết quá trình trồng lúa ở Việt Nam đã trải qua thời gian lâu dài và đồng hành với trình độ văn minh dân tộc qua nhiều chặng đường phát triển văn hóa đất nước. Từ thời người Vượn cho đến cuối thời đại Đá Mới khoảng 5 000 năm trước là thời nguyên thủy (hay tiền sử), con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và bắt đầu nền nông nghiệp cổ sơ; nhưng chưa tiến bộ như thời đại Kim Khí. Từ nền văn hóa Hòa Bình (12 000-10 000 năm), cuộc Cách Mạng Đá Mới bùng phát khắp nơi, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện và cư dân châu Á biết dùng cây có củ, cây ăn quả, đậu, sò ốc để có thêm thức ăn, biết dưỡng trồng cây lúa hoang quanh nơi cư trú hoặc ven các đầm lầy, sông suối, sườn đồi để có thêm lương thực. Nghề trồng lúa đã thực sự mang đến đời sống xã hội ổn định và thịnh vượng hơn sau khi nền nông nghiệp cổ sơ ra đời trên đất Việt cổ.  

 

Các thỜi kỲ lỊch sỬ cẦn biẾt

 

Để có ý niệm thời gian rõ rệt trong quá trình tiến hóa vạn vật, các giai đoạn sử học và khảo cổ học được sơ lược trình bày trước khi bước vào tìm hiểu lịch sử ngành nông nghiệp lúa cổ qua khảo cổ học Việt Nam và quốc tế. Các nhà sử học thường phân chia lịch sử loài người làm hai thời kỳ chính: tiền sử và có sử.

Thời tiền sử gồm có 3 thời đại:

-          Thời đại Đá Cũ (hay đá đập): từ khoảng 2 588 000 đến 11 000 năm trước,

-          Thời đại Đá Mới (hay đá mài): từ khoảng 11 000 đến 5 000 năm trước,

-          Thời đại Kim Khí (thời có sử): bắt đầu khoảng 5 000 năm trước.

Thời có sử gồm có 4 thời đại:

-          Thời Thượng Cổ: từ khi có chữ viết (5 000 năm trước) đến thế kỷ V sau Công Nguyên (CN),

-          Thời Trung Cổ: từ thế kỷ V đến thế kỷ XV sau CN,

-          Thời Cận Đại: từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và

-          Thời Hiện Đại: từ thế kỷ XVIII đến ngày nay.

Theo khảo cổ học, kỷ Thứ 4 còn gọi là kỷ Nhân sinh, là kỷ hình thành phát triển con người và trái đất. Kỷ Thứ 4 có thể dài lâu đến 2,6 triệu năm hoặc hơn và được phân chia làm 2 giai đoạn:

-          Cánh Tân (Pleistocene) còn gọi là thời đại Đá Cũ rất dài, và

-          Toàn Tân (Holocene) hay thời đại Đá Mới-Kim Loại rất ngắn, khoảng từ 10 000 năm nay.

Riêng thời kỳ Cánh Tân được phân ra là 3 giai đoạn: Cánh Tân sớm Q1, Cánh Tân giữa Q2 và Cánh Tân muộn Q3. Kỷ Thứ Tư được tóm lược với niên đại ước định trong Bảng 1.

 

Bảng 1: Phân chia giai đoạn kỷ Thứ Tư

 

 

Kỷ

 

 

 

Thế

 

Dưới thế

Niên đại

tuyệt đối

 

Toàn Tân  (Holocene)

(Đá Mới: Neolithic, Kim Loại và Hiện Đại)

 

 

10 000 năm BP

KỶ THỨ TƯ

Nhân sinh

Cánh Tân muộn

125 000 năn BP

 

 

Cánh Tân (Pleistocene)

(Đá Cũ: Palaeolithic)

Cánh Tân giữa

700 000 năm BP

 

 

Cánh Tân sớm

2 588 000* năm BP

 

KỶ THỨ BA**

Tân sinh (Pliocene)

 

 

Nguồn:  - Viện Khảo Cổ Học, 1998

- BP: Before present: trước ngày nay, theo qui ước khảo cổ học trước ngày 1 tháng giêng 1950 vì “ngày nay” luôn bất định.

- *Năm 2009, ICS (International Commission on Stratigraphy- Ủy ban Quốc tế Địa tầng học) đã chấp nhận điều chỉnh lại ranh giới bắt đầu của phân đại/kỷ này.

**Niên đại địa chất từ 2009:

-Đại Cổ sinh (Paleozoic: 248-542 triệu năm) trước là Kỷ Đệ Nhất 
-Đại Trung sinh (Mesozoic: 65-251 triệu năm) trước là Kỷ Đệ Nhị

-Đại Tân sinh (Cenozoic: 0-65 triệu năm) trước là Kỷ Đệ Tam. Nay Đại Tân sinh chia làm 2: Phân đại Đệ Tam và Phân đại Đệ Tứ (thế Pleistocen: 10 ngàn-2,6 triệu năm và thế Holocene:10 ngàn năm đến nay) (https://vi.wikipedia.org/wiki/Niên_đại_địa_chất) 

Với các thành tựu khảo cổ học trong hơn một trăm năm vừa qua, các nhà khảo cổ học Việt Nam “xác định” được các giai đoạn văn hóa thời hậu kỳ đá cũ, như sau:

  • Kỹ nghệ Ngườm (30 000-23 000 năm BP).
  • Văn hóa Sơn Vi tồn tại 20 000 năm, trong khung từ 30 000 năm đến 11 000 năm BP. Ranh giới giữa của giai đoạn sớm và muộn là 18 000-17 000 năm.

Thời kỳ Băng Giá cực đại cuối cùng cách nay 20 000-18 000 năm, sau đó băng bắt đầu tan rả, mực nước biển tăng lên cho đến ngày nay, và Tiểu Hạn khô lạnh (Younger dryas) xảy ra cách nay từ 13 000 đến 11 500 năm.

Các nền văn hóa chủ yếu tiếp theo trong thời đại Đá Mới và Kim Khí như sau (Viện khảo cổ học, 1998):

  • Văn hóa Hòa Bình tồn tại 11 000 năm trong khung từ 18 000 năm đến 7 000 năm BP
  • Văn hóa Bắc Sơn tồn tại 4 000 năm trong khung từ 11 000 năm đến 7 000 năm BP
  • Văn hóa Đa Bút tồn tại 2 000 năm trong khung từ 6 500 năm đến 4 500 năm BP
  • Nền văn hóa Nam bộ: Cầu Sắt-Suối Linh tồn tại 2 000 năm trong khung từ 5 000 đến 3 000 năm BP
  • Văn hóa Phùng Nguyên tồn tại 1 000 năm trong khung từ 4 500 năm đến 3 500 năm BP
  • Văn hóa Tiền Sa Huỳnh tồn tại 500 năm trong khung từ 3 500 năm đến 3 000 năm BP
  • Văn Hóa Đồng Đậu tồn tại 500 năm trong khung từ 3 500 năm đến 3 000 năm BP
  • Văn hóa Gò Mun tồn tại 300 năm trong khung từ 3 100 năm đến 2 800 năm BP
  • Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại 900 năm trong khung từ 3 000 năm đến 2 100 năm BP
  • Văn hóa Đông Sơn tồn tại 1 000 năm trong khung từ 2 800 năm đến 1 800 năm.

Các nền văn hóa sau này có thời gian tồn tại ngắn hơn, do con người ngày càng tiến bộ nhanh hơn.

 

 

1.      THỜI ĐẠI ĐÁ CŨ Ở VIỆT NAM

Thời đại Đá Cũ (Hình 1) là thời kỳ dài nhứt của lịch sử loài người gần 2,6 triệu năm chỉ chấm dứt cách nay độ 10 000 năm. Theo các cuộc nghiên cứu cho biết vào thời đại đá Người Vượn (Homo erectus) có nguồn gốc từ châu Phi, di cư tới châu Á cách nay độ một triệu năm (Ciochon, 1988). Người Vượn có thể xuất hiện trên đất Việt cổ cách nay ít nhứt 250 000 năm hoặc sớm hơn, nhưng chưa có chứng cớ xác thực. Nhưng Người Khôn Ngoan Sớm (Homo sapien) có thể hiện diện ở nước ta cách nay 70 000-60 000 năm và Người Khôn Ngoan Muộn (Homo sapiens sapiens) độ 30 000 năm, căn cứ vào một số di chỉ khảo cổ được tìm thấy như răng, cốt người hóa thạch trong các hang động (Viện Khảo Cổ Học, 1998).

     Hình 1: Bản vẽ Công cụ đá cũ sơ kỳ ở Việt Nam

     (1-2: Núi Đọ, 3-5: Đông Nam Bộ) (Viện Khảo Cổ Học, 1998)

 

      Hình 2: Di chỉ tiền sử và sơ sử Đông Dương (Lê Thành Khôi, 2014)

Ở Việt Nam, thời đại sơ kỳ Đá Cũ đã được ghi nhận và khảo sát ở di chỉ khảo cổ Núi Đọ thuộc Miền Bắc và Xuân Lộc ở Miền Nam (cách nay khoảng 300 000 năm), với các công cụ, vật liệu thu thập được trên mặt đất còn giới hạn (Hình 1 và 2) và các phương pháp xác định niên đại chưa được chinh xác. Năm 2017, các nhà khảo cổ học phát hiện một số di vật, đặc biệt nhiều công cụ như công cụ cắt chặt, mũi nhọn tam diện, ghè một mặt, ghè hai mặt, rìu tay điển hình và rất nhiều mảnh thiên thạch ở Gò Đá, Rộc Tưng thuộc Thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, cho biết Người Vượn đứng thẳng có thể sinh hoạt nơi đây cách nay khoảng 800 000 năm (Văn Công Hùng, 2017) (Xem thêm Chương 4: Những nông dân đầu tiên ở Việt Nam).

 Hình 3: Con đường người rời khỏi Châu Phi, 2015

(Bản đồ National Geographic)

            Tuy nhiên, theo nghiên cứu về nguồn gốc con người mới đây với công nghệ hiện đại kết hợp di truyền, tin học, sinh học và mô hình cho biết con người có nguồn gốc ở nhiều nơi châu Phi đã đến bán đảo Á Rập, Trung Đông cách nay khoảng 100 000 năm, phần lớn di chuyển ven biển đến Ấn Độ 70 000 năm (Hình3). Từ đó một phần đi về hướng tây đến Châu Âu cách nay 40 000 năm (có một bộ phận của nhóm này trở lại châu Phi cách nay 3 000 năm), một nhóm khác đi về hướng bắc đến Trung Quốc cách nay 65 000 năm và một nhóm đi theo ven biển Ấn Độ đến Lào và Đông Nam Á khoảng 60 000-55 000 năm. Từ Đông Nam Á họ đi về hướng nam đến châu Úc khoảng 50 000 năm (Abigail Beall, 2017 và Dacid Maxwell Braun. 2011). Cũng cần biết thêm loài người đã bị diệt chũng nhiều lần trong thời kỳ tiến hóa lâu dài, do ảnh hưởng của môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, có lúc chỉ còn khoảng 10 000 người trên địa cầu (Evolution of modern humans).

2.      GIAI ĐON SĂN BT-HÁI LƯỢM (Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội, 1987; Viện Khảo Cổ Học, 1998 và 1999; Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000).

Trong giai đoạn hậu kỳ thời đại Đá Cũ, con người còn sống rất hoang dã. Họ trải qua giai đoạn phát triển trí tuệ và thể chất để thích ứng với môi trường thiên nhiên và sinh tồn. Đặc biệt sau thời kỳ Tiểu hạn giá lạnh khô khan cách nay 13 000-11 500 năm và dưới áp lực dân số, sinh hoạt hàng ngày của cư dân thay đổi tích cực theo thời gian, từ hoạt động săn bắt và hái lượm dài lâu tiến đến nền “nông nghiệp sơ khai” để có đời sống tương đối tốt và ổn định hơn.

Theo các nhà khảo cổ học, kỹ nghệ mảnh tước được tìm thấy ở mái đá Ngườm, Thái Nguyên, được gọi là kỹ nghệ (hay văn hóa) Ngườm (30 000-23 000 năm trước) phát triển trước nền văn hóa Sơn Vi. Cả hai giai đoạn tiến hóa này thuộc hậu kỳ thời đại Đá Cũ. Giai đoạn đóng băng của địa cầu đạt đến cực đại cuối cùng (và băng bắt đầu tan khi nhiệt độ tăng lên) cách nay khoảng 20 000-18 000 năm.

Những di tích có công cụ mảnh tước kiểu Ngườm trong khối đá vôi Bắc Sơn như Lạng Nắc, Bó Lấm, Nà Coóc, Hang Dơi và Nà Nông. Nền văn hóa Bắc Sơn sau này nằm liền kề với những di tích có công cụ mảnh tước. Cư dân Ngườm chỉ sống với săn bắt hái lượm, chưa biết đến nông nghiệp; nhưng dùng công cụ mảnh tước trong sinh hoạt hàng ngày (Hình 4). Cùng thời kỳ với kỹ nghệ Ngườm ở Việt Nam là Mái đá Lang Rongrien của Thái Lan và Bạch Liên Động ở miền Nam Trung Quốc (Viện Khảo Cổ Học, 1998). Đến nay, văn hóa Ngườm chưa có nhiều thông tin chi tiết.    

   Hình 4: Mảnh tước địa điểm Miệng Hổ

                (Viện Khảo cổ học, 1998)

Nền văn hóa Sơn Vi (từ 18 000-12 000 năm BP): Địa bàn phân bố của các di tích Sơn Vi khá rộng ở một số tỉnh Miền Bắc trung du và Miền Bắc Trung phần, tập trung cao ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa và lẻ tẻ ở vùng núi lân cận như Sơn La và Lai Châu. Các di tích này đa số ở ngoài trời - thềm sông, các loại di tích hang động và mái đá rất ít (Bảng 1).

Di tích Sơn Vi trong hang động thường có tầng mỏng ít vỏ nhuyễn thể, đất sét vôi cứng, vài nơi bị laterit hóa. Còn di cốt động vật tuy ít nhưng khá phong phú về giống loài rất hiếm cho ngày nay, như voi Ấn Độ, bò rừng, tê giác hoặc một số nay tuyệt chũng như gấu tre, đười ươi. Ngoài ra, tại một số di chỉ Sơn Vi còn tìm thấy xương cá, các loài càng cua cho biết bấy giờ có một bộ phận hoạt động khai thác thủy sản. Về di tích thực vật tìm thấy bào tử họ Dương xỉ (Polypodiaceae), Kim mao (Cyatheaceae), một số quả hạt trà (Viện Khảo cổ học, 1998). 

Bảng1: Các giai đoạn phát triển của văn hóa Sơn Vi 

Giai đoạn

Niên đại

Di tích hang động, mái đá

Di tích đồi gò, thềm sông

 

Muộn

Từ 18 000-17 000 đến 12 000-11 000 năm BP.

Pông, Hang Tọ, Con Moong, Núi Một, Phứng Quyền, Mái đá Điều (lớp 6), Mái đá Nước.

CụmĐồn, Pá Mang, phần lớn các địa điểm ở 2 tỉnh Phú Thọ và Yên Bái.

Sớm

Từ 30 000-20 000 đến 18 000-17 000 năm BP.

Thẩm Khương (lớp dưới), Nậm Tun (lớp dưới), và Mái đá Điều (lớp 7).

Cầu Đen, Công Nghiệp, Chũ, Vạn Thắng, LàngVạc và phần lớn các địa điểm ở Sơn La và Lai Châu.

Nguồn: Khảo cổ học Việt Nam, 1998 

Công cụ đặc trưng của văn hóa Sơn Vi chủ yếu là công cụ đá ghè đẻo, vắng mặt kỹ thuật mài (Hình 5). Người Sơn Vi chủ yếu dùng nguyên liệu từ các hòn đá cuội sông suối, hình dáng và kích thước khá ổn định.

Từ thời Người Khôn Ngoan sớm (Homo sapiens) cho đến người Sơn Vi, các di vật khảo cổ liên hệ đến nền nông nghiệp sơ khai không được tìm thấy ở các địa điểm khai quật, ngoài các công cụ thuộc thời đại Đá Cũ liên hệ đến sinh hoạt con người như cắt, chặt, bổ…, và các bào tử hạt phấn của một số loài thảo mộc thiên nhiên. Ngoài ra, còn có các dụng cụ khác có hình đa dạng- hình trái hạnh đào, bầu dục, tam giác không đều… là nạo, cắt, chày, cối; nhưng chày cối không phải là dấu vết của nông nghiệp sơ khai, mà công cụ để nghiền rễ, thân cây hay củ để lấy chất dinh dưỡng. Đó là dấu vết của hái lượm (Lê Thành Khôi, 2014).

Lúc bấy giờ, con người sống từng bầy từng nhóm, với sinh hoạt chủ yếu là săn bắt và hái lượm ngoài trời để sinh tồn và đời sống của họ hoàn toàn hoang dã, di động. Con người phải đi tìm thức ăn thảo mộc như cây có củ (như củ từ, khoai mỡ), cây ăn quả, cây đậu và hái những hạt lúa hoang trong các đầm lầy, rừng núi (Chang, 1985, Wing et al., 2018). Ở châu Á, cây lúa hoang có thể tìm thấy từ 18 000 năm trước. Tại Việt Nam, cư dân còn bắt ốc núi, ốc suối và thú rừng làm lương thực. Trong điều kiện khí hậu gió mùa có nắng ấm mưa nhiều, đất Việt cổ vào thời nguyên thủy chắc chắn có quần thể thực vật rất phong phú và đa dạng, cung cấp cho các cư dân nguồn thực phẩm thảo mộc và động vật thiên nhiên vô hạn.

Hình 5: Công cụ đá văn hóa Sơn Vi

(1-3: Mảnh tước, 4-5: Cuội bổ, 6-20: Công cụ cuội) (Viện Khảo Cổ Học, 1998) 

3.      NỀN NÔNG NGHIP SƠ KHAI (cách nay 11 000-7 000 năm BP)

(Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội, 1987; Viện Khảo Cổ Học, 1998 và 1999; Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000).

Tiếp theo nền văn hóa Sơn Vi, con người bước đến giai đoạn văn hóa Hòa Bình cách nay khoảng 12 000-10 000 năm hay bắt đầu thời đại Đá Mới. Nền văn hóa này do bà Madeline Colani (1926), nhà khảo cổ học Pháp khám phá, đã xuất hiện không những ở Việt Nam còn nhiều nước Đông Nam Á, như Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Indonesia, Philippines… Tại Việt Nam, đặc điểm phân bố di tích văn hóa Hòa Bình không đều, đa số được tìm thấy ở hai tỉnh Hòa Bình (72 địa điểm) và Thanh Hóa (32 địa điểm). Môi trường sinh sống của cư dân văn hóa Hòa Bình (và Bắc Sơn) là các hang động đá vôi và thức ăn phổ biến là loài nhuyễn thể, bên cạnh săn bắt thú hoang, vì vỏ sò ốc và xương động vật hoang được tìm thấy với số lượng lớn tại các nơi khai quật.

Lúc bấy giờ, con người còn sống từng băng nhóm, lấy hang động làm đơn vị cư trú. Các nhà khảo cổ tìm thấy hình khắc mặt người và thú (Hình 6) trên vách đá hang động Đồng Nội. Họ cũng phát hiện một số viên đá hoặc mẩu xương có vết khắc vạch những hình lá cây gồm cả lá lúa, động vật. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy những đống than tro có hình tròn, do các vết tích than củi, xương động vật và vỏ nhuyễn thể cháy trong hang. Với câu “ăn lông ở lỗ” người ta có thể hình dung đời sống người thượng cổ còn man dại, phần lớn săn bắt và hái lượm là nền kinh tế chủ yếu của họ. Lúc bấy giờ, họ sống thành bầy khoảng 20-30 người, có từ 5-7 gia đình theo chế độ mẫu hệ (Trần Đức Cường và cộng sự viên, 2015). Hàng ngày con người rủ nhau đi lên rừng săn bắt hoặc xuống sông suối bắt ốc, cá hoặc hái lượm các loài cây có củ, trái cây, đậu… để làm thức ăn. Họ luôn phải di chuyển để tìm lương thực hàng ngày vì chưa biết trồng các loại cây kinh tế cố định, còn ăn sống nuốt tươi khi chưa có lửa. Họ ở trần, lấy lá che thân. Đời sống luôn lo âu hoảng sợ cả ngày lẫn đêm với muôn loài chung quanh…

Hình 6: Hình khắc trên đá ở Hòa Bình, 7 000-8 000 năm trước

(ảnh: N. K. Quỳnh)

3.1.  Nền nông nghiệp sơ khai ra đời

Trong nền văn hóa Hòa Bình cách nay 12 000 năm - buổi bình minh của nhân loại - con người đã có ít khái niệm chống chế thiên nhiên và có ít sáng kiến trong công việc chế tác công cụ sản xuất hữu hiệu hơn để có nhiều lương thực. Cũng giống như nền văn hóa Sơn vi, công cụ của nền văn hóa này làm bằng đá cuội để chế tạo các vật dụng bằng gỗ tre, nhưng có phần tốt hơn. Các nhà khảo cổ học xem các dụng cụ ghè đẽo một mặt (Hình 7), còn giữ nguyên một mặt vỏ đá cuội là đặc trưng của văn hóa Hòa Bình. Trong thời kỳ này chưa có hoặc rất hiếm đồ gốm.

Hình 7: Công cụ đá văn hóa Hòa Bình

(1-11: Di chỉ Hang Xóm Trại) (Viện Khảo Cổ Học, 1998)

Di tích động vật của nền văn hóa Hòa Bình được tìm thấy với số lượng lớn gồm có các loài nhuyễn thể như ốc núi, ốc suối, loài trai, sò hến. Các nhà nghiên cứu cho rằng các loại ốc này là đối tượng chính trong hái lượm của cư dân văn hóa Hòa Bình do ít nguy hiểm khi tìm kiếm thức ăn. Về xương động vật có xương sống rất ít, gồm các loài hoang dã chưa thuần hóa như vượn, khỉ, nhím, chuột, hươu, hoẵng, nai, bò rừng, trâu rừng, lửng, vòi hương, hổ và rất ít voi cổ, tê giác và lợn rừng (Vũ Thế Long, 1984).

Kết quả phân tích bào tử phấn hoa của nền văn hóa Hòa Bình cho thấy có tới 22 loài bào tử và trên 40 loài phấn hoa khác nhau, trong đó chưa gặp các loại thảo mộc được con người thuần hóa (Trần Đạt, 1987). Tuy nhiên, lớp trên của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn đã có các rìu mài lưỡi có thể dùng phát hoang trồng trọt. Điều này cho biết thức ăn thực vật hoang dã chiếm vị trí đáng kể trong hoạt động hái lượm.

Trong các nghiên cứu phân tích phấn hoa, người ta tìm thấy với số lượng cao của các giống cây họ Đậu (Leguminoceae) ở các di tích hang Bưng, Hòa Bình; họ rau Muối (Chenopediaceae) ở hang Con Moong và xóm Trại, Hoà Bình và họ Cà Phê (Rubiaceae) ở hang Con Moong. Ngoài ra, các di tích của nền văn hóa Hòa Bình còn có các loài hạt quả như hạt gắm (Gnetum montanum), hạt cọ (Livistona cochinchinensis), hạt tục (Gareinea muntiplora), hạt côm (Elaeocarpus sylvestris), hạt me (Phyllanthus emblica L.), hạt trà (Thea sp.), trám tre (Canarium tonkinensis) và trám (Canarium sp.). Tại các di chỉ Hạ Sơn (Thái Nguyên) trong tổng số 38 hạt, dương xỉ có tới 9 hạt, phấn hoa thực vật hạt kín là 20 hạt, chủ yếu là: Lithoiagus, Quercus, Magnolia, Corylus, Betula, Graminae, Araceae (Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận, 1981) (Xem Phụ Bản 1: Biến đổi khí hậu và Biển tiến-biển lùi).

Cho nên, dù chưa khám phá di tích thực vật rõ rệt, nhưng sự hiện diện của một số công cụ sản xuất như viên đá cuội ghè đẻo, rìu đá sơ cổ được phát hiện trong nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút..., khám phá xương trâu bò ở di chỉ Đa Bút (trâu bò để làm gì, nếu không dùng trong trồng trọt?), bên cạnh các khám phá di vật như phấn hoa cây ăn trái, vỏ trấu, hạt lúa cổ ở nước láng giềng - Thái Lan khoảng 8 000-6 000 năm trước, giúp các nhà nghiên cứu tin tưởng thời kỳ nông nghiệp sơ khai xuất hiện trên đất Việt cổ, đồng thời với nhiều nước Đông Nam Á trong nền văn hóa Hòa Bình.

Một số chỉ dấu cho sự xuất hiện nền nông nghiệp sơ khai ở Việt Nam và Đông Nam Á như sau:

·         Theo một số nhà khảo cổ học, do ảnh hưởng của môi trường khắc nghiệt: Tiểu hạn lạnh khô và áp lực dân số, những cư dân trên đất Việt cổ đã tham gia sáng tạo thời đại Đá Mới - cuộc Cách Mạng Đá Mới ra đời cách nay 12 000 năm đã giúp đời sống con người ngày càng tiến bộ, văn minh và khôn ngoan hơn.

·         Các công cụ hoạt động được ghè đẽo một mặt từ đá cuội như rìu tay hay rìu mài lưỡi để được phát hiện trong nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn có thể dùng trong công tác khai thác quần thể động vât và thực vật trong các thung lũng đá vôi của thời kỳ nông nghiệp sơ khai như chặt, cắt và trồng trọt.

·         Trong nền văn hóa Hòa Bình, các nhà khảo cổ học phân tích bào tử phấn hoa cây ăn quả, cây đậu… cho biết có tới 22 loài bào tử và trên 40 loài phấn hoa khác nhau, trong đó chưa gặp các loại thảo mộc được con người thuần hóa.

·         Bà Colani (1926) đã báo cáo ở hang động di chỉ Bắc Sơn có một mảnh đá khắc hình lá họ Hòa thảo (lá dài với những gân song song), và cho rằng đó lá lúa (Theo Bùi Huy Đáp, 1980). Một phóng ảnh của di vật (A) có khắc hình lá lúa được phát họa lớn hơn gấp 3 lần (B) trong Hình 8.

Hình 8: Hình lá cây thuộc họ Hòa thảo (B)

trên đầu mũi nhọn (A) (theo M. Colani)

·         Nhà khảo cổ học Úc Peter Bellwood (2005) sau khi nghiên cứu các thành tựu khảo cổ học của Việt Nam trong hơn 100 năm qua đã công nhận có chỉ dấu cách nay ít nhứt 8 000 năm, cư dân Hòa Bình biết một ít hoạt động quản lý cây lương thực khá lâu đời, với cây có củ và cây ăn quả trước khi ngành nông nghiệp chánh thức xâm nhập từ phương Bắc. Ngoài ra, ở vùng bờ biển Việt Nam, di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa) và Cái Bèo (Hải Phòng) đã có sinh hoạt hái lượm - săn bắt và đánh cá với nghề nông nghiệp tiến bộ hơn cách nay khoảng 6 500 năm hoặc hơn.

·         Ngoài ra, ở hang Ma (Spirit cave) thuộc miền biên giới Thái Lan và Miến Điện, nhà khảo cổ học Chester Gorman (1969) đã tìm thấy 28 loại bào tử phấn hoa của các loài cây ăn trái khác nhau, di vật hóa than như hai hột đậu Hà Lan, củ năng, hột ớt, những đoạn dây bầu bí và dưa chuột, cùng với những dụng cụ bằng đá của những người dân có nền văn hóa Hoà Bình xuất hiện cách nay ít nhứt khoảng 8 000 - 6 000 năm. 

3.2.   Thuần hóa cây lúa hoang bắt đầu:

Trong nền nông nghiệp sơ khai, người cổ Hòa Bình sử dụng các công cụ hoạt động đá cuội để bổ cuội, ghè đẽo cuội một mặt, đập bẻ, chặt ngang trong sinh hoạt săn bắt-hái lượm, bên cạnh khai thác thủy sản trong các thung lũng có sông suối và vùng ven biển. Ngoài ra, con người cũng có thể bắt đầu thuần hóa một số thảo mộc rồi đến loài thú hoang dã để có thêm nhiều thức ăn và tránh bớt nguy hiểm từ thú dữ khi phải di chuyển xa. Cuộc“Cách Mạng Xanh” đầu tiên của những cư dân đất Việt cổ bấy giờ bắt đầu, vì từ một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc thiên nhiên trở nên cuộc sống với hướng đi mới: làm nghề nông nghiệp cổ sơ. Họ là những người nông dân đầu tiên ở Việt Nam.

Trong thời kỳ này, cư dân có thể biết trồng vài loại cây như khoai, đậu ở chung quanh nhà. Đồng thời họ cũng trải qua quá trình thuần hóa cây lúa hoang, khi lượm hạt lúa rơi hoặc hái những hạt chín trên cây để có thêm thức ăn. Ban đầu họ ăn nguyên hạt lúa có nhiều chất tinh bột cảm thấy ngon no dạ nên tiếp tục hái nhặt ăn. Về sau họ bóc bỏ vỏ trấu, ăn những gạo màu đỏ thấy ngon hơn… Cây lúa hoang có thời gian hạt chín kéo dài, nhưng dễ rơi rụng. Những hạt lúa hoang thường bị rơi rớt hoặc bị vất quanh nơi cứ trú hay hang động tự nhiên mọc lại, lớn lên rồi cho hạt chín nâu vàng, cung cấp thêm thức ăn hàng ngày. Qua thời gian, cư dân nhận thấy cây lúa dễ mọc và cho hạt chín miễn sao đất có đủ ẩm ướt để cây sinh sống và cho hạt. Sau nhiều năm hái lượm hạt, họ chủ động gieo hạt lúa vào đầu mùa mưa trên những mảnh đất trống để chúng mọc lên cùng cỏ dại và cho hạt cuối mùa, ngoài sinh hoạt săn bắt và hái lượm truyền thống. Với kinh nghiệm ít oi qua nhiều năm tháng về cây lúa hoang, cư dân biết gieo hạt trồng ở bất cứ nơi nào trong điều kiện thiên nhiên để có thực phẩm. Với thời gian đi qua, công việc này trở thành thông lệ của băng nhóm cư dân khi họ nghĩ đến việc tìm kiếm thức ăn mỗi ngày.

Từ đó, do bản năng mỗi lần cây lúa chín họ biết lựa chọn những gié lúa tốt, hạt to để dành cho mùa tới để có nhiều thức ăn hơn. Họ còn chọn những gié lúa có ít hạt rơi rụng để dễ thu hoạch và có nhiều hạt thóc, đồng thời tránh chim chuột phát hại. Công việc thuần hóa tự nhiên này, nhứt là từ thảo mộc hoang dã để trở thành cây sản xuất kinh tế đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lao động của cư dân cổ. Theo một báo cáo khảo cổ ở vùng Trung Đông, thời gian thuần dưỡng từ thảo mộc hoang cho đến có hệ thống trồng trọt sản xuất kéo dài khoảng 1 000 năm. Thông tin này có được là do phân tích những mẫu di vật còn sót lại trong thời kỳ Đá Mới (9 600 - 9 300 năm BP) tại một khu vực gần Biển Chết ở nước Jordan. Đây là khoảng thời gian con người bắt đầu chính thức thuần hóa một số loài thảo mộc trên thế giới và cũng là thời gian họ bắt đầu định cư (Nguyễn Sinh, BBC News, 2007).

Vào thời nguyên thủy, cây lúa hoang là thực vật đa niên trở thành cây lúa hoang hàng niên do đột biến hoặc/và chịu ảnh hưởng khí hậu và môi trường trong tiến trình thuần hóa. Qua hàng ngàn năm, cây lúa hoang trở nên cây lúa trồng có năng suất cao hơn do sự tác động tuyển chọn của con người để có hạt to và nhiều hạt. Theo nghiên cứu, cây lúa hoang đa niên Oryza rufipogon đột biến trở thành cây lúa hoang hàng niên Oryza nivara. Sau cùng do thích ứng với thủy thổ địa cầu, chủ yếu khí hậu khô ẩm, nóng lạnh, mưa nắng và sự tuyển chọn con người, cây lúa hoang hàng niên trở nên cây lúa trồng Oryza sativa hay cây lúa châu Á (Khush, 1997).

Cũng cần nhắc lại cuộc nghiên cứu về nguồn gốc đa trung tâm cây lúa châu Á của Tiến Sĩ T.T. Chang (1976 và 1985), giả thuyết nguồn gốc Đông Nam Á và báo cáo kết quả của dự án 3 000 bộ gen của IRRI, Philippines năm 2018 cho biết sự thuần hóa cây lúa có thể xảy ra nhiều lần và một cách độc lập hàng ngàn năm; cho nên chúng ta có thể tin tưởng miền thượng du Bắc bộ là một trong những trung tâm nguồn gốc xuất phát cây lúa trồng trên thế giới. Tuy nhiên, năm 2011 một số nhà nghiên cứu Mỹ dùng các công nghệ hiên đại của di truyền, tin học và mô hình để đưa ra giả thuyết “mô hình một nguồn gốc” của cây lúa châu Á xuất phát đầu tiên và chỉ một lần ở lưu vực sông Dương Tử, Trung Quốc mặc dù dữ liệu sử dụng còn giới hạn. Vì vậy, vấn đề nguồn gốc cây lúa thuần cần được nghiên cứu sâu rộng hơn để tiến đến kết luận chính xác, hợp lý có thể chấp nhận (Xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa Việt NamChương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa). 

Tóm lại, suốt thời đại Đá Cũ lâu dài, con người vẫn còn sống cuộc đời hoang dã, hòa hợp hoàn toàn với thiên nhiên mà không có quyền tự chủ, ngoài bản năng tự vệ để sinh tồn. Lúc bấy giờ cư dân đất Việt cổ chưa có khái niệm gì về hoạt động nông nghiệp. Mãi đến khởi đầu Cách Mạng Đá Mới cách nay độ 11 000 năm, con người bước vào giai đoạn tối quan trọng và thay đổi lớn để chuẩn bị trở thành con người thật sự khôn ngoan; đó là thời kỳ họ nhận thức được nghề nông nghiệp sơ khai có khả năng giúp đời sống di chuyển trở nên ổn định, và tốt hơn trong tương lai. Từ đó, song song với sinh hoạt săn bắt hái lượm truyền thống, cư dân bắt đầu thuần hóa một số loài thực vật và động vật hoang dã liên hệ đến đời sống hàng ngày của mình. Cây lúa đã được cư dân trên địa bàn Việt Nam và một số nước Đông Nam Á đặc biệt chú ý khi còn là loài hoang dại và sau đó bỏ nhiều công sức và thời gian thuần hóa chúng để trở nên một loại thức ăn phụ; để rồi về sau loại Hòa thảo này trở thành nguồn lương thực căn bản chính thức cho cư dân Việt và nhiều dân tộc thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.   Abigail Beall. 2017. How man migrated out of Africa: Fascinating new DNA study sheds fresh light on the journey our ancestors took 100,000 years ago. DailyMail.com.

  1. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
  2. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
  3. Chang, T.T. 1976. The rice culture. PhilosophicalTransactions of the Royal Society. London, B, 275:143-157.
  1. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.
  2. Colani, M. 1926. Découverte du paléolithique dans la province de Hoabinh, L’Anthropolopie, vol XXVI, Paris, France.
  3. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
  4. Evolution of modern humans: (https://www.yourgenome.org/stories/evolution-of-modern-humans)
  1. Gorman, C.F. 1969. Hoabinhian: A pebble tools complex with early plant associates in Southeast Asia. Science, vol. 163.
  2. Dacid Maxwell Braun. 2011. Modern Humans Wandered Out of Africa via Arabia. National Geographic Society.
  1. Higham, C. F. W. 1989. Rice cultivation and the growth of Southeast Asian civilization. Endeavour 13: 82-8.
  2. Khush, G. 1997. Origin, dispersal, cultivation and variation of rice. Plant Mo. Biol. 35:25-34.
  3. Lê Thành Khôi. 2014. Lịch sử Việt Nam: từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. NXB Thế giới, Hà Nội, 621 tr.
  4. Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận. 1981. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù. Thần Sa- những di tích của con người thời đại đá. Bắc Thái 1981.
  5. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  6. Nguyễn Sinh (BBC News). 2007. Con người cổ đại biết trồng trọt khi nào.
  7. Nguyễn Khắc Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.
  8. Solheim II, W.G. 1967. Two pottery traditions of late prehistoric times in Southeast Asia. Historical Archeological and Linguistic Studies on Southern China, Southeast Asia and the Hong Kong region. Ed. F. S. Drake. Hong Kong University Press, Hong Kong 1967, p. 15-22.
  9. Solheim II, W.G. 1971. New light on a forgotten past. National Geographic, Vol. 139, No. 3.
  10. Trần Đạt. 1987. Nhìn lại các kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam. Khảo Cổ Học, số 4-1987: 61-68.

21.  Trần Đức Cường, Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đức Nhuệ và Lê Trung Dũng. 2015. Lịch sử hình thành và phát triển Vùng Đất Nam Bộ (từ thời khởi thủy đến 1945). NXB Khoa Học Xã Hội, 695 trang.

22.  Văn Công Hùng. 2017.Tám mươi vạn năm trước, tổ tiên ta và sông Ba... Báo Mới 04/05/2017 (https://baomoi.com/tam-muoi-van-nam-truoc-to-tien-ta-va-song-ba/c/22181062.epi).

23.  Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.

  1. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời Đại Kim Khí Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 551 trang.
  2. Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội. 1987. Thành tựu khảo cổ học Việt Nam, tr. 40-41.
  3. Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.
  4. Vũ Thế Long. 1984. Người Hòa Bình và thế giới động vật. Khảo Cổ Học, số 1, 2-1984.

28.  Wing, R. A, M. D. Purugganan và O Zhang. 2018. The rice genome revolution: from an ancient grain to green super rice. Nature Reviews Genetics 19, 505–517 (https://www.nature.com/nrg/). 

CHƯƠNG 6

GIAI ĐOẠN

TRỒNG LÚA RẪY 

THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI

(8 000 - 5 000 năm BP)

Nhiều chỉ dấu khảo cổ cho biết một số nước Đông Nam Á gồm cả Việt Nam có nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện cách nay ít nhứt 10 000 - 8 000 năm, trong thời kỳ đó cây lúa hoang được thuần hóa để trở nên một loại thực vật cung cấp thức ăn, góp phần cho nguồn lương thực dồi dào đáp ứng nhu cầu gia đình, nhóm và bộ lạc nguyên thủy sau này. Theo thời gian, cư dân nhận ra cây lúa có ưu thế cao so với các loại thực phẩm chủ yếu bấy giờ là củ, đậu, trái cây, vì loại thảo mộc này có khả năng sinh tồn trong những điều kiện phong thổ khó khăn như khô hạn, ngập nước, phèn mặn, v.v. Hơn nữa, hạt lúa còn có khả năng tồn trữ lâu dài so với nhiều nông sản khác dễ hư hỏng, nên loại Hòa thảo này được xem là giải pháp tích cực về mặt kinh tế và an ninh lương thực cho cư dân ngày càng đông. Do địa hình đồi núi đất Việt cổ và nhiều nước Đông Nam Á cũng như bản năng và thói quen con người, nhiều nhà nghiên cứu tin tưởng cây lúa được cư dân canh tác đầu tiên trên gò cao sườn đồi, thay vì ở đầm nước đồng bằng như đã thấy tại lưu vực sông Hằng, Ấn Độ và sông Dương Tử, Trung Quốc.

Sau cả ngàn năm thuần hóa, cây lúa đã trưởng thành, từ lúa hoang trở nên lúa trồng, từ đa niên trở thành hàng niên, được cư dân Bắc Sơn-Đa Bút khai thác sản xuất có hệ thống cung cấp thêm nhiều thức ăn, giúp cho các nhóm hay bộ lạc cư dân cổ có đời sống tiến bộ hơn và ổn định phần nào trên bước đường tiến hóa chung của nhân loại. Nền nông nghiệp lúa rẫy phát triển và lớn mạnh dần với vai trò tiền phong qua các nền văn hóa Bắc Sơn, Đa Bút và Quỳnh Văn. Quả đây là một sáng tạo vĩ đại của cư dân đất Việt trong thời tiền sử! 

1.   Nền văn hóa Bắc Sơn (cách nay 10 000-7 000 năm) (Viện Khảo cổ học, 1998) 

Các di tích văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy rải rác trong vùng núi đá vôi Bắc Sơn có độ cao trung bình 400-500m, gồm Bắc Sơn, Bình gia, Hữu Lũng, Chi Lăng và Văn Quan thuộc Lạng Sơn và huyện Võ Nhai của Thái Nguyên, với diện tích khoảng 1500km2. Tương tự với nền văn hóa Hòa Bình, cư dân Bắc Sơn buổi đầu sống trong hang động và dưới các mái đá. Cho đến nay các nhà khảo cổ tìm thấy 54 hang động Bắc Sơn.

            Nhóm di vật văn hóa Bắc Sơn do người Pháp phát hiện, gồm có công cụ đá, công cụ xương và đồ gốm, được Viện Bảo tàng lưu giữ và phân ra 5 nhóm: Công cụ ghè đẽo (28,77%), rìu mài lưỡi (25,40%), công cụ cuội nguyên (8,64%), dấu Bắc Sơn (31,63%) và mảnh tước (5,51%). Công cụ ghè đẽo, rìu mài lưỡi và dấu Bắc Sơn là đặc trưng của nền văn hóa Bắc Sơn, riêng công cụ ghè đẽo và rìu mài lưỡi rất có ý nghĩa cho các sinh hoạt nông nghiệp làm rẫy thời bấy giờ. Các loại rìu mài có lưỡi hình thang, chữ nhựt, tam giác và bầu dục; nhưng loại rìu mài hình thang và chữ nhựt chiếm số lượng lớn. Ngoài ra, còn có công cụ mài lưỡi có thể được dùng làm cuốc, nhưng số lượng rất ít.

            Trong di chỉ Bắc Sơn, các di tích của động vật hiện đại được tìm thấy như: hươu, bò, heo rừng, gấu, cầy cáo, nhím, linh trưởng, tê giác, rùa, giáp xác và các loài nhiễm thể nước ngọt.

Đến hậu kỳ văn hóa Bắc Sơn, con người bắt đầu sống ngoài hang động và các mái đá của vùng núi đá vôi. Họ vẫn giữ truyền thống chế tạo công cụ bằng đá cuội như các nền văn hóa trước, nhưng đã biết mài đá làm những chiếc rìu mài có lưỡi, còn gọi rìu Bắc Sơn (Hình 1 và 2). Nhờ dụng cụ đá mài, rìu mài họ có thể chặt cây, phá rừng dễ dàng và nhanh hơn để phát triển nghề nương rẫy đang ló dạng nhiều nơi. Trong nền văn hóa Bắc Sơn, khái niệm hoạt động nông nghiệp dần rõ nét qua sự sáng tạo các công cụ ghè đẻo hoặc mài hai mặt để có những dụng cụ hoạt động hữu dụng cho nền nông nghiệp sơ kỳ và sau khi cây lúa hoang đã được thuần hóa tốt.

Hình 1: Công cụ đá văn hóa Bắc Sơn

1-4: Mảnh tước; 5-6: ghè đẽo;

7-10: mài lưỡi; 11-12: dấu Bắc Sơn (Khảo cổ học, 1998)

Mặc dù cư dân cổ nhận ra cây lúa thuần có ưu thế cung cấp nhanh dễ dàng nhiều thực phẩm so với các cây lương thực khác, nhưng họ phải trải qua kinh nghiệm lâu dài tìm cách làm thế nào để cây lúa sản xuất thật nhiều lương thực trong điều kiện sinh sống bấy giờ. Từ đó, nông nghiệp lúa rẫy sơ kỳ được hình thành. Số người tham gia trồng lúa ngày càng đông, bên cạnh hoạt động truyền thống săn bắt và hái lượm. Cho nên, nhiều băng nhóm liên kết nhau trồng trọt và các bộ lạc trồng lúa (rice tribe) ra đời trên đất Việt cổ và Đông Nam Á, đánh dấu sự thay đổi lớn lao sinh hoạt con người, ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn minh hừng đông sau này, vì nghề trồng lúa mang đến cộng đồng nguyên thủy đời sống ổn định và sung mãn hơn. Thái Lan và Philippines cũng tìm thấy dấu vết bộ lạc trồng lúa cách nay 7 000 - 6 000 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).

Hình 2: Các rìu đá Bắc Sơn (ảnh: N. K. Quỳnh)

Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các bộ lạc trồng lúa xuất hiện khắp nơi từ Bắc chí Nam, khi tìm thấy văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh-Hải Phòng) với các di vật như rìu, bôn có cán lắp, khoan tách lõi; Văn hóa Bàu Tró (Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình) với bàn nghiền, bàn xát rất lớn, chiếc cuốc đá có chuôi lắp vào cán;văn hóa Cầu Sắt (Xuân Lộc, Đồng Nai) với rìu vai xuôi, rìu tam giác, cuốc móng trâu, đục, dao đá có hình bán nguyệt gọi là “dao liềm” hay “dao hái” có thể dùng gặt lúa. Bộ sưu tập Cầu Sắt mang đặc trưng chung của thời đại hậu kỳ Đá Mới cho thấy nền nông nghiệp lúa của lưu vực sông Đồng Nai đã tồn tại cách nay khoảng 5 000 năm (Hoàng Xuân Chinh và cộng sự viên, 1978).

Người ta không biết chính xác các bộ lạc trồng lúa xuất hiện từ lúc nào, nhưng có thể đoán vào giữa thời đại Đá Mới, khoảng 7 000-6 000 năm trước. Vì bấy giờ chưa có gia súc và dụng cụ nông nghiệp tốt, người tiền sử phải dùng sức người và các công cụ đá mài để khắc phục thiên nhiên phục vụ sản xuất. Họ trước hết có thể bắt đầu trồng lúa trên các sườn đồi, gò đất cao, còn gọi là làm lúa rẫy bằng cách dùng rìu đá mài chặt phá cây rừng độ một thước cách mặt đất, phơi khô, trước khi mưa đến dùng lửa đốt cây cỏ làm sạch đất, lấy tro làm phân một cách ngẩu nhiên (vô ý thức lúc ban sơ) (đao canh hỏa chủng). Tiếp theo, họ dùng tay hoặc đá nhọn để chọc lỗ, gieo hat và chờ đến lúa chín mới hái. Qua hàng trăm năm, với kinh nghiệm họ dùng cây chọc lỗ, gieo hạt, lắp đất, thỉnh thoảng làm cỏ, trông chừng thú rừng phá hại và chờ ngày chín hái nhặt. Ngày nay, nhiều dân tộc thiểu số Tây nguyên còn tuốt gié lúa chín bỏ vào gùi mang trên vai khi thu hoạch lúa.

Ngoài ra, vào hậu kỳ văn hóa Bắc Sơn-Đa Bút, cư dân cổ ở gần thung lũng, đầm lầy, sông suối, có thể phát quang bằng rìu đá, dùng dao hay cuốc đá nhọn để xới đất, gieo trồng lúa nước; nhưng còn rất hiếm vào thời kỳ này, nhứt là ở miền thượng du Bắc bộ. Dĩ nhiên, việc săn bắn-hái lượm vẫn còn là hoạt động chủ yếu để có thức ăn hàng ngày.

Trong buổi đầu, các cư dân trồng lúa rẫy phải trải qua một giai đoạn thử thách về an ninh lương thực cho các bộ lạc trồng lúa, bởi vì sau khi trồng loại lúa này trên đất cao trong 3-4 năm, năng suất giảm sút dần cho đến không còn gì để thu hoạch, do mỗi năm cỏ dại xâm chiếm mạnh hơn và mức độ phì nhiêu đất đai cạn kiệt. Vì vậy, họ phải đi tìm đất rừng mới để chặt phá, đốt lửa, chọc lỗ, gieo hạt và thu hoạch. Độ khoảng 10-15 năm sau, họ có thể trở lại canh tác nơi mảnh đất cũ bỏ hoang, sau khi mức phì nhiêu thổ nhưỡng phục hồi. Đó là lối sống du canh của cư dân Bắc Sơn, nhưng không phải di chuyển mỗi ngày như thời kỳ săn bắt và hái lượm của bầy người và băng nhóm trước kia. Lối sống và hệ canh tác này vẫn còn tồn tại ngày nay ở miền thượng du Bắc Việt và Tây Nguyên Trung Bộ.

Lý do chủ yếu để tin tưởng nghề trồng lúa rẫy xuất hiện sớm hơn lúa nước ở Việt Nam và Đông Nam Á, trong lúc ngành trồng lúa nước xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc và Ấn Độ như sau:

(i)     Vùng Đông Nam Á có địa hình rất đặc biệt với nhiều đồi núi, thung lũng và rừng nhiệt đới. Đa số các di tích khảo cổ liên hệ đến lúa gạo được tìm thấy trên địa hình này, chẳng hạn ở Thái Lan, Miến Điện... Hiện nay, một số dân sắc tộc vẫn còn theo đuổi trồng lúa rẫy trên các sườn đồi, cao nguyên. Ông Chang (1976), sau khi quan sát 34 000 giống lúa thế giới ở ngân hàng gen IRRI, nhận thấy có biến đổi rộng lớn trong các đặc tính và sinh thái của các giống lúa thu thập ở vùng núi non Đông Nam Á, gồm có Nepal, Shikkim, Assam (Ấn Độ), Bangladesh, Bắc Myanmar, Bắc Thái Lan, Bắc Lào và Tây Nam Trung Quốc.

(ii)   Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, cách nay hơn 4 000 năm buổi đầu của thời đại Hùng Vương cư dân ăn mặc chưa đủ nên lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang (Arenga pinnata) làm bánh… Hiện nay, cây quang lang còn gọi cây báng hay cây dừa núi mọc nhiều ở chân núi ẩm (Cao Bằng, Lạng Sơn), chân núi đá vôi, trong rừng thứ sinh (Wikipedia). Cư dân bấy giờ đang sống ở vùng đồi núi.

(iii) Theo tài liệu khảo cổ học, khi băng giá bắt đầu tan sau thời kỳ cực đại, mực nước biển tăng cao dần, từ độ sâu cách mặt biển hiện nay -130m đến - 120m vào khoảng 18 000 - 12 000 năm BP còn -30m đến -20m lúc 6 500-6 000 năm BP. Thời kỳ này, cư dân vẫn còn cư trú trên đất cao, đồi núi và hang động trong các nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn. Tiếp theo, Mực nước biển dâng đến mức cao nhứt +5m trên mực nước biển ngày nay khoảng 4 500 - 4 000 năm trước, với mực nước dao động lên xuống hàng thế kỷ. Toàn bộ đồng bằng ven biển gồm cả đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL đều bị ngập (Viện Khảo cổ học, 1998). Đến 3 000 - 2 500 năm trước, mực nước biển còn cao +2m và dừng lại ở đó một thời gian. Cho nên, cư dân phải di lên các vùng đất cao, gò đồi để sinh sống và nông nghiệp lúa nước chắc chắn không thể phát triển mạnh vào thời gian này (Xem Phụ Bản 1: Biến đổi khí hậu, biển tiến-biển lùi và sụt lún).

(iv) Cụm từ “Bộ lạc trồng lúa” được dùng trong nhiều tài liệu trong nước và Đông Nam Á thường để nói về các nhóm người trồng lúa rẫy trên các cao nguyên và đồi núi. Vào khoảng 7 000 - 6 000 năm trước, các bộ lạc trồng lúa đã xuất hiện ở vùng này; cho nên phần lớn lúa trồng của nền văn hóa Bắc Sơn là loại lúa rẫy chứ không phải lúa nước.

(v)   Thói quen con người ưa thích sinh sống và hoạt động nông nghiệp trên đất cao trước khi di chuyển xuống thung lũng, đầm lầy do áp lực dân số tăng cao. Trong cuộc Nam tiến của người Việt, di dân khai khẩn ĐBSCL là một bằng chứng. Khi đến một nơi hoang dã để định cư, di dân luôn chọn nơi đất cao làm chỗ cư trú để có nguồn nước uống, tránh thú dữ và khai thác trồng trọt trên vùng đất xung quanh trước khi đi xuống mở mang rừng ngập nước, đầm lầy. Người châu Phi cũng vậy, hiện họ chủ yếu khai thác trồng trọt hầu hết vùng đất cao, trong khi tiềm năng rất lớn cho phát triển là vùng đầm lầy, đất thấp còn hoang vu chưa tận dụng như từng thấy ở các nước châu Á.

(vi) Chẳng hạn, có nhiều đồi trọc trên vùng đất cao ở trung du Bắc Việt thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình. Theo các nhà thổ nhưỡng học, hiện tượng này là do kết quả làm ruộng theo kiểu “làm nương đốt rẫy” trước đây nên đất đai trở nên cứng rắn thành đá ong. Điều này cho biết cư dân đã đến ở đây trước khi xuống sinh sống ở các vùng đồng bằng đất thấp, họ làm nương rẫy trước khi khai thác ruộng nước, hoặc ruộng rẫy chiếm tỉ lệ cao hơn. Các chiếc rìu đá, cuốc đá tìm thấy được ở nền văn hóa Bắc Sơn và Phùng Nguyên chứng minh điều này (Văn Tân và cộng sự viên, 2008).

Đến cuối nền văn hóa Bắc Sơn, cư dân đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể trong ngành nông nghiệp thời đại cổ sơ. Đây là lúc cư dân đất Việt cổ trải qua giai đoạn đổi mới, với các biến chuyển quan trọng trong cơ cấu xã hội và đời sống con người. Nhờ vào nền nông nghiệp trồng lúa, đời sống con người ngày càng ổn định hơn, phát triển nhiều về mặt xã hội, tổ chức và tinh thần. Đó có thể là nền văn minh lúa khô thời tiền sử. 

2.   Nền văn hóa ven biển Đa Bút - Quỳnh Văn (cách nay 6 000 - 3 000 năm)    

Sau nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, mực nước biển tiếp tục tiến dần đến mực nước biển ngày nay; cư dân tập trung sống ở vùng đất cao ven biển, có lợi cho di chuyển, tìm thức ăn hàng ngày và trao đổi thương mại với các nơi khác trong vùng; cho nên hàng loạt nền văn hóa ven biển xuất hiện, đáng kể hơn hết là nền văn hóa Đa Bút phân bố ở Thanh Hóa và văn hóa Quỳnh Văn xuất hiện ở Nghệ An và Hà Tĩnh, có niên đại từ 6 000 đến 5 000 năm trước.

Cư dân sống trong môi trường gần biển và cửa sông nên nguồn thức ăn chính là các ốc sò nước lợ chủ yếu là loài hến, hay nước biển như sò gai, điệp, ngao. Ngoài ra, họ còn săn bắt ở các khu rừng xung quanh mà di vật tìm được như xương răng thú rừng: hươu, nai, trâu, bò, lợn, nhím… Điều đáng chú ý là một số nhà nghiên cứu đã nhận ra vài động vật được con người nuôi dưỡng như trâu và lợn (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Sự hiện diện của trâu trong thời kỳ này cho biết có thể cư dân biết làm ruộng nước; nếu không, nuôi trâu để làm gì?

Kỹ nghệ gốm cũng bắt đầu phát triển với những di vật đồ đựng thô, chất liệu pha nhiều sạn sỏi to, đáy tròn, không chân đế. Các di vật đồ đá tiến bộ hơn như cưa, đục, chì lưới, rìu mài (Hình 3); cho thấy kỹ nghệ đá và trình độ của Đa Bút tiến bộ hơn văn hóa Bắc Sơn và những dụng cụ này được dùng để sản xuất nông nghiệp và đánh cá.

Các di vật thu lượm từ nền văn hóa Đa Bút như bào tử phấn hoa rau quả củ, xương trâu lợn và đồ gốm sơ khai cho biết trình độ văn hóa của cư dân ven biển tiến bộ khá nhiều so với cư dân lục địa, nhờ thường xuyên giao lưu với các dân tộc đảo biển và quốc gia khác. Các bào tử phấn hoa được tìm thấy trong nền văn hóa này xác nhận một nền nông nghiệp trồng trọt cổ sơ đã xuất hiện sớm hơn trên các vùng ven biển (Nguyễn Địch Dỹ và cộng sự viên, 1980), trong khi chưa tìm thấy di vật này trong nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn. Trong nền văn hóa Đa Bút, cư dân vẫn còn lưu giữ truyền thống chế tác đá cuội cùng với hiện diện của một số loại rìu ngắn, công cụ bầu dục và rìu mài lưỡi (Hình 3). Nền nông nghiệp vượt xa hơn các vùng khác khi phát hiện cư dân ven biển biết thuần dưỡng gia súc sớm và biết tạo ra các khu vườn xung quanh nơi cư trú để cung cấp thêm thức ăn. Cũng vậy, đồ gốm thô xuất hiện sớm hơn, biểu hiện đời sống văn hóa vùng ven biển phong phú vượt bực.

Trong nền văn hóa biển Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) cũng có đồ gốm sơ kỳ ở rải rác dọc bờ biển mà hoạt động chủ yếu của cư dân là đánh cá, hái lượm. Di tích độc đáo của nền văn hóa khảo cổ này ở dạng cồn sò điệp phân bố xung quanh vịnh biển cổ Quỳnh Lưu. Mặc dù vị trí công cụ đá kém quan trọng hơn văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhóm công cụ không gia công như hòn ghè, hòn kê, bàn nghiền, chày nghiền to lớn (Hình 4), cối và chày đá ở di chỉ Quỳnh Văn, mà nhiệm vụ chính chỉ để dùng lột vỏ các hạt - có thể là hạt lúa với một số lượng nhiều hơn (Nguyễn Trung Chiến, 1998). Nhờ nông nghiệp, trong thời gian này đã có nhiều bộ lạc bắt đầu định cư dọc bờ biển, ven sông rạch rất sớm.   

Hình 3: Mộ, đồ gốm và đồ đá văn hóa Đa Bút

1: Mộ táng; 2: đồ gốm; 3-10: hiện vật đá

(Viện Khảo Cổ Học, 1998)

Hình 4: Bàn nghiền bằng đá (7 000-5 000 năm trước) (Ảnh: N. K. Quỳnh)

Tóm lại, sự tiến hóa từ cây lúa hoang trở nên cây lúa thuần sơ cổ đã trải qua từ nền văn hóa Sơn Vi đến hậu kỳ văn hóa Bắc Sơn, như sau:

(i)                 Một số nhà nghiên cứu tin tưởng loài lúa hoang đã xuất hiện trở lại trong nền văn hóa Sơn Vi sau thời kỳ băng giá cực đại cuối cùng chấm dứt khoảng 18 000 năm trước.

(ii)               Cư dân Hòa Bình-Bắc Sơn đã sáng tạo nền nông nghiệp sơ khai trong cuộc Cách Mạng Đá Mới. Sinh hoạt chủ yếu của họ là săn bắt và hái lượm để cung cấp thức ăn hàng ngày như củ, đậu, trái cây và có thể gồm cả hạt lúa hoang; đồng thời họ bắt đầu thuần hóa cây lúa hoang quanh nơi cư trú (khoảng 8 000-7 000 năm).

(iii)             Trong các nền văn hóa Bắc Sơn, Đa Bút và Quỳnh Văn, ngành nông nghiệp đã tiến bộ khá nhiều, cư dân trồng lúa rẫy sơ kỳ đại trà trên các gò cao, sườn đồi núi. Những bộ lạc trồng lúa xuất hiện khắp nơi ở Đông Nam Á gồm cả Việt Nam cách nay khoảng 7 000-6 000 năm. Họ cũng biết thuần hóa một số gia súc để làm thức ăn và dùng trong nông nghiệp. Họ còn biết đánh cá, bắt sò hến để làm thức ăn hàng ngày bên cạnh nghề săn bắt-hái lượm cổ truyền. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.      Chang, T.T. 1976. The rice culture. Philosophical Transactions of the Royal Society. London, B, 275:143-157.

2.      Hoàng Xuân Chính, Nguyễn Khắc Sửu, và Phan Quang Sơn. 1978. Khai quật địa điểm hậu kỳ đá mới Cầu Sắt (Đồng Nai). Trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1977. Viện Khảo Cổ Học, Nhà in Diên Hồng, Hà Nội, tr. 82-84.

3.      Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt. 1980. Phân tích bào tử phấn hoa ở Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa). Những phát hiện mới (NPHM), Viện Khảo Cổ Học 1980.

4.      Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.

5.      Nguyễn Trung Chiến. 1998. Văn Hóa Quỳnh Văn. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

6.      Nguyễn Khắc Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.

7.      Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.

8.      Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử - văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội. NXB Văn Học, 275 trang.

9.      Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.

10.  Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.

CHƯƠNG 7

PHÁT TRIỂN

LÚA NƯỚC SƠ KỲ

THỜI ĐẠI KIM KHÍ

(5 000 - 3 000 năm BP)

Từ thời đại Đá Cũ đến thời đại Đá Mới và Kim Khí, cư dân Việt cổ đã tích lũy nhiều kinh nghiệm hiểu biết về thiên nhiên, cộng đồng và con người, đặc biệt từ nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn-Đa Bút của thời đại Đá Mới đến nền văn hóa Phùng Nguyên, Cầu Sắt-Suối Linh, Tiền Sa Huỳnh, Đồng Đậu và Gò Mun của thời đại Kim Khí. Nhờ đó, ngành nông nghiệp ra đời đã giúp cho đời sống con người chuyển đổi từ du canh đến định cư và sau đó phát triển nhanh mọi mặt để tiến đến nền văn minh hiện đại.

Vào thời nguyên thủy, họ biết thuần hóa những cây lúa hoang, gia súc để có thêm thức ăn hàng ngày và sức kéo động vật cho nông nghiệp. Từ nền văn hóa Quỳnh Văn-Đa Bút đến nền văn hóa Phùng Nguyên, nông nghiệp lúa đạt thêm một số tiến bộ vững chắc, nhờ sáng tạo kỹ thuật canh tác và các công cụ sản xuất hữu hiệu hơn các thời kỳ trước, với rìu, cuốc, cày, mai... bằng đá và đặc biệt kim loại đồng. Do đó, ngành trồng lúa rẫy đạt đến mức cực thịnh trong khoảng thời gian này, trong khi hệ trồng lúa nước bắt đầu xuất hiện nhờ ưu thế năng suất cao và nông dân ít di chuyển sau khi hiện tượng biển tiến đạt đến cực đại +5m trên mặt nước biển ngày nay (khoảng 4 500 - 4 000 năm BP), sau đó nước rút lui khá mau lẹ trong nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng của đất nước. 

1.   NỀN Văn hóa Phùng Nguyên (cách nay 4 500 - 3 500 năm)

Đây là nền văn hóa rất quan trọng, làm trung gian giữa thời đại Đá Mới và Kim Khí, mốc ngoặc của nền văn minh vượt bực của dân tộc thời Cổ Đại. Qua các công trình khai quật và thành tựu khảo cổ trong nền văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa tiếp, các nhà khảo cổ học và sử học khẳng định đã có nhiều bằng chứng cụ thể không những cho sự xuất hiện nền văn hóa Đông Sơn, còn xác nhận thực tế “lịch sử 4 000 năm văn hiến của nước Việt Nam” và địa bàn hoạt động có thật của “đất Phong Châu một thời Hùng Vương” (Viện Khảo Cổ Học, 1999). Tuy nhiên, lịch sử ghi nhận triều đại Hùng Vương chỉ có 18 đời Vua (từ 700 đến 258 năm tr. CN), một khoảng lịch sử dài 1 300 năm bị mất dấu!

            Nền văn hóa Phùng Nguyên đánh dấu thời kỳ kết thúc của chế độ công xã nguyên thủy và hình thành một xã hội mới có giai cấp sớm nhứt. Cư dân Việt cổ bước vào một thời đại đặc biệt với sức sống mãnh liệt, óc sáng tạo không ngừng và tinh thần đoàn kết giữ nước. Họ đã có đời sống văn hóa khá cao, một nền nông nghiệp hoạt động tương đối vững chắc với nghề trồng lúa nước bắt đầu phát triển song song với sự lớn mạnh của lúa rẫy lâu đời, góp phần kiến tạo nền văn minh cổ đại của loài người. Đó là thời đại Hùng Vương bắt đầu cách nay khoảng 4 000 năm với tập hợp của nhiều dân tộc gốc Nam Á (Văn Tân và cộng sự viên, 2008). 

            Hơn nữa, nước Việt cổ được nhắc đến trong lịch sử nhân loại cách nay hơn 4 000 năm, khi sứ giả đầu tiên của Việt Thường, một trong 15 bộ tôc của nước Văn Lang sang chầu và dâng tặng “rùa thần” dài độ một thước cho vua Đường Nghiêu vào năm Mậu Thân, năm thứ 5 (nhà Đường Nghiêu: 2 357-2 258 tr CN) (Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia,1998).

            Nền văn hóa Phùng Nguyên tập trung ở khu vực hợp lưu của các sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thao và sông Đáy, thuộc phía nam tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội và phần phía nam của tỉnh Bắc Ninh. Nền văn hóa này xuất hiện và phát triển từ 2 000 năm đến 1 500 năm tr CN. Người Phùng Nguyên thường cư trú trên các gò đồi cao, cách mặt ruộng độ từ 0,5 đến 5-6m. Tầng văn hóa không dày lắm từ 0,7 đến 2m. Về nhà ở chưa được rõ ràng, nhưng các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở Văn Điển (Hà Nội) nhiều hố đất đen hình tròn, kích thước tương tự nhau, ăn sâu xuống đất, trông giống các hố chôn cột nhà. Họ cũng tìm thấy di tích xưởng chế tạo công cụ đá ở Gò Chè, chế tạo mũi khoan ở Bãi Tự và vòng trang sức ở Tràng Kênh, với trình độ kỹ thuật chuyên môn cao.

Công cụ sản xuất gồm có cuốc đá hình tứ giác có lưỡi lệch về một bên, rìu đá tứ giác có lưỡi cân xứng, trong đó có nhiều rìu chế tạo bằng đá ngọc Nephrite với màu sắc đẹp (Hình 1). Ngoài ra, còn có nhiều đục đá (Hình 2) chiều dài 3-4cm, thân rộng hơn 1cm và bề dày 0,3-0,5cm, dao đá, liềm đá. Chiếc liềm đá có công dụng quan trọng trong công việc gặt hái ngũ cốc, cắt cỏ; sự có mặt của liềm đá cho thấy tầm quan trọng của sản xuất lương thực ngày xưa (Viện Khảo Cổ Học, 1998).

Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có cưa đá, mũi khoan đá, bàn mài (bàn mài bằng, bàn mài rãnh, bàn mài trong), hòn kê, hòn đập, bàn đập.

Trong thời kỳ này, ban đầu cư dân Phùng Nguyên vẫn tiếp tục dùng rìu đá chặt cây phá rừng; dùng cuốc, mai, thuổng đá làm vỡ san bằng mặt đất để gieo trồng trên vùng cao và ruộng thấp; dùng dao, liềm đá để thu hoạch, bên cạnh các hoạt động truyền thống săn bắn-hái lượm. Về sau khi kim loại xuất hiện họ dùng các công cụ hoạt động bằng đồng thau song song với các công cụ bằng đá.

Về mặt khảo cổ học, hơn 50 địa điểm tìm được với nền văn hóa Phùng Nguyên cho biết nhiều làng định cư lâu dài có đời sống nông nghiệp dùng rìu cuốc đá, chủ yếu trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và đánh cá. Sự phát hiện lưỡi liềm đá ở Gò Bông và nhiều chiếc rìu nhỏ, cuốc đá là chỉ dấu có nền nông nghiệp trồng lúa phát triển ở ruộng nước và trên đất cao (rẫy). Đối với trồng lúa nước ban đầu, cư dân đem nước từ sông rạch vào ruộng có be bờ để làm đất mềm, rồi dùng dao, cuốc đá xới đất, chôn cỏ dại để gieo trồng hoặc cấy. Trong Lĩnh Nam Chích Quái ghi: “ … lấy dao cày, lấy nước cấy, đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm…”. Bên cạnh đó, còn có các đồ đựng bằng gốm có kích thước lớn để tồn trữ ngũ cốc biểu hiện cư dân Phùng Nguyên làm ruộng nước, có đời sống định cư lâu dài. Tuy nhiên, vào buổi đầu của nền văn hóa này lúa gạo chưa là lương thực cơ bản của cư dân (Lĩnh Nam Chích Quái).

            Các nhà khảo cổ cũng tìm được các tượng động vật như tượng đầu gà ở Xóm Rền làm bằng gốm. Các ngôi mộ khai quật còn tìm thấy hàm lợn ở Lũng Hòa, xương chó ở Tràng Kênh cho biết người Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi nhiều thú vật mà ta có ngày nay.                

  Hình 1: Di vật văn hóa Phùng Nguyên

     (http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/H%C3%ACnh:)

Hình 2: Đồ đá văn hóa Phùng Nguyên

1,2: Mũi tên; 3,4: Đục; 5,6: Rìu bôn; 7: cưa;

8: hạt chuỗi; 9: khuyên tai; 10-17: vòng tay

(Viện Khảo Cổ Học, 1999)

            Trong nền văn hóa Phùng Nguyên còn xuất hiện kim loại đồng và kỹ thuật luyện kim: hợp kim đồng thau gồm có đồng và thiếc, thời kỳ này được gọi “sơ kỳ đồ đồng”. Một mảnh vòng hay dây kim loại được phát hiện ở Bãi Tự, Tiên Sơn (Bắc Ninh) (Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn, 1970), dây chì (Diệp Đình Hòa, 1978). Nền văn hóa Phùng Nguyên mở đầu cho thời đại đồng thau và chuẩn bị cho quá trình hình thành nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, khởi đầu của nhà nước và dân tộc Việt Nam. 

2.    NỀn văn hóa Nam bỘ: CẦu SẮt - SuỐi Linh (4 500 - 3 000 năm BP)

Đây là nền văn hóa đồng thời với nền văn hóa Phùng Nguyên ở phía Nam đất Việt cổ. Nền văn hóa Cầu Sắt - Suối Linh được coi là biểu tượng cho giai đoạn phát triển sớm nhứt của thời đại Kim Khí thuộc lưu vực sông Đồng Nai, do vết tích của loại rìu đá có vai kích thước nhỏ và trung bình với tỉ lệ hơn hẳn các công cụ khác và loại dao hái nhỏ, ghè mài từ những mảnh tước nhỏ có mũi nhọn để làm dụng cụ nông nghiệp. Đồ gốm có trình độ kỹ thuật cao, chế tạo bằng bàn xoay và một số khác bằng tay, độ nung cao, thành gốm mỏng…(Phạm Đức Mạnh, 1997). Dù chưa tìm được dấu vết kim loại và mộ táng, nhưng ngành nông nghiệp cuốc đá hiện diện sớm rõ nét ở miền Đông Nam bộ. Đầu thế kỷ XXI, một số nhà khảo cổ cho biết di chỉ Cầu Sắt tương đương nhứt định với giai đoạn Phùng Nguyên ở phía Bắc hoặc sớm hơn về loại hình di vật, gốm, đá và tính chất di chỉ với các địa điểm Suối Linh, Bình Đa, Rạch núi, An Sơn, Lộc Giang; cho nên, các di chỉ này cùng có niên đại tương đương 5 000-4 000 năm BP.

            Gần đây, các cuộc nghiên cứu niên đại C14 của các di chỉ khảo cổ cho biết những cộng đồng đã sinh sống ở vùng đất cao của đồng bằng sông Cửu Long và cao nguyên Nam Trung phần cách nay hơn 6 000 năm. Họ là các cư dân chăn nuôi-trồng trọt từ vùng đất cao tiến xuống khai thác vùng đất thấp ở miền Đông Nam Bộ, rồi tiếp tục tiến xuống khai hoang các đầm lầy châu thổ sông Cửu Long. Họ sống trên các nhà sàn, ăn cơm, rau củ, cá, nuôi heo và trâu. Họ có thể là những nông dân đầu tiên trồng lúa nước và đúc đồng trong vùng Đông Nam Á (Trần Đức Cường và cộng sự viên, 2015).

            Thật vậy, năm 2017, một số nhà nghiên cứu Việt Úc sử dụng kỹ thuật MicroCT trên các mảnh gốm cổ ở An Sơn, Lộc Giang và Rạch Núi thuộc lưu vực sông Vàm Cỏ Đông, Long An đã phát hiện lúa thuần có mặt ở đồng bằng sông Cửu Long vào thời đại Đá Mới có niên đại 4 150-3 265 năm BP (Barron và cộng sự viên, 2017) (xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa Việt Nam).

Sự hiện diện dày đặc của các di vật đa dạng như đá, đồng, sắt, gốm, xương, thủy tinh… ở nền văn hóa Đồng Nai cho thấy cư dân sống khá đông đảo và chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp dùng cuốc với các công cụ sản xuất có số lượng rất lớn như rìu có vai hay tứ giác, dao hái, dao liềm khá độc đáo, cuốc đá rất phổ biến (Hình 3, 4 và 5) và nhiều đồ đựng bằng gốm. Nông dân cũng dùng những chiếc rìu đá không những để chế tạo dễ dàng hơn những vật bằng gỗ hay tre, mà còn có thể sử dụng chặt cây, phá rừng trồng trọt trên đất cao, chủ yếu nông nghiệp nương rẫy, làm vườn.

                Hình 3: Đồ đá văn hóa thời đại kim khí Đông Nam Bộ

1,5,8,10: Đục; 2-4: rìu bôn tứ giác; 6,7,9: rìu bôn có vai; 11: cưa; 12: dao hái; 13-16: đồ trang sức (Viện Khảo Cổ Học, 1999)

Hình 4: Cuốc đá có vai và cuốc đá có nấc (5 000-7 000 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)

         Hình 5: Cuốc đá đôi vai (5 000-7 000 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)

Sự phát hiện các di vật cuốc đá, dao hái, dao liềm khá phong phú ở nhiều địa điểm khảo cổ chứng tỏ nghề trồng lúa rẫy xuất hiện trước ở trên đất cao hoặc sườn đồi, sau đó lúa nước có mặt ở nơi trũng thấp hoặc ven sông dù ít hơn, bên cạnh các hoạt động hái lượm và săn bắt truyền thống ở Miền Đông Nam Bộ. Nhờ đó, cư dân có đời sống ổn định hơn, họ thành lập xóm làng lâu đời, đông đảo với các di vật phát hiện dày đặc là chứng tích. 

3.   NỀn văn hóa TiỀn Sa HuỲnh (3 500 - 3 000 năm BP) (Viện Khảo Cổ Học, 1999)

Đây là nền văn hóa ven biển Miền Trung xuất hiện cách nay khoảng 3 500 – 3 000 năm, trước nền văn hóa Sa Huỳnh được biết đến khá sớm ở Việt Nam và Đông Nam Á do sự khai quật và báo cáo của các nhà khảo cổ ngoại quốc như M. Vinet (1909), H. Parmentier (1924), M. Colani (1935), O. Jansé (1941), L. Malleret (1959), E. Saurin (1966), H. Fontaine (1972), H. Fontaine và Hoàng Thị Thân, (1975), và W.G. Solheim II, 1961) (trong Viện Khảo cổ học, Tập II, 1999)… và các nhà khảo cổ học Miền Nam.

Từ năm 1909 đến 1975, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều chum gốm với số lượng rất cao ở gần 20 địa điểm mộ táng. Điều đáng chú ý là công cụ sản xuất bằng sắt chiếm với số lượng cao, nhưng số công cụ đồng thau lại rất ít (Hình 6). Nền văn hóa Sa Huỳnh xuất hiện muộn hơn vào thời kỳ sơ sắt trong thế kỷ II tr CN, có truyền thống giao thiệp với các nước lân cận như Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan… Tại Philippines, ông W. C. Solheim II (1961, 1966 và 1967) đã nghiên cứu so sánh gốm Sa Huỳnh và gốm ở Kalanay tìm thấy có nhiều điểm tương đồng, nên ông đã nêu ra thuyết “truyền thống gốm Sa Huỳnh-Kalanay” ở Đông Nam Á, có khung niên đại cách nay khoảng 2 200 năm.

Với tư liệu mới sau 1975, các nhà khảo cổ xác nhận có một giai đoạn văn hóa Tiền Sa Huỳnh thuộc thời đại đồng thau có niên đại cách nay 3 500 - 3 000 năm, được tìm thấy ở địa điểm Long Thạnh, Bình Châu (Quảng Ngãi). Song song với hai địa điểm này, còn có giai đoạn văn hóa khác góp phần tạo dựng văn hóa Sa Huỳnh thuộc thời đại sắt, đó là giai đoạn văn hóa Xóm Cồn (Quảng Ngãi). Cả 3 di chỉ này cho biết Miền Trung đã có nền nông nghiệp khá sớm cách nay ít nhứt khoảng 3500 năm.

Hình 6: Di vật văn hóa Sa Huỳnh

1: Khuyên tai 2 đầu thú đá; 2: Khuyên tai 3 mấu thủy tinh; 3: Qua đồng; 4-6: Đồ sắt (4: cuốc, 5: giáo (?), 6: liềm); 7:rìu đồng; 8: Chum mộ; 9-10: Bình và bát gốm.

(Viện Khảo Cổ Học, 1999) 

·         Giai đoạn Xóm Cồn: Cho đến nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy 8 địa điểm thuộc văn hóa Xóm Cồn ở đồng bằng ven biển và đảo thuộc hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Trong tầng văn hóa Xóm Cồn tích tụ dày đặc vỏ các nhuyễn thể biển và xen lẫn với các di cốt động vật. Loại ốc mặt trăng (Turbo sp.) và ốc tai tượng (Tridacna sp.) rất phổ biến, còn loài điệp rất ít được tìm thấy ở di chỉ này. Rõ ràng cư dân chuyên sống với nghề nông nghiệp biển chủ yếu.

      Đồ đá gồm nhóm công cụ sản xuất như công cụ ghè đẽo và mảnh tước, rìu bôn, đục mài toàn thân; công cụ khác như chày, hòn ghè, hòn kê, bàn mài; đồ trang sức gồm vòng tay, hạt chuỗi bằng đá. Rìu bôn đá và những mảnh tước là những công cụ sản xuất của nghề nương rẫy.

Đồ xương và nhuyễn thể có số lượng đáng kể và đa dạng, gồm mũi dùi, mũi lao làm bằng sừng, còn đa số làm bằng nhuyễn thể như vòng trang sức và một số lõi vòng bằng vỏ ốc. Các vật liệu bằng vỏ ốc này cũng được tìm thấy ở Nam Nhựt Bổn, Đông Đài Loan, Bắc Philippines và Nam Thái Lan.

Đồ gốm tìm được cũng khá nhiều, phần lớn sử dụng đất sét pha cát biển, hạt cát tương đối mịn. Hoa văn trang trí là văn khắc gạch, in chấm, dán thêm và tô màu. Niên đại của văn hóa Xóm Cồn từ mẫu ốc lớp dưới cùng là 4 140 ± 65 năm cách ngày nay và Bích Đầm lớp dưới là 2 935 ± 65 năm cách ngày nay. Văn hóa Xóm Cồn trải dài cách nay khoảng 3 500-3 000 năm (Vũ Quốc Hiền và Chu Văn Vệ, 1996). 

·         Giai đoạn Long Thạnh: Đây là giai đoạn văn hóa sơ kỳ đồng của văn hóa Tiền Sa Huỳnh có niên đại C14 là 1 420 ± 40 tr. CN ở độ sâu 1,6m và 925 ± 60 năm tr. CN ở độ sâu 0,6m. Trong di tích Long Thạnh, các nhà khảo cổ phát hiện bộ công cụ đá nổi bật là cuốc đá to bản, lưỡi hình vòng cung, thân mỏng, không vai, thường gọi là cuốc hình “lưỡi mèo”. Cuốc làm bằng đá badan màu xanh, dài 17-18cm, chuôi rộng 7-8cm, lưỡi rộng 11cm. Ngoài ra còn có rìu tứ giác, rìu có vai kiểu “răng trâu”, nhiều bàn mài có lòng chảo, mũi khoan, chày nghiền, hòn kê. Các dao hái bằng đá, đục nhỏ, chày đập vỏ cây… cũng tìm được ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Nam, Đà Nẵng. Các loại công cụ đá này cho thấy nền nông nghiệp đã đạt một bước tiến mới và xuất hiện trên khắp đồng bằng và ven đồi núi của Miền Trung có niên đại cách nay khoảng 3 000-3 400 năm.

      Gốm có nhiều loại hình phong phú và đa dạng tùy từng vùng. Ở di tích Long Thạnh, nhà khảo cổ tìm thấy bình, nồi bát, dọi xe chỉ, chì lưới… Các trang trí hoa văn đẹp và trang nhã, thể hiện sinh động của biển cả. Điểm nổi bật của nền văn hóa này là các chum hay vò lớn, có nắp đậy hình bát được dùng làm quan tài. Mộ thường được chôn ở nơi cư trú từng nhóm 5-15 mộ hoặc nhiều hơn. Vò mộ thường được chôn đứng và có nắp đậy (Hình 7).

Hình 7: Đồ gốm Long Thạnh, mộ làng Cả

(Viện Khảo cổ học 1999)

·         Giai đoạn Bình Châu: Đây là giai đoạn đồng thau đang phát triển. Hiện nay nhóm di tích Bình Châu được biết nhiều ở hai khu vực Quảng Ngãi và Quảng Nam-Đà Nẵng, ngoài ra còn phát hiện lẻ tẻ ở khu vực Bình Thuận và Ninh Thuận. Các nhà khảo cổ tìm thấy trong tầng đất cư trú có nhiều công cụ sản xuất bằng đá như rìu đá đốc nhọn, thân hình tam giác, rìu tứ giác, cuốc “lưỡi mèo”, dao, chày nghiền, bàn đập vỏ cây, bàn mài; cho biết nghề nông nghiệp nương rẫy hiện diện.

Gốm ở Bình Châu tương đối ổn định, trang trí hoa văn độc đáo với hình con nhện, hình giọt nước, đám mây, hình cây lúa… Cách trang trí này đã nói lên chủ đề nông nghiệp trong kỹ nghệ làm đồ gốm, cho biết cư dân trong nền văn hóa Bình Châu sống chủ yếu với nghề nông. Ngoài ra, họ còn phát hiện nhiều mảnh đồ nấu đồng, công cụ bằng đồng. Nhóm di tích Bình Châu có thể tồn tại từ khoảng cuối thiên kỷ II đến nửa đầu thiên kỷ I tr CN.

Nền văn hóa Sa Huỳnh cổ không những phân bố dọc theo miền duyên hải miền Trung mà còn bao gồm các vùng trung du và vùng núi Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định. Đến nay, vẫn chưa có đầu mối về quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa, vì theo Thư tịch cổ Trung Quốc, nước Chàm chỉ thành lập cuối thế kỷ II sau CN. Nhưng có giả thuyết cho rằng văn hóa Champa nẩy sinh từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chàm cổ là con cháu người Sa Huỳnh cổ. Cư dân Sa Huỳnh có thể thuộc thành phần người có nguồn gốc Indonesian (Mã Lai cổ), với ngôn ngữ của miền Malayo-Polynesian.

            Ở Việt Nam, các chuyên gia tin tưởng các cư dân trong thời đại Kim Khí đã sống chủ yếu với nghề nông nghiệp, cho nên, cư dân Sa Huỳnh cổ chắc đã sống với nghề trồng trọt, nhứt là trồng lúa nước và lúa nương. Mặc dù đến nay chưa tìm thấy các di tích hạt lúa nguyên, nhưng gốm Sa Huỳnh cổ có pha trấu, gốm có hoa văn cây lúa, bông lúa như tìm thấy ở gốm Bình Châu. Các công cụ sản xuất của văn hóa Tiền Sa Huỳnh gồm dụng cụ bằng đồng như cuốc, thuổng, liềm, dao, rìu, chứng tỏ nền nông nghiệp đã lớn mạnh và có năng suất cao hơn thời kỳ Đồ Đá. Cư dân sống gần những sông rạch, đầm nước ngọt và vùng núi đồi, nghề đánh bắt cá cũng trở nên phổ biến. Ngoài ra, cư dân Tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh cổ còn trồng các loại cây khác như khoai, sắn, đậu phụng… để có thêm lương thực và các loại cây có sợi như bông, đai, gai để phục vụ nghề dệt.

Tóm lại, những khám phá mới gần đây cho biết cư dân Sa Huỳnh cổ có nền văn minh với sắc thái biển, liên hệ với các dân tộc trong vùng. Thật sự họ đã trải qua từ giai đoạn sơ kỳ đồng thau (di chỉ Xóm Cồn, Long Thạnh và Bình Châu của Tiền Sa Huỳnh) để bước vào thời đại Kim Khí (văn hóa Sa Huỳnh xưa), với nền nông nghiệp biển, ruộng nước, rẫy nương khá tiến bộ. 

4.   NỀn văn hóa ĐỒng ĐẬu (cách nay 3 500 - 3 000 năm) (Viện Khảo cổ học, 1998)

Trong nền văn hóa này, lần đầu tiên nhiều hạt gạo cháy được phát hiện và ngành trồng lúa nước thật sự trưởng thành ở Việt Nam. Các di chỉ Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, Tỉnh Vĩnh Phúc được phát hiện vào năm 1962. Đây là nền văn hóa nối tiếp Phùng Nguyên, có đời sống tiến bộ hơn, xuất hiện từ 1 500 đến 1 000 năm tr CN. Từ nền văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Gò Mun sau này, mực nước biển còn ở đỉnh cao +2-3m nên những nơi thấp của đồng bằng sông Hồng vẫn còn ngập lụt, chưa được khai thác.

Người Đồng Đậu dựng nhà trên các đồi gò thuộc đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Họ sinh sống trên các gò không cao lắm, bên đầm hồ, ven lưu vực sông Hồng, sông Lô, sông Đà và sông Đuống. Các con cháu của văn hóa Phùng Nguyên bắt đầu chuyển về xuôi định cư lâu dài và phát triển hoạt động nông nghiệp, bên cạnh săn bắn, hái lượm truyền thống, nhưng mức độ giảm lần. Người Đồng Đậu định cư và làm ruộng nước ven chân đồi gò, kết hợp với chăn nuôi gia súc ở quanh nơi cư trú; trong khi một bộ phận không nhỏ còn sinh hoạt trên các sườn đồi núi làm nương rẫy, săn bắn để sinh tồn. Các vùng cư trú của người Đồng Đậu trung bình chỉ vài vạn mét vuông.

Đặc trưng của nền văn hóa Đồng Đậu là kỹ nghệ luyện kim và chế tạo đồ đồng thau, chẳng hạn mũi tên, mũi nhọn bằng đồng thau đẹp và cân đối; thời kỳ này được gọi là “trung kỳ đồ đồng”. Ở hầu hết các di tích khai quật như Đồng Đậu, Đồng Dền, Đông Lâm, Đồi Đá đều tìm thấy khuôn đúc và nồi rót đồng. Rìu đồng cũng khá phổ biến được xếp làm 3 loại: rìu hình chữ nhựt, rìu có vai và rìu có lưỡi hơi lệch. Ngoài ra, còn tìm thấy giáo đồng, mũi tên, lưỡi câu đồng, dũa đồng, búa đồng (Hình 8 và 9). Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy công cụ đồ đá chiếm vị trí đáng kể: rìu đá, đục bằng đá, giáo đá, lao đá và các di vật đá dùng trong trang điểm: vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi.

Hình 8: Đồ đồng văn hóa Đồng Đậu 

Hình 9: Di vật văn hóa Đồng Đậu

Đồ đồng: 1: Rìu; 2,3: giáo; 4,5: mũi tên; 6: đủa;

7: mũi nhọn; 8: cán (?); 9-11: phác vật lưỡi câu và lưỡi câu;

Đồ xương: 12: mũi tên; 13: lao có ngạnh; 14: khuyên tai 4 mấu; 15: tượng gà; 16: tượng bò; 17-19: nồi, bát; 20-22: hoa văn trang trí (Viện Khảo Cổ Học, 1999) 

Kỹ thuật luyện đúc đồng đã tiến bộ vượt bực, cung cấp các dụng cụ mới hiệu quả hơn như: mũi rìu, giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, so với các dụng cụ bằng đá. Người Đồng Đậu còn dùng đồng thau để chế tạo khuôn đúc đồng, đồ se sợi, chạc gốm và nặn các tượng động vật như tượng bò, tượng gà, tượng rùa… Các tượng này cho biết những con thú đó là nguồn thực phẩm chính cho sự tồn tại và phát triển của cư dân Đồng Đậu.

Ở nền văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ khẳng định cư dân Đồng Đậu là cư dân nông nghiệp, làm ruộng khô, ruộng nước, trồng cây có củ, quả xung quanh nơi cư trú. Ở địa điểm Đồng Đậu, độ sâu 3,40 m, các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều than tro và nhiều hạt gạo cháy, có niên đại 3050 ± 100 năm cách ngày nay (Hình 10) (Viện Khảo Cổ Học, 1999); điều đó cho thấy lúa gạo là nguồn thức ăn của cư dân Đồng Đậu. Đây là lần đầu tiên tìm thấy dấu vết cây lúa trong thời Tiền văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Về sau, các nhà khảo cổ còn tìm thấy các hạt lúa có hình dạng khác nhau ở Gò Mun có tuổi carbon cách nay độ 3 120 (±100 năm) (Sakurai, 1987). Ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng), họ còn phát hiện nhiều phấn hoa của một giống lúa nước, có niên đại 3 405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).

Những bào tử phấn hoa, hạt gạo cháy, vỏ trấu được tìm thấy ở các di chỉ Đồng Đậu chứng tỏ có nhiều loài thảo mộc hiện diện, gồm có khoai lang, rau muống, họ Cam (cây trám), họ na (cây na) và họ Hòa thảo như cây tre, cây lúa (Oryza sativa) thuộc loại lúa nếp và lúa tẻ có hạt bầu và tròn (Trần Đạt và Đinh Văn Thuận, 1984). Một nghiên cứu về hạt gạo cháy ở di chỉ Đồng Đậu đã báo cáo: “10 hạt thon dài thuộc lúa tẻ… một số hạt thuộc dạng bầu dài giống như lúa nếp nương…Ở độ sâu 1,2-1,5m thấy chủ yếu là hạt thon ngắn cũng thuộc lúa tẻ (?). Trong các lớp này có hạt tròn dài (nếp) và tròn ngắn (di, cút). Trong lớp Đồng Đậu muộn (sâu 1,2-1,0m) ngoài các hạt thon dài và thon ngắn (tẻ) có hai hạt bầu ngắn, và tròn dài là lúa nếp.” (Đào Thế Tuấn, 1988). Công việc phân loại lúa tẻ, lúa nếp dựa vào quan sát hình dạng dài ngắn, tròn thon không được chính xác lắm, nhứt là các hạt gạo này bị cháy nám. Chẳng hạn, hạt gạo thon dài chưa hẳn là lúa tẻ vì có nhiều loại nếp cũng có hình dáng thon dài.

Ngoài nghề nông nghiệp, họ còn hái lượm và săn bắn, đặc biệt đối với cư dân sống trên các gò đồi cao. Bên cạnh những xương tìm thấy từ chó, lợn, gà chăn nuôi, họ còn săn bắt các loại thú hoang: trâu, bò, lợn, hươu, nai, voi trên rừng và bắt tôm cua, cá, ốc, rùa… ở những đầm hồ, suối nước chung quanh khu cư trú.

    Hình 10: Hạt gạo cháy vào thời kỳ văn hóa Đồng Đậu

   (3 000-3 500 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)

Trong giai đoạn này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết nhà ở của cư dân, với nhiều nền đất vàng nén chặt, trên đó có những lỗ cột, nhưng những ngôi nhà này đơn giản hơn nhà ở của nền văn hóa Đông Sơn sau này, với mái bằng rơm hoặc lá cây, xung quanh có những tấm phên vách che mưa gió.

Người Đồng Đậu còn biết dệt vải, đan lát, đồ dùng bằng mây, tre, những thảo mộc thiên nhiên phổ biến ở các vùng nhiệt đới. Nghề đan lát của Đồng Đậu rất tinh tế, đều đặn và đẹp. Cách đan cầu kỳ và cân đối để tạo ra các vật dụng chứa đựng ngũ cốc, phơi đồ gốm…(Viện Khảo Cổ Học, 1999). 

5.   NỀn văn hóa Gò Mun (cách nay 3 100 - 2 800 năm)

Trong nền văn hóa này, cư dân Việt cổ đã nắm vững kỹ thuật trồng lúa nước, có gia đình sản xuất lúa dư thừa và dự trữ ở các hầm đất được phát hiện hư thối tại di chỉ Gò Mun, trong khi nghề trồng lúa rẫy vẫn còn phổ biến trên những vùng đất cao và sườn đồi. Nền văn hóa này ra đời cách nay 3 thiên kỷ, sau nền văn hóa Đồng Đậu và trước nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng sau này. Di tích Gò Mun được tìm thấy ở xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ vào 1961. Nền văn hóa Gò Mun phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Việt, gồm có tỉnh Phú Thọ, Vĩnh phúc, Bắc Ninh, Hà Tây và Hà Nội thuộc lưu vực sông Hồng, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, và sông Đáy.

Cũng giống như di tích văn hóa Đồng Đậu, di tích thuộc văn hóa Gò Mun được tìm thấy ở trên đồi, gò thấp gần sông suối, đầm hồ, nhưng có phần tập trung hơn. Tại di tích, các nhà khảo cổ phát hiện dấu vết nền nhà trên đất vàng, nện chặt, dày độ 0,20cm và những hố đất đen ăn sâu xuống, chứng minh cư dân sống trong những ngôi nhà thấp như từng thấy trong nền văn hóa Đồng Đậu, với mái lá rơm rạ hay lá rừng và xung quanh có phên che, đan bằng tre hoặc vách rơm rạ. Một đặc điểm đáng chú ý của nền văn hóa này là cư dân sống tập trung vào một số khu vực, có lẽ do dân số gia tăng, khác với cư dân Đồng Đậu và Phùng Nguyên còn thưa thớt.  Địa tầng văn hóa của Gò Mun dày độ 1m, màu đen, chứa nhiều di vật, công cụ lao động, thức ăn, nhà cửa đổ nát, nền nhà, nhà bếp, lò, mộ táng.

            Đặc tính nổi nhất của Gò Mun là những công cụ và dụng cụ sinh hoạt của người Gò Mun thuộc đồ gốm, đồ đồng và đồ đá với hình dạng, nghệ thuật trang trí đặc biệt có một phong cách riêng của nền văn hóa này và dễ nhận dạng. Đồ gốm Gò Mun có hình dáng bên ngoài là kiểu miệng gốm và cách trang trí hoa văn (khắc vạch, in, đập và đắp nổi).

            Về đồ đồng, kỹ thuật đúc luyện, pha trộn nguyên liệu và sáng tạo nhiều hình công cụ như rìu, giáo, lao, mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, búa, dũa, liềm, tượng người, lục lạc, vòng tay, trâm cài, hoa tai, nhẫn… Cần lưu ý đến liềm đồng dùng để cắt lúa hữu hiệu và nhanh hơn các lưỡi liềm bằng đá. Nhờ hỗn hợp kim loại tốt, những đồ đồng của Gò Mun được tìm thấy ít bị rỉ sét, bền, ít bị sứt mẻ (Hình 11). Đây là “hậu thời đồ đồng”.

Về đồ đá, các công cụ sản xuất và một số đồ dùng vẫn còn quan trọng trong nền văn hóa Gò Mun, như rìu hình tứ giác, rìu có vai, rìu có nấc, đục, bàn mài đủ loại, trong đó có chiếc rìu được khoan lỗ để luồn dây, chì lưới, khuôn để đúc, vòng tay, khuyên tai bằng đá. Người Gò Mun biết áp dụng kỹ thuật cưa, khoan, mài, tiện khá thành thạo.         17

Hình 11 Di vật văn hóa Gò Mun

Đồ đồng: 1-2: Rìu; 3: giáo; 4: lao; 5-6: mũi tên; 7: liềm

Đồ đá: 8: Khuyên tai 4 mấu; 9-10: Vòng tay, đồ gốm;

11-16: bát, bình, chậu; 17: chân chạc (Viện Khảo Cổ Học, 1999)

Cuộc sống của người Gò Mun tiến bộ hơn người văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu, có sắc thái riêng biệt vào tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của nền văn hóa Đông Sơn. Đặc tính của nền văn hóa này là cư dân sống tập trung từng khu vực, chủ yếu với nền nông nghiệp lúa nước và lúa rẫy, hiệu năng kinh tế cao hơn nhờ các công cụ sản xuất bằng kim loại đồng.

Trong nền văn hóa Gò Mun, người ta phát hiện một hầm ngũ cốc thối nát, chứng tỏ, chủ nhân của hầm này sản xuất lúa không những đủ nuôi gia đình họ, còn dư thừa chứa trong hầm dự trữ (Viện Khảo Cổ Học, 1999). Cư dân Gò Mun đã rành nghề nông nghiệp, đặc biệt trồng lúa cùng các hoa màu khác ở ven sườn đồi, gò đất thấp chung quanh khu vực cư trú, bên bờ các dòng sông, bờ hồ, các đầm lầy với đất phù sa bồi đắp hàng năm. Họ trồng lúa theo phương pháp quãng canh trên một diện tích rộng lớn, giống như trồng lúa nổi ở miền Nam, nghĩa là gieo hạt lúa lúc trời bắt đầu mưa, cây lúa lớn dần theo mực nước và thu hoạch lúc hạt chín. Ở những ruộng nước ít sâu, nông dân cày xới đất, làm mạ, cấy lúa.

            Ngành chăn nuôi cũng khá tiến bộ để có thêm nguồn thực phẩm. Trong số di vật xương của các loài thú như lợn, gà, chó, trâu, bò, voi… có loại hoang dại và cũng có loại thuần hóa. Dù chưa có bằng chứng cư dân dùng trâu bò trong việc làm đất, nhưng cũng có ý kiến cho rằng họ dùng trâu bò để quần thục ruộng nước (đánh bùn), kéo gỗ làm nhà…

Tóm lại, trong thời kỳ Tiền văn hóa Đông Sơn, nền nông nghiệp chủ yếu dùng cuốc so với thời đại nguyên thủy dùng rìu, bôn. Thành tựu khảo cổ cho thấy cây lúa đã được trồng trên đất Việt cổ vào thời đại Đá Mới cách nay ít nhứt 4 000 năm. Trên đất cao sườn đồi, ngành trồng lúa rẫy vẫn tiếp tục nhưng đã có những bước tiến hóa trong lề lối du canh. Với giai đoạn trồng lúa rẫy sơ kỳ, cư dân chọc lỗ tỉa hạt, đốt rừng trồng lúa rẫy 3, 4 năm, sau đó di chuyển đến nơi khác để tìm đất mới, vì cỏ dại xâm lấn và đất kém màu mỡ; do đó, cả địa điểm canh tác và nơi cư trú cùng di chuyển một lượt. Theo các nhà nghiên cứu (Greenland, 1974), sau thời gian lâu dài họ ít di chuyển hơn, nhưng phải đi xa tìm đất trồng tỉa, địa điểm canh tác di chuyển thường xuyên hơn nơi cư trú, hoặc sau 10-15 năm họ trở lại canh tác trên những mảnh đất cũ mà mức phì nhiêu đã phục hồi. Ngoài ra, có một số nơi cư dân bắt đầu trồng lúa rẫy liên tục tại một vùng đất, nhưng phải luân canh hoặc trồng xen kẻ với các loại màu khác: đậu, bắp, rau, củ… Nhiều dân tộc thiểu số ngày nay vẫn còn thực hành các lề lối trồng lúa rẫy này ở Tây nguyên và miền đồi núi Bắc Việt (xem thêm Chương 13: Các hệ sinh thái trồng lúa và tiến hóa -lúa rẫy).

 nghề lúa rẫy, cư dân đã có một số kinh nghiệm trồng lúa nước khi mực nước biển lùi dần. Trong nền văn hóa Bắc Sơn-Đa Bút, cư dân ngoài trồng lúa rẫy chủ yếu, họ cũng trồng thêm lúa trong điều điện ngập nước quanh các ao hồ đầm nước gần nơi cư trú, nhưng còn giới hạn. Người dân Phùng Nguyên, Cầu Sắt-Suối Linh, Đồng Đậu, Gò Mun và Tiền Sa Huỳnh tiến từ đất cao xuống các thung lũng, đồng bằng để định cư lâu dài và trồng lúa từ sườn đồi núi xuống vùng trũng thấp, ven sông rạch gần nơi cư trú. Lúa nước đã trở nên quan trọng từ đây. Họ cũng biết dùng đến trâu bò trong nông nghiệp cách nay khoảng 4 000-3 000 năm; nhưng hoạt động săn bắn hái lượm vẫn còn phổ biến ở mức độ nhỏ hơn, với các công cụ sản xuất và thu hoạch bằng đá hoặc đồng.

Sau đây là bảng tóm lược hoạt động sản xuất lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương (Bảng 1): 

Bảng 1: Hoạt động sản xuất của ngành trồng lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương 

Hoạt động sản xuất

 

Lúa rẫy

 

Lúa nước

 

 

Dẫn chứng

Vụ lúa

Một vụ vào mùa mưa

Một vụ Mùa vào mùa mưa. Vào đầu CN có thêm vụ Chiêm (hay Đông-xuân)

- Di Vật Chí

- Maspéro, 1918

Loại lúa

Lúa nếp

Lúa nếp chính và lúa tẻ còn ít

Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6 (khoảng 2500 năm)

Làm đất

Chặt cây nhỏ, đốt cây (“đao canh hỏa chủng”)

- Đốt cỏ và ngâm ruộng (“hỏa canh thủy nậu”), giẫm chân chôn cỏ;

- Cày xới do trâu kéo hoặc sức người

- Trong Bùi Huy Đáp (1980)

- Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000)

- Viện Khảo Cổ Học (1998)

Gieo hạt

Chọc lỗ, gieo hạt và lắp đất

- Gieo hạt khi có vài đám mưa đầu mùa (gieo thẳng)

- Làm nương mạ cho lúa cấy

 

 

- Lĩnh Nam Chích Quái

- Maspéro, 1918

Cấy

Không

Nhổ cây lúa ở nơi gieo sớm đem cấy vào nơi có nước sâu hơn do nước mưa hoặc do nước dâng lên từ sông rạch. Lúa cấy một hoặc hai, ba lần, nhằm giúp cây lúa chịu đựng nước sâu vào mùa mưa.

- Lĩnh Nam Chích Quái

- Maspéro, 1918

Chăm sóc

Không hoặc ít khi

Nhổ cỏ, đuổi chim khi cần

 

Dùng phân

Nhờ mức phì nhiêu đất đai; do đó mỗi ba bốn năm canh tác cư dân tìm đất mới để trồng (du canh)

- Để gốc mạ thối thành phân

- Đem nước phù sa sông vào ruộng

- Phân tằm, phân bắc, phân trâu, bã đậu nếu có

- Trong Bùi Huy Đáp (1980)

- Văn Tân et al, 2008

- Trong Bùi Huy Đáp (1980)

Tưới nước

Nhờ nước trời

- Đắp bờ, đê, đập, đào mương đẫn nước ở những nơi có thể làm.

- Thủy Kinh Chú

- Bùi Huy Đáp (1980)

- Văn Tân et al, 2008

- Maspéro, 1918

Thu hoạch

Bằng tay, nhiếp, dao, lưỡi liềm đá, đồng

Dao hái, nhíp, lưỡi liềm đồng, sắt

Viện khảo cổ học (1999)

Tồn trữ

Kho chứa, bồ lúa

Kho chứa, bồ lúa, hầm đất

Hoa văn trống đồng Đông Sơn

Biến chế lúa gạo, nếp

Cối và chày, bàn nghiền đá

Cối và chày

Hoa văn trống đồng Đông Sơn (Hình 11)

- Nấu cơm bằng ống tre

- Làm bánh chưng, bánh dày

- Nấu rượu

- Nấu cơm, xôi bằng nồi

- Làm bánh chưng, bánh dày

- Nấu rượu

- Lĩnh Nam Chích Quái

- Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6

- Lĩnh Nam Chích Quái

 

             Trong thời đại Tiền văn hóa Đông Sơn, cư dân Việt cổ đã có một số kiến thức và kinh nghiệm tiến bộ đáng kể về đời sống, sinh hoạt cộng đồng và đặc biệt hoạt động nông nghiệp lúa, tiếp theo nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn còn sơ khai. Ngành trồng lúa rẫy đạt đến trình độ cao và ngưng đọng ở đó cho đến sau này, đồng hành với nghề trồng lúa nước đang bắt đầu phát triển. Lúa nước có mặt trên đất Việt cổ từ Miền Bắc đến Nam Bộ cách nay ít nhứt 4 000 năm. Lợi dụng mực nước biển rút lui và sự hiện diện các thung lũng, trũng đầm, cư dân dấn thân trồng lúa nước vừa ít rủi ro thiên nhiên vừa tăng sản xuất để phục vụ cộng đồng ngày càng thêm đông. Họ không những đủ ăn mà còn sản xuất dư thừa, dự trữ ở kho vựa. Công cụ hoạt động nông nghiệp bấy giờ không chỉ bằng đá mà còn bằng đồng thau, bằng gỗ để khai thác những vùng đất rộng lớn xung quanh nơi cư trú. Họ cũng nuôi heo, gà, chó, trâu, bò và đánh bắt cá ở sông rạch, sò nghêu ở ven biển.

Sự xuất hiện kim loại đồng, thau, gang và nghề luyện kim trong giai đoạn này đã cung cấp các công cụ sản xuất tinh xảo, hữu hiệu cho ngành nông nghiệp lúa và giúp cư dân có đời sống ấm no ổn định lâu dài; đó là tiền đề quan trọng để thành lập nền văn hóa Đông Sơn danh tiếng với văn minh lúa nước rực rỡ trong thời đại Hùng Vương sau này. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Barron, A., Michael TurnerLevi BeechingPeter BellwoodPhilip PiperElle GronoRebecca Jones, Marc OxenhamNguyen Khanh Trung KienTim Senden, and Tim Denham. 2017. MicroCT reveals domesticated rice (Oryza sativa) within pottery sherds from early Neolithic sites (4.150 - 3.265 cal BP) in Southeast Asia (https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5547045/).

  1. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
  2. Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
  3. Diệp Đình Hòa. 1978. Người Việt cổ Phương Nam ở vào buổi bình minh của thời dựng nước, Khảo Cổ Học, số 1, tr. 61-69.
  4. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
  1. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
  2. Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.
  3. Nguyễn Khắc Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.
  4. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  5. Phạm Đức Mạnh. 1997. Tiền sử và sơ sử Đông Nam Bộ (Việt Nam) - Những nhận thức quá khứ và hiện đại. Trong Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam. NXB  Khoa Học Xã Hội, tr 242-292.
  6. Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn. 1970. Phân tích chì trong di vật đồng trong thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm. Khảo Cổ Học, số 7-8, tr.126-129.
  7. Solheim II, W.G. 1961. Introduction to Sa Huynh. Asian Perspectives Hồng Kông AP, Vol. III, No. 2.
  8. Solheim II, W.G. 1966. Further relationship of the Sa Huynh - Kalanay pottery tradition. AP., Vol. VIII, No. 1.
  9. Solheim II, W.G. 1967. The Sa Huynh - Kalanay pottery tradition: past and future research, in Studies in Philippine Anthropology, p 151-174.
  10. Trần Đạt và Đinh Văn Thuận. 1984. Phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phú). NPHM Viện Khảo Cổ Học, 1984: 91-93.

11.  Trần Đức Cường, Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đức Nhuệ và Lê Trung Dũng. 2015. Lịch sử hình thành và phát triển Vùng Đất Nam Bộ (từ thời khởi thủy đến 1945). NXB Khoa Học Xã Hội, 695 trang.

  1. Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia. 1998. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập I (Quốc sử quán triều Nguyễn). NXB Giáo Dục, 1.207 trang.
  2. Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử - văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội. NXB Văn Học, 275 trang.
  3. Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
  4. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.
  5. Vũ Quốc Hiền và Chu Văn Vệ. 1996. Công cụ và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa), trong NPHMVKCH năm 1993, tr. 111-113.

 

CHƯƠNG 8

PHÁT TRIỂN

LÚA NƯỚC HẬU KỲ

THỜI ĐẠI KIM KHÍ

(3 000-1 800 năm BP)

Khi thời đại Đá Cũ chấm dứt nhân loại thức dậy chào đón buổi binh minh trên trái đất đang ngủ quá lâu. Cuộc Cách Mạng Đá Mới khởi động êm ái với những sáng tạo công cụ hoạt động từ những hòn đá cuội dùng đập đẽo trở nên những mảnh đá được ghè đẽo một, hai hoặc nhiều mặt sắc sảo, hoàn chỉnh những chiếc rìu, cuốc… để hỗ trợ hiệu quả cho sinh hoạt hàng ngày - chủ yếu săn bắt và hái lượm. Từ đó, nền nông nghiệp sơ khai ra đời, cư dân theo thời gian biết thuần hóa thảo mộc và động vật để sản xuất đủ lương thực thỏa mản nhu cầu. Bộ lạc trồng lúa xuất hiện nhiều nơi với lúa rẫy trên sườn đồi núi, đất cao quanh nơi cư trú. Khi mực nước biển thoái dần, cư dân từ gò cao xuống vùng đất thấp khai thác nông nghiệp lúa nước, làm vườn, chăn nuôi gia súc và định cư lâu dài. Đến thời đại Kim Khí bùng phát với các công cụ hoạt động bằng đồng thau và nghề luyện kim, đời sống cư dân bước sang trang sử mới với đầu óc khôn ngoan hơn, hoạt động tay chân khéo léo và tinh thần mở mang, với bằng chứng đồ gốm và trang sức ngày càng có phong cách riêng, nghệ thuật điêu luyện, đa dạng trông đẹp mắt.

Những kinh nghiệm sáng tạo tích lũy hàng ngàn năm nêu trên qua các nền văn hóa nổi tiếng Hòa Bình-Bắc Sơn-Đa Bút là cơ sở quan trọng cho sự tiến bộ mới và lớn mạnh của cộng đồng Việt Cổ để hình thành đất nước Văn Lang vào thiên kỷ II và I trước CN; đồng thời khai sáng nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng thế giới và phát huy thời đại văn minh lúa nước, trong khi các nhà nước Hùng Vương-An Dương Vương lớn mạnh hùng cứ một thời trên bờ biển Thái Bình Dương.

1.   NỀn Văn Hóa Đông Sơn (cách nay 2 800 - 1 800 năm)

Vào thời đại Kim Khí cách nay khoảng 4 000 năm, nghề trồng lúa nước bắt đầu bành trướng lớn mạnh, có thể chia làm 2 giai đoạn: thời kỳ tiền bán và hậu bán thời đại Hùng Vương. Trong nửa trước thời đại Hùng Vương, người Văn Lang làm quen với trồng lúa nước sơ kỳ song song với trồng lúa rẫy khi mực nước biển thoái dần; nhưng nghề lúa rẫy vẫn còn chiếm ưu thế. Đến nền văn hóa Gò Mun, với phát triển công cụ sản xuất bằng đồng thau và nhiều kinh nghiệm trị thủy, hoạt động sản xuất lúa nước cần nhiều sức lao động trở nên dễ dàng thuận lợi cho phát triển để vượt lên ngang hàng hoặc hơn ngành trồng lúa rẫy. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện một hầm lúa thối nát trong nền văn hóa này, chứng tỏ chủ nhân sản xuất dư thừa, gia đình an cư no ấm. Ngành lúa nước càng lớn mạnh, đời sống người Văn Lang thêm phồn thịnh sung túc, nhờ đó nền văn hóa Đông Sơn ra đời và kéo dài cả ngàn năm. 

Di tích Đông Sơn được khai quật vào năm 1924 bởi ông L. Paijot, một viên chức quan thuế Pháp. Di tích này thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, nằm ở hữu ngạn sông Mã. Nền văn hóa bao gồm các tỉnh miền núi, đồng bằng và ven biển của Miền Bắc đến Quảng Bình, nhưng địa bàn gốc là đồng bằng và trung du Miền Bắc (vùng sông Hồng) và vùng bắc Trung Phần (vùng sông Mã). Nền văn hóa Đông Sơn đã phát triển lâu dài từ thế kỷ VIII-VII tr CN đến thế kỷ I - II sau CN. Các di tích tìm thấy ở nhiều địa điểm, nhưng thường phân bố trên các vùng đất cao, chân đồi, ven sông và ven suối. Tầng văn hóa trung bình dày 0,60-1,00m. Ngoài các di chỉ cư trú riêng biệt, còn có loại di tích hỗn hợp của cả di chỉ cư trú và khu mộ táng.

            Các đặc trưng của nền văn hóa Đông Sơn được tìm thấy ở các loại đồ đồng, sắt, đá, đồ thủy tinh, gốm, xương và đồ tre gỗ. Đồ đồng chiếm số lượng lớn, đặc biệt công cụ liên quan đến phát triển sản xuất nông nghiệp lúa.

Đồ đồng: Nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng nhứt là bộ đồ đồng rất phong phú về số lượng, hình dạng, trình độ kỹ thuật chế tạo và năng khiếu thẩm mỹ của người dân. Nhạc cụ của nền văn hóa này nổi bật nhứt là trống đồng và chuông. Trống đồng là một di vật tiêu biểu cho nền văn minh người Việt cổ thời dựng nước, ngoài nhiệm vụ nhạc khí còn là biểu tượng của quyền lực, lễ hội, tôn giáo…(Hình 1). Trống đồng cũng là một đặc trưng nổi bật của nền văn hóa Đông Sơn, nay gọi là trống Đông Sơn. Đến nay đã phát hiện gần 1 000 trống lớn, không kể những trống vỡ nát và gần 100 chiếc trống minh khí (Hoàng Minh Chính, 2012) ở miền Bắc khu vực văn hóa Đông Sơn và các nơi khác ở Việt Nam như Thừa Thiên - Huế, Gia Rai - Kontum, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Kiên Giang... Trống Đông Sơn có địa bàn phân phối rộng không những ở Việt Nam, còn tìm thấy ở nhiều nước Đông Nam Á như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và miền nam Trung Quốc, chứng tỏ Việt Nam có giao lưu thương mại khá rộng lớn lúc bấy giờ. Trống đồng được các nhà khảo cổ học phân ra 5 loại A,B,C,D và Đ, căn cứ vào kích thước, dáng cân đối và hoa văn.

            Nhiều hoạt động nông nghiệp trong thời Cổ Đại được khắc ghi trên các trống đồng Đông Sơn, qua các hình ảnh hoa văn rất điêu luyện và mỹ thuật. Các hoa văn trang trí trên trống đồng rất đa dạng, thể hiện nhiều góc cạnh xã hội thời bấy giờ dưới triều đại Hùng Vương- An Dương Vương. Các hoa văn này xuất hiện trên mặt, tang, thân và ngay cả chân trống đồng, chủ yếu gồm có các loại văn mặt trời, văn kỷ hà, văn tả cảnh sinh hoạt và văn hình động vật (Hình 1 & 2). Trống đồng Đông Sơn đã để lại cho hậu thế một thông điệp lịch sử sống động, chân thật, rõ ràng cách đây ít nhứt 3 000 năm, người Việt cổ đã lập quốc và có nền văn minh nông nghiệp rực rỡ, như sản xuất lúa gạo, đánh cá, chăn nuôi, săn bắn qua những họa tiết trống đồng. 

Nhóm công cụ sản xuất bằng đồng thau của văn hóa Đông Sơn khá phong phú, trong đó rìu chiếm một số lượng quan trọng (Hình 1, 2 và 3) (Viện Khảo Cổ Học, 1999). 

·         Rìu: Đặc điểm chung là rìu có họng để tra cán, gồm có 2 loại rìu cân xứng và rìu không cân xứng: rìu xéo (không cân xứng), rìu hình hia gót tròn, gót vuông, rìu xoè cân, rìu có vai. Rìu được dùng để chặt, đốn, cắt cây làm nương rẫy.

·         Lưỡi cày đồng tiêu biểu cho ngành nông nghiệp. Cho tới nay có gần 200 hiện vật, gồm có 4 loại: lưỡi cày hình tam giác (còn hiếm), lưỡi cày hình tim (nhiều nhứt chiếm 50%), lưỡi cày hình cánh bướm hay chân vịt và lưỡi cày có vai ngang hay vai nhọn (ít) (Hình 2). 

Hình 1: Trống đồng Đông Sơn và mặt trống (2 500-3 000 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)

·         Cuốc đồng: Chiếc cuốc lớn ở Bãi Phủ (Đông Hà, Thanh Hóa) có kích thước: dài 16,5cm, rộng 11,7cm. Kiểu cuốc hình chữ U tùy theo cách lắp cán với lưỡi hình cung hoặc hình tam giác. Kiểu cuốc có vai và phần họng tra cán ăn sâu xuống lưỡi. Kiểu cuốc có họng tra cán, lưỡi gồm có hình tam giác, hoặc lưỡi hình cung. Cuốc là biểu tượng của nền nông nghiệp dùng để đào, xới, dọn đất làm mùa…

·         Xẻng: công cụ này được phát hiện còn rất ít. Họng xẻng có cấu tạo giống như họng lưỡi cày hình tim. Có xẻng không có họng mà liền với lưỡi thành một khối. Xẻng dùng để lật đất, vun luống…

·         Nhóm thuổng hay mai thường được xếp vào nhóm rìu có vai cân xứng, nhưng chắc và khoẻ hơn lưỡi rìu, rất thích hợp cho đào đất hay dầm đất.

·         Nhóm công cụ thu hoạch: Gồm có lưỡi dao gặt hay còn gọi là nhíp được dùng để gặt lúa.

·         Ngoài nhóm công cụ sản xuất nêu trên, còn có nhóm dùi, đục, dũa, lưỡi câu, kim, đinh ba, đinh hai, móc, dao, dao khắc.

Ngoài ra, đồ đồng còn là dụng cụ sinh hoạt chứa đựng (thạp, thố, bình, khai, đĩa, chậu…), đồ trang sức (vòng tai, vòng tay, trâm cài, khóa thắt lưng, tượng đồng…), vũ khí (giáo, lao, mũi tên, dao găm), nhạc cụ và tượng đồng. 

Hình 2: Lưỡi cày bằng đồng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn (2 500-3 000 năm trước) (ảnh: N. K. Quỳnh)

     Hình 3: Đồ đồng văn hóa Đông Sơn

1: Rìu bôn; 2: rìu hình chữ nhựt; 3-8: rìu xoè cân; 9: rìu xéo hình thuyền; 10,11: rìu xéo hình dao xén; 12,13: rìu xéo gót vuông; 14,15: đục; 16: dùi; 17: lưỡi câu; 18: nhíp; 19: dũa; 20: cuốc chữ U; 21: xẻng; 22: thuổng; 23: lưỡi cày (Viện Khảo Cổ Học, 1999)

Đa số các công cụ sản xuất nêu trên cho biết ngành nông nghiệp lúa đã tiến bộ nhiều trong nền văn hóa Đông Sơn, bên cạnh di vật hạt gạo cháy, hầm thóc thối, thạp đồng, chậu gốm lớn… tìm thấy ở di chỉ Đồng Đậu, Gò Mun... Cư dân Việt đã tích tụ nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước, biết dùng cuốc cày bằng đồng và sắt để nâng hiệu năng sản xuất, biết dùng trâu để thay thế phần nào sức lao động, có kho vựa chứa thóc và biết giã gạo thay vì dùng bàn nghiền do sản xuất lúa quá nhiều. Một lần nữa bằng chứng hùng hồn nhứt của nền nông nghiệp lúa nước trong giai đoạn này là các hoa văn trên trống đồng được tóm lược như sau:

-          Họa tiết kho vựa lúa trên nhiều trống đồng (Hình 4)
-          Họa tiết bông lúa trên quai của trống đồng Ngọc Lũ (Hình 5).
-          Họa tiết mặt trời, nhà sàn, ruộng nước, sông ngòi, thuyền cổ, trâu bò, chim cò bay, trích, gà, cóc, cá, rắn… (Hình 1 & 10)
-          Họa tiết hai người đứng giã gạo (Hình 6).
-          Họa tiết lễ hội mừng thu hoạch cuối vụ: múa hát, người hóa trang kiểu cờ bay (Hình 1, 6 và 10) …

        Hình 4: Vựa thóc và hai con gà (ảnh Internet)

 

Hình 5: Họa tiết bông lúa trên quai trống đồng Ngọc Lũ (ảnh Internet)

Hình 6: Hoa văn giã gạo trên trống đồng Đông Sơn                               

Đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn là công cụ và vũ khí. Công cụ sản xuất gồm lưỡi cuốc chiếm số lượng nhiều nhứt. Lưỡi cuốc là công cụ làm đất, gồm có 2 loại: kiểu lưỡi cuốc có vai, có họng tra cán gần hình chữ nhựt, và kiểu cuốc có họng tra cán hình chữ U, lưỡi xoè rộng hình cung. Ngoài ra, còn có rìu để chặt cây, liềm dáng cong hình cung dùng thu hoạch. Ở Gò Chiền Vậy, mẫu than để xác định niên đại nằm sâu dưới lớp đất có cuốc sắt với niên đại 2 350+100 cách ngày nay (Viện Khảo Cổ Học, 1999).

            Đồ đá gồm có hai nhóm công cụ sản xuất và đồ trang sức (vòng tay, vòng tai). Số lượng công cụ sản xuất còn rất ít, chủ yếu rìu (rìu tứ giác và rìu có vai), bôn. Ngoài ra, còn có hòn kê, hòn ghè, cối, chày, bàn mài với các kiểu gần giống như thời kỳ tiền Đông Sơn. Về trang sức có kiểu vòng tay, vòng tai, các hạt chuỗi bằng đá mã não.

            Ngoài ra, còn có đồ thủy tinh được tìm thấy trong các ngôi mộ niên đại muộn, như hạt chuổi màu xanh, vòng tai, vòng tay có màu xanh thẫm; và các đồ gốm như nồi, bình, chõ, chậu, bát, chì lưới, dọi xe gần giống với giai đoạn tiền Đông Sơn, nhưng số lượng phong phú, đa dạng hơn và hoa văn trang trí còn nghèo nàn. Đồ dùng bằng tre gỗ cũng được người Đông Sơn dùng phổ biến, nhưng dễ bị hủy hoại nên rất hiếm tìm thấy: cán giáo, mái chèo, mâm gỗ, phao gỗ, tượng người bằng gỗ…

            Nói chung, nền văn hóa Đông Sơn được thế giới biết đến với 4 đặc điểm: (i) tổ chức cộng đồng được hoàn chỉnh với các làng xã tự trị, tổ chức nhà nước, xã hội có trật tự kỷ cương của một nước mới thành lập, (ii) kỹ thuật luyện kim đúc đồng đạt đỉnh cao với sáng tạo trống đồng Đông Sơn nổi tiếng, (iii) xây dựng thành Cổ Loa kiên cố vững chắc với sản xuất nhiều mủi tên đồng và nỏ thần chống xâm lăng, và (iv) nền văn minh lúa nước phồn thịnh, sản xuất lương thực dư thừa, người dân no ấm.

 2.   NỀn văn minh lúa nưỚc[5]

Ở Việt Nam, nền văn minh lúa nước được nhắc đến rất nhiều trong sử sách, ca dao, là niềm tự hào của dân tộc, đã xuất hiện rõ nét từ nền văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4 thiên kỷ khi người Việt cổ biết dùng các dụng cụ hoạt động nông nghiệp bằng đá mài và đồng thau để chuyển đổi nghề trồng lúa rẫy trên đất cao qua cách trồng lúa nước ở các thung lũng, đầm lầy, ven sông rạch. Họ đã có ít nhiều kinh nghiệm trị thủy để canh tác, sản xuất bền vững với truyền thuyết Sơn tinh và Thủy tinh. Nhờ đó, sản xuất thực phẩm, nhứt là lúa gạo tăng cao đủ đáp ứng đòi hỏi của các cộng đồng tập trung ở làng xã.

Với các thành tựu vượt bực của ngành khảo cổ học trong nước, nhiều chuyên gia liên hệ xác định thời đại Hùng Vương khởi sự từ thời sơ kỳ Đồng Thau đến sơ kỳ Sắt cách nay từ 4 000 đến 2 258 năm (từ nền văn hóa Phùng Nguyên đến Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn), và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để thành lập quốc gia đầu tiên của người Việt, đó là nước Văn Lang. Tuy nhiên, theo lịch sử thời đại này chỉ có 18 đời Vua Hùng (khoảng 700 năm tr CN), cho nên đây có thể là hậu kỳ thời đại Hùng Vương trong khi thời sơ kỳ còn khiếm khuyết, nhưng các công cụ hoạt động nông nghiệp bằng đá và đồng thau được phát hiện trước đó là những bằng chứng cụ thể xác thực.

   Địa lý và tổ chức xã hội sơ lược: Nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương gồm có vùng Bắc Việt, bắc Trung Việt và một phần phía nam tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000 và Văn Tân và cộng sự viên, 2008) (Hình 7 (www.chungta.com)).

Kinh đô nước Văn Lang được biết ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước. Ngưòi Việt cổ thời Hùng Vương có nguồn gốc đa tộc, mà hạt nhân của cộng đồng là người Tày-Thái cổ (Bách Việt) với sự tham gia của các nhóm tộc khác như Malayô, Môn-Khmer... thuộc tiểu chũng Mongoloid phương nam (Viện Khảo cổ học, 1999 và 2002).

Nước có 15 bộ (bộ lạc cũ) và có tổ chức xã hội tương đối rõ ràng như Lạc Vương (vua), Lạc Hầu (văn), Lạc Tướng (võ), Quan Lang (con trai vua), Mỵ Nương (con gái vua), Bố Chính (quan lại), ở làng xã có chế độ tù trưởng và mỗi gia đình có chế độ gia tộc, gia trưởng.  Người dân gọi là Lạc Dân. 15 bộ tộc gồm có:

Hình 7: Bản đồ nước Văn Lang từ thế kỷ VII-II tr CN

- Văn Lang (Bạch Hạt, Vĩnh Yên),

- Châu Diên (Sơn Tây),

- Phúc Lộc (Sơn Tây),

- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang),

- Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng),

- Vũ Ninh (Bắc Ninh),

- Lục Hải (Lạng Sơn),

- Ninh Hải (Quảng Yên),

- Dương Tuyền (Hải Dương),

- Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình),

- Cửu Chân (Thanh Hóa),

- Hoài Hoan (Nghệ An),

- Cửu Dương (Hà Tỉnh),

- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị),

             - Bình Văn (?).  

● Đời sống văn hóa và phong tục

Cư dân thời Hùng Vương đã tập hợp sinh sống ở các xóm làng ven chân núi, sườn đồi, gò cao hay những doi đất để tránh thú dữ và ngập úng; nhưng gần với nguồn nước sông rạch, đầm hồ ven biển để thuận lợi cho hoạt động hàng ngày: vào rừng, lên nương, xuống sông, ra biển… để trồng trọt, săn bắn, chài lưới, đánh cá. Lúc bấy giờ xã hội chưa phân hóa nhiều. Họ sống trong những nhà sàn còn thô sơ, có mái cong hình thuyền và đuôi mái sát đến sàn nhà. Có cầu thang lên đặt trước nhà. Hình ảnh ngôi nhà được khắc ghi trên nhiều trống đồng và vết tích nhà sàn còn được tìm thấy ở mốt số địa điểm thuộc di chỉ Đông Sơn, gồm những cột gỗ, những dóng tre, mảng phên đan… (Lê Thái Dũng, 2017) (Hình .

Trang phục của nam và nữ khác nhau, nam giới đóng khố, nữ giới mặc váy, cởi trần, đi chân đất. Vào dịp lễ hội, người Văn Lang ca hát, nhảy múa, hóa trang với váy xòe làm bằng lông vũ hoặc lá cây kết lại, đầu đội mũ cài bông lau hoặc mũ gắn lông chim phía trước, như thấy trên các hoa văn trống đồng. Đồ trang sức của cả nam lẫn nữ gồm có vòng đeo tai, nhẫn, hạt chuỗi, vòng đeo tay. Do đời sống sông nước, núi rừng, họ có tập tục xăm mình để tránh cá sấu, thuồng luồng kéo dài đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt; đầu tóc nam lẫn nữ cắt ngắn để dễ dàng làm việc hàng ngày, đi vào rừng sắn bắn. Họ còn búi tóc, tết tóc nhưng ít hơn. Tục lệ phổ biến của người Việt cổ còn có nhuộm răng đen, ăn trầu với tích trầu cau.

    Hình 8: Thời đại Hùng Vương

            Về hôn nhân, tục ăn cơm chung của trai gái trước khi thành vợ chồng được ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái: “ … trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.” Lúc sinh sản “…con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp”. Tục giã cối (Hình 6) được khắc trên trống đồng không những là hoạt động sản xuất còn được xem là một loại nhạc cụ và hình thức giao duyên giữa nam nữ trong ngày lễ hội.

Về đời sống tinh thần, cư dân thời Hùng Vương có nhiều hình thức tín ngưỡng, như  thờ vật tổ hay “Tô tem” (chim Lạc, rồng), sùng bái thiên nhiên (thần Mặt Trời, thần Mưa, thần Sấm, thần Chớp, thần Núi, thần Nước…), sùng bái con người (Tổ tiên, anh hùng có công với đất nước), tín ngưỡng phồn thực (mong được mùa, mong giống loài sinh sản…). Các tập tục cá biệt nêu trên giúp cho dân Việt giữ bản sắc dân tộc, không chịu khuất phục đồng hóa với kẻ thù xâm lăng từ phương Bắc.

Trong tinh thần sùng bái con người, cư dân Việt cổ thời Hùng Vương nấu gạo nếp làm cơm, xôi, hay chế biến ra bánh chưng, bánh dày để cúng tế trong các lễ hội, cúng tổ tiên vào Tết Nguyên đán. Đến nay, một số truyền thống tốt đẹp vẫn còn gìn giữ, như tục thờ cơm sống vào ngày 10 tháng 03 âm lịch để tưởng nhớ vua Hùng. Còn có tục thi nấu cơm vào dịp Tết, đặc biệt tại xã Kinh Kệ ở Lâm Thao, Phú Thọ. Về sau, cuộc thi lan rộng tới nhiều vùng, nhứt là ở đồng bằng và trung du Miền Bắc. Mỗi vùng có nghi thức lễ khác nhau, nhưng đều có ý nghĩa nhắc đến các vị thánh tổ Hùng Vương, làm nổi bật tài nấu nướng khéo léo trong gia đình và cầu may mắn sung túc nhân dịp Xuần về (Lê Thái Dũng, 2017). Hiện nay, nước ta vẫn còn nhiều lễ hội ẩm thực hàng năm được tổ chức tại một số nơi Miền Bắc, Miền Trung và Tây Nguyên, như lễ Thượng điền, Hạ điền, Gạo mới, Tết Cơm mới…  (Xem thêm Chương 1: Tầm quan trọng ngành trồng lúa).

Ngoài ra, dân gian còn truyền miệng nhiều chuyện thần thoại từ đời này đến đời khác cho đến ngày nay, giúp chúng ta biết được một số khái niệm về văn hóa và tinh thần cư dân Việt cổ vào thời Cổ Đại. Chẳng hạn, truyện bánh chưng bánh dày cho biết người bấy giờ tin tưởng trời tròn đất vuông và sùng bái tổ tiên qua việc cúng bái và sản xuất nhiều lúa gạo. Truyện Sơn tinh Thủy tinh thể hiện sự phấn đấu khó khăn của con ngưới với vạn vật, ngoài ra còn nói lên vấn đề kiềm chế lũ lụt, biết làm thủy lợi trong mùa mưa tại nhiều nơi. Truyện Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng vừa cho thấy giặc Ân ngoài biên giới, tinh thần yêu nước và thời ấy cư dân đã biết dùng kim loại sắt (ngựa sắt, roi sắt). Tích Trầu cau gợi lên tình người, tình huynh đệ cao cả, cũng như cư dân biết trồng cây ăn quả, rau hoa. Truyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử nêu lên hình ảnh đầm Dạ Trạch và bãi Tự Nhiên, và chế độ mẫu hệ còn chi phối xã hội thời bấy giờ…

● Đời sống kinh tế:  Vào buổi đầu thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Phùng Nguyên, hoạt động săn bắt và hái lượm vẫn còn đóng vai trò quan trọng, nhưng nghề nông, chài lưới và chăn nuôi đã tiến bộ rất nhiều. Thật vậy, trong giai đoạn đầu của nền văn hóa này, dụng cụ sản xuất bằng đá vẫn còn chiếm vị thế quan trọng, chứng minh nghề trồng lúa của người Việt cổ còn thô sơ trong những tháng ngày mới lập quốc. Sự kiện này được thể hiện qua truyền thuyết như sau: “Ban đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang (bột báng)[6] (Hình 9), cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm… “Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng”, “…phát nương đổ rẫy. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp”. (Lĩnh Nam Chích Quái, 1960). 

Đến khoảng 700 năm tr. CN, nông nghiệp chính là nghề trồng lúa nước và chài lưới được xác nhận với các hoa văn thể hiện trên nhiều trống đồng tìm thấy; ngoài ra, họ còn trồng rau củ, trầu cau, dưa hấu (sử tích), khoai đậu, trồng dâu, nuôi tằm, chăn nuôi gia súc... 

(i)   Nghề trồng lúa:

 Trong nền văn hóa Phùng Nguyên, người Việt cổ vẫn tiếp tục làm nương rẫy truyền thống từ thời tiền sử cho đến khi có hiện tượng biển lùi xảy ra, họ tràn xuống vùng đất thấp hơn khai thác các thung lũng, đầm lầy có nước quanh năm để trồng lúa trong nền văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun và phát triển mạnh trong nền văn hóa Đông Sơn. Sau cùng, họ định cư trên các vùng đất cao, gò đồi, ven đầm lầy, sông rạch, biển và khai phá rừng rậm để trồng trọt sinh sống, như đã từng chứng kiến cuộc Nam tiến khai khẩn đất đai vĩ đại của người Việt trong 7 thế kỷ, từ thế kỷ XI đến XVIII. Theo thư tịch và các công trình khảo cổ học cho biết đến thời đại Hùng Vương, nền nông nghiệp cuốc chuyển qua nông nghiệp cày lưỡi sắt, giúp cuộc khai phá đất mới dễ dàng và hiệu quả hơn, làm tăng sản xuất nông nghiệp trong nước đặc biệt ngành trồng lúa nước.

            Nền văn minh lúa nước bắt đầu buổi bình minh từ nền văn hóa Phùng Nguyên-Đồng Đậu trên đất Văn Lang và bừng sáng rực rỡ ở nền văn hóa Đông Sơn, với các khám phá khảo cổ học, như các công cụ sinh hoạt bằng đá, đồng, thau và sắt để đào, xới, chặt như rìu, lưỡi cày, cuốc; công cụ thu hoạch có lưỡi liềm, vòng hái, dao; hậu thu hoạch như thạp, vò, kho vựa, hầm gạo… Hơn nữa, trống đồng Đông Sơn còn để lại hậu thế một thông điệp lý thú và một bức tranh lịch sử sống động về nông nghiệp lúa nước, chăn nuôi, đánh cá qua các họa tiết được khắc ghi trên mặt và thân trống đồng.

Việc trồng lúa nước không phải dễ dàng như trồng lúa rẫy, đòi hỏi nhiều sức lao động, trải nghiệm và lòng kiên nhẫn của cư dân, nhứt là khi đến khai thác các đầm lầy và đồng bằng bao phủ rừng nguyên sinh, như khai khẩn đồng bằng sông Hồng sau này. Cư dân phải chọn một khu đất rừng nhỏ để chặt cây khai hoang sạch sẽ trước khi trồng trọt. Trên mảnh đất vừa khai phá, họ gieo hạt hoặc cấy lúa vào đầu mùa mưa, nhưng thường gặp nhiều khó khăn vì còn nhiều gốc cây dại, cỏ lát, chim, chuột và loài thú rừng khác luôn đe dọa đến cây lúa và mùa màng. Công tác bảo vệ lúa đến ngày thu hoạch rất khó khăn nên mùa màng rất bấp bênh. Tuy nhiên, qua ít năm canh tác mảnh đất trở nên thuần hơn, cư dân có nhiều kinh nghiệm hơn nên mùa màng cũng tươi tốt hơn; đồng thời họ thu thập nhiều hiểu biết về đất đai, thửa ruộng, cây lúa, và môi trường xung quanh.

Do tập quán trồng lúa rẫy nhiều thế kỷ, cư dân Việt cổ ban đầu có thể trồng lúa nước theo lề lối du canh lâu đời; nghĩa là sau khi chặt cây đốt cỏ dọn đất vào mùa nắng họ gieo thẳng hạt giống trên ruộng đầm lầy đã khai phá sau vài trận mưa đầu mùa rồi chờ ngày lúa chín thu hoạch, như trồng lúa nổi ở ĐBSCL. Qua ít năm khai thác, do thói quen họ di chuyển tìm nơi khác có đất tốt hơn để trồng trọt, như từng thấy bộ lạc Bambara ở miền Tây Phi Châu (Guinea, Guinea-Bissau, Senegal...) hiện nay còn thực hành lề lối trồng lúa này đối với loại ruộng ngập mặn ven biển và sông rạch. Tuy nhiên, sau nhiều năm kinh nghiệm trị thủy, hiểu biết thổ ngơi, cư dân Việt biết đắp bờ đem nước vào ruộng từ sông rạch hoặc nước trời, lợi dụng thủy triều lên xuống để có phù sa hàng năm và chăm sóc vụ mùa chu đáo hơn; nên không còn thay đổi đất trồng nữa.

  Loại ruộng lúa: Thời bấy giờ, ruộng lúa có thể phân biệt làm 3 hạng với lề lối cách tác thích ứng riêng:

(1)   Ruộng rẫy trên gò đất cao của miền trung du Bắc Việt: nông dân dùng lề lối canh tác “đao canh hỏa chủng”, nghĩa là dung dao chặt cây, phơi khô rồi dung lửa đốt trước mùa mưa, sau đó tỉa hạt;

(2)   Ruộng trũng ở quanh các đầm hồ cũng có mức phì nhiêu khá tốt. Cư dân dung phương pháp “thủy nậu  để cấy lúa, nghĩa là giẫm đạp cỏ xuống bùn rồi cấy lúa; và

(3)   Ruộng phù sa ở ven sông rạch, chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả: Hạng ruộng này có đất phì nhiêu tốt nhứt, nhờ nước ngập hàng năm đem phù sa vào ruộng. Thường những sông này có “bờ đê” ở hai bên để tránh lũ lụt.

Đến hậu kỳ thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Gò Mun - Đông Sơn, nghề trồng lúa nước (nếp) trở nên thịnh hành và đạt nhiều tiến bộ kỹ thuật. Họ đã biết sử dụng cày bừa để xới đất, đánh bùn làm cỏ, dùng phương pháp cấy lúa để chủ động trồng trọt trong điều kiện nước ngập và khí hậu gió mùa. Công việc cấy lúa được nói đến trong Lĩnh Nam Chích Quái nêu trên: “Lạc Long Quân dạy dân cày cấy...”, “... lấy dao cày, lấy nước cấy”.

Phương pháp cấy lúa có khả năng giúp cho cây lúa có tỉ lệ sinh tồn cao hơn gieo thẳng khi mực nước lên xuống, như từng thấy kinh nghiệm trồng lúa sạ (lúa nổi) và lúa cấy một hoặc hai lần ở ĐBSCL. Vào thời kỳ này, những kinh nghiệm sống đã giúp cho nông dân hoàn chỉnh phương pháp canh tác để sản xuất lương thực nhiều hơn. Từ cách gieo sạ thẳng nông dân đã chuyển qua cách làm nương mạ vào đầu mùa mưa để cấy vào ruộng ngập nước, chủ yếu giúp cây lúa cao, lớn có khả năng chịu đựng mực nước ruộng dâng lên trong mùa mưa. Do đó, người Việt có thể biết cấy lúa vào thời mới dựng nước, cách nay ít nhất 3 000 năm.

Ngành trồng lúa nước đã trở nên chủ lực của nền nông nghiệp bản xứ. Sử Trung Quốc ghi rằng: “Ngày xưa, Giao Chỉ khi chưa chia thành quận, huyện, ruộng đất có ruộng lạc, ruộng đó theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng mà ăn nên gọi là dân lạc” (Hình 10). Như vậy, cư dân đã biết làm thủy lợi trên ruộng lúa cố định, có bờ đê ngăn giữ nước. Chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh có thể tượng trưng cho công tác đắp đê đập để ngăn ngừa lũ lụt ở Miền Bắc. An Nam chí lược có ghi chép cư dân Văn Lang “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”. Hoặc vết tích một đoạn đê cổ của thành Cổ Loa trước thời Bắc thuộc cho người ta nghĩ đến người dân tại một số vùng đã biết đắp bờ giữ nước, tháo nước bảo vệ cây lúa để tăng sản xuất. Nhà khảo cổ học Maspéro (1918) nghiên cứu tài liệu Trung Quốc đã xác nhận dân tộc Lạc Việt có một xã hội phát triển khá cao, họ biết làm lúa nước, làm thủy lợi, làm lúa hai vụ, biết cấy lúa... trước khi Hán tộc xâm lăng.

● Vụ lúa: Ngành trồng lúa đã trở nên thâm canh, cư dân biết làm 2 vụ mỗi năm. Sách Di vật chí cho biết thêm “Lúa ở Giao Chỉ mỗi năm trồng 2 lần, về mùa hạ và mùa đông” (Hình 10). Do đó, vào hậu kỳ thời đại Hùng Vương cư dân Việt đã biết trồng lúa 2 vụ mỗi năm khi họ có những giống lúa sớm (90-100 ngày) tương tự như giống “lúa Chiêm” để có thể trồng vụ Đông-xuân, vì các giống lúa này không có hoặc ít chịu ảnh hưởng quang cảm (số giờ ánh sáng trong ngày) nên có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm. Đến thế kỷ II sau CN, vụ Đông-xuân được gọi là vụ Chiêm vì giống lúa Chiêm được mang từ xứ Chiêm Thành để trồng ở Miền Bắc và sau đó được cư dân ưa chuộng trồng đại trà nhiều năm.

 Về nguồn gốc, giống lúa này có thể được người Chiêm du nhập từ Ấn Độ, nơi có hệ thống thủy lợi và nông dân làm 2 vụ lúa mỗi năm từ lâu. Nước Chiêm Thành chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa và tôn giáo Ấn Độ.

Vụ Chiêm em cấy lúa Di,

vụ Mùa lúa Dé, sớm thì Ba giăng.

Hình 10: Bút tích ruộng lạc và hai vụ lúa ở Giao Chỉ

            (ảnh: N. K. Quỳnh)

Lúa Di, lúa Ba giăng (trăng) đều là giống lúa sớm, có ít hoặc không quang cảm được trồng trong vụ Chiêm ở Miền Bắc. Ở Miền Trung và Miền Nam, nông dân cũng canh tác 2 vụ mỗi năm với giống lúa sớm cho mùa đầu nhưng không gọi là vụ Chiêm. Vụ Chiêm được trồng từ tháng 11 đến tháng giêng, gặt tháng 5; trong khi vụ Mùa trồng tháng 6 gặt tháng 11. Ông Maspéro (1918) và Bùi Huy Đáp (1977 và 1980) đã ghi nhận dân Việt biết trồng lúa hai vụ cách nay hơn 2 000 năm lịch sử ở châu thổ sông Hồng.

● Các giống lúa: Trong thời đại Hùng Vương có ít nhứt 3 loại lúa trồng ở 3 vùng sinh thái khác nhau: lúa rẫy trên đất cao, lúa thung lũng dưới chân đồi núi và lúa đất phù sa ở các đồng bằng. Mỗi loại lúa này có 2 thứ lúa tẻ còn ít phổ biến và lúa nếp rất phổ thông của cư dân từ vùng đất cao xuống nơi đất thấp. Theo Lĩnh Nam Chích Quái, vào thời Hùng Vương, “Đất sản xuất nhiều gạo nếp”. Mỗi loại lúa có nhiều giống khác nhau. Ngoài ra, vụ Chiêm và vụ Mùa mỗi vụ có nhiều giống lúa. Do đó, vào cuối thời đại Hùng Vương, Viêt Nam có trên trăm giống lúa được nông dân trồng. Ở di chỉ văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học tìm được nhiều hạt gạo cháy có hình dáng khác nhau cách nay khoảng 3 000 năm: hình bầu, tròn, dài, thon, thon dài, bầu dài, tròn ngắn... (Đào Thế Tuấn, 1988); cho biết nơi đây cư dân đã trồng nhiều giống lúa khác nhau.

● Công cụ sản xuất (Hình 2 và 3, xem thêm mục nền văn hóa Đông Sơn): Đến đầu thiên kỷ II trước CN, công cụ đá, chủ yếu rìu đá vẫn còn phổ biến rộng rãi trong nền văn hóa Phùng Nguyên dù kỹ thuật luyện kim đã bắt đầu. Đến giai đoạn Đồng Đậu và Gò Mun, các dụng cụ bằng đá được thay thế dần bởi dụng cụ đồng, thau, rồi công cụ sắt xuất hiện ở hậu kỳ thời đại Hùng Vương. Các chiếc rìu đá, rìu đồng được cư dân sử dụng để chặt cây, làm đất trồng trọt, mặc dù các nơi khác đã dùng cuốc đá từ lâu như cư dân cổ ở miền Đông Nam Bộ.

Càng về sau trong hậu kỳ thời đại Hùng Vương, các nhà khảo cổ tìm thấy lưỡi cày đồng (Hình 2) cuốc, mai thuổng bằng sắt với số lượng lớn, trong khi các công cụ sản xuất bằng đá giảm dần. Các loại cày đồng với lưỡi hình tim và hình cánh bướm thông dụng hơn hết để cày ruộng. Các liềm đồng cũng được tìm thấy với số lượng khá lớn dùng để gặt lúa. Ngoài ra, do ngành nông nghiệp sản xuất dồi dào nên các nhà khảo cổ học mới phát hiện những vò, bình, nồi đủ loại ở Thiệu Dương, Đông Sơn; bình, âu, lọ ở Việt Khê, Đào Thịnh; những thạp đồng ở ĐàoThịnh, Đông Sơn, Việt Khê; những thố đồng ở Việt Khê, Thiệu Dương… (Văn Tân và những cộng sự viên, 2007). 

(ii) Nghề chăn nuôi: Cư dân Việt cổ đã biết đến nghề chăn nuôi khá lâu. Trong di chỉ Đa Bút (khoảng 6 000-5 000 năm), Theo Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (2000), cư dân Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi vì trong các di chỉ và mộ táng có những xương răng chó, lợn, trâu, bò... Tượng gà bằng đất nung được phát hiện ở di chỉ Đồng Đậu (Lê Thái Dũng, 2017). Các nhà khảo cổ tìm thấy xương trâu, lợn và suy đoán cư dân biết thuần dưỡng động vật (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Điều này chứng minh rằng người Việt biết dùng sức kéo trâu bò để làm ruộng, biết cày cấy trước thời Bắc thuộc chứ không phải như đã ghi trong sử sách Trung Quốc (Hậu Hán Thư và Thủy Kinh Chú trong Bùi Thiết, 2000) cũng như các sách sử Việt viết theo tài liệu Trung Hoa: Thái thú Nhậm Diên dạy dân Cửu Chân cày bừa (có thể ở nơi chuyên làm nương rẫy). Có thể người Trung Hoa đem các chiếc cày, cuốc bằng sắt vào xứ Giao Chỉ và Cửu Chân vào buổi đầu Bắc thuộc (Phạm Văn Sơn, 1960) giúp cho việc làm đất ruộng mau lẹ và cày sâu hơn để tăng sản xuất. Tuy nhiên, dân tộc Việt đã biết sử dụng kim loại sắt vào buổi đầu lập quốc, với câu chuyện cổ tích Thánh Gióng vào đời vua Hùng Vương thứ ba, khoảng 700-600 năm trước CN. 

(iii) Nghề đánh cá trong các sông rạch, ven biển đã xuất hiện lâu đời từ nền văn hóa Đa Bút-Quỳnh Văn đến Phùng Nguyên và các nền văn hóa tiếp theo. Các nhà khảo cổ học tìm thấy vỏ sò ốc, xương cá, răng cá, chì lưới, lưỡi câu, mãnh gốm có hình cá... trong nhiều di chỉ khảo cổ khai quật. Trong thời hậu kỳ Hùng Vương, đặc biệt trong nền văn hóa Đông Sơn, nghề đánh cá tiến triển mạnh hơn, cư dân biết đóng những chiếc ghe, thuyền lớn để đi trên sông, biển, được ghi khắc trên hoa văn trống đồng Đông Sơn (Hình 11).

Hình 11: Thuyền cổ khắc trên trống đồng

(iv) Ngoài ra, cư dân còn trồng một số hoa màu khác như trầu cau, dưa hấu (sử tích), trồng dâu nuôi tầm, khoai, đậu,..., kết hợp với nghề chăn nuôi, đánh cá, săn bắn, nghề gốm, nghề luyện kim, thủ công nghiệp, thương nghiệp khác... trong các làng xóm năng động.

Tóm lại. ngành nông nghiệp lúa nước tiến bộ nhanh vào thời đại Hùng Vương, mặc dù đòi hỏi nhiều sức lao động và óc sáng tạo so với việc làm nương rẫy. Đó là nhờ cư dân Việt sớm biết chăn nuôi, sử dụng sức kéo trâu bò từ nền văn hóa Đa Bút, Phùng Nguyên, có kinh nghiệm về thủy triều lên xuống, lúa bậc thang, về khí hậu hai mùa mưa nắng mỗi năm, và đặc biệt xuất hiện các công cụ sản xuất bằng kim loại. 

Trong giai đoạn hậu kỳ Đồng Thau đến sơ kỳ thời đại Sắt, dân Việt cổ đã nắm vững một số phương pháp canh tác tiến bộ của ngành làm ruộng nước và nương rẫy, nhằm khai thác đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả ở Bắc Việt và Trung Việt. Đồng thời cư dân ở miền Đông Nam Bộ và và ĐBSCL cũng đã trồng lúa rẫy trên đất cao và lúa nước ở đất thấp để sinh sống với nền nông nghiệp dùng cuốc cách nay ít nhứt 4 000 năm. Hoạt động săn bắn và hái lượm vẫn còn hiện diện, nhưng đã trở nên thứ yếu, chỉ còn thấy ở các vùng đồi núi, rừng sâu.

Một cách tổng thể, vào thời đại Hùng Vương ngành sản xuất lúa gạo nước Văn Lang có 5 hiện tượng biến đổi lớn xảy ra, dẫn đến nền văn minh lúa nước sung túc, rỡ ràng một thời, như sau:

1)      Nền nông nghiệp dùng rìu trong thời tiền sử được chuyển qua nông nghiệp dùng cuốc cày;

2)      Công cụ sản xuất bằng đồ đá mài chuyển qua công cụ sản xuất bằng đồng, thau và sắt;

3)      Từ nghề làm nương rẫy du canh chuyển qua nghề trồng lúa nước cố định;

4)      Từ trồng lúa gieo thẳng trong thời tiền sử và sơ sử chuyển qua cấy lúa trong thời đại Hùng Vương. (Ngày nay ngược lại, từ cấy lúa chuyển qua gieo thẳng);

5)      Cư dân di chuyển từ những vùng đất cao thưa thớt xuống sống tập trung ở làng ấp trên các gò đất cao, thung lũng và nhứt là đồng bằng ven sông rạch do hiện tượng biển thoái cuối cùng; và  

6)      Người Việt cổ nỗ lực khai thác các đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Cả… khi dân số thêm đông. 

3.   THỬ ƯỚC TÍNH NĂNG SUẤT VÀ DIỆN TÍCH TRỒNG LÚA THỜI CẬN CÔNG NGUYÊN

Đây chỉ là những ước tính sơ khởi để có được khái niệm về tình trạng trồng lúa trên đất Lạc Việt vào khoảng một vài thế kỷ trước và sau CN, dựa vào các con số ghi nhận trong sử sách và kiến thức trồng lúa hiện nay. Dĩ nhiên, các số liệu ước tính sau đây cần được điều chỉnh lại với các thông tin phát hiện trong tương lai để được chính xác hơn.

Năng suất: Theo sách Đông Quan Hán Ký (trong Bùi Thiết, 2000), khoảng thế kỷ thứ II tr CN, ruộng ở quận Cửu Chân (vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh) có 156 gốc lúa cho 768 bông. Từ đó, chúng ta có thể suy tính năng suất khoảng 465kg/ha, với giả thuyết: (i) khoảng cách trồng ước độ 40 x 40cm, (ii) mỗi bông lúa trung bình có 60 hạt và (iii) trọng lượng 1 000 hạt là 25gram[7]; cho nên năng suất lúa quận Cửu Chân khoảng 465kg/ha. Nhưng đất Cửu Chân xấu hơn đồng bằng sông Hồng, nên trong điều kiện bình thường, lúa Giao Chỉ vào buổi đầu Bắc thuộc có năng suất bình quân ước lượng khoảng 0,54[8] t/ha hoặc hơn (từ 500 đến 800kg/ha)?

Diện tích: Theo sách Quảng Đông Tân Ngữ (trong Bùi Thiết, 2000), Giao Chỉ có dân số 746 237 người, vào đời nhà Hán mỗi năm phải nộp thuế đến 13 600 000 hộc lúa hay tương đương 136 000 tấn lúa (1 hộc lúa = 10 đấu, 1 đấu gần bằng 1kg). Từ đó, có thể suy tính như sau: Vì chế độ cai trị hà khắc, bóc lột của người Hán, thuế khóa rất nặng độ 60 - 70% số lượng sản xuất của dân Giao Chỉ, với 2 vụ lúa mỗi năm: vụ tháng 5 và vụ tháng 10 âm lịch. Cho nên, sản lượng thu hoạch của họ có thể ước tính độ 19 429 000 hộc lúa hay độ 194 290 000kg lúa. Nếu năng suất bình quân độ 540kg/ha, có thể suy ra dân Giao Chỉ lúc bấy giờ trồng 359 800ha mỗi năm (2 vụ) hay diện tích đất ruộng khoảng 179 900ha hoặc ít hơn (tùy theo năng suất)? Ngoài ra, còn nhiều cư dân trồng lúa rẫy trên gò cao, sườn đồi núi ước lượng khoảng 20%[9] của diện tích trồng lúa nước hay 35 980ha. Cho nên, tổng diện tích trồng lúa của Giao Chỉ khoảng 215 900 ha vào đầu CN. Lúc bấy giờ, Giao Chỉ có 92 440 hộ, nên mỗi hộ có khoảng 2,3 ha. 

Tóm lại, sau Cách Mạng Đá Mới độ 6 000 năm, thời đại Kim Khí ló dạng, mang luồng gió mới và năng lượng đến nhân loại, nhứt là nền nông nghiệp sơ khai có thêm sức sống và sáng tạo mới để nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa có thêm các công cụ sản xuất tinh xảo và hữu hiệu giúp tăng sản xuất lương thực; góp phần tạo nền văn hóa Đông Sơn danh tiếng thế giới với nền văn minh lúa nước rực rỡ trong thời đại Hùng Vương. Nhưng tiếc thay góc trời phương Nam vừa ấm áp chan hòa ánh nắng ban mai thì tham vọng Bắc phương luôn rình rập kéo đến với lòng tham vô độ, đã làm cho đời sống của hơn một triệu người Việt cổ chìm đắm trong khốn khổ cả ngàn năm!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Bùi Huy Đáp. 1977. Lúa Việt Nam trong vùng lúa Nam và Đông Nam Châu Á. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, Tr. 248.

2.      Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.

3.      Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.

4.      Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.

5.      Lê Thái Dũng. 2017. Tìm hiểu văn hóa Thời Đại Hùng Vương. NXB Hồng Đức, Hà Nội, 255 tr.

6.      Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.

7.      Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.

8.      Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.

9.      Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.

10.  Nguyễn Khắc Quỳnh. 2002. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.

11.  Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.

12.  Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử - văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội. NXB Văn Học, 275 trang.

13.  Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.

14.  Viện Khảo Cổ Học. 2002. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 519 tr.

15.  Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.

CHƯƠNG 9

TRỒNG LÚA CỔ TRUYỀN

THỜI BẮC THUỘC

(179 tr CN - 938 sau CN)

 Vào giữa giai đoạn huy hoàng của nền văn hóa Đông Sơn, triều đại Hùng Vương chấm dứt, nước Âu Lạc ra đời chẳng bao lâu bị phương Bắc xâm lược và đô hộ cả ngàn năm, khiến cho người dân bị bóc lột khốn khó, sống cảnh màn trời chiếu đất và chịu đựng nhiều đau khổ vật chất lẫn tinh thần không sao kể xiết! Cùng lúc nỗi thống khổ dai dẳng như thế, kẻ xâm lược mang đến nhiều thứ văn hóa phong tục xa lạ, nhằm mục đích sớm đồng hóa Việt tộc bé nhỏ này. Từ đó, hai nguồn văn hóa giao tiếp nhau bên cạnh các ảnh hưởng tiêu cực, đã làm cho người dân bản xứ âm thầm chấp nhận, tự diễn tiến thay đổi và hòa hợp phần nào để giữ lại bản sắc dân tộc cho đến ngày nay. Những đoàn di dân bất tận, hàng lớp người cai trị đã ngang nhiên đến chung sống với dân bản xứ và làm chủ nhân ông tại xứ sở người. Họ mang theo nhiều thứ hành trang, của cải, kiến thức và chuyên môn đủ ngành nghề để áp đặt hay truyền bá tư tưởng, phong tục, tôn giáo đến vùng đất mới phương Nam chỉ để hoàn tất mục tiêu đồng hóa dân Giao Chỉ, như họ đã từng thực hiện thành công với các nhóm khác của Bách Việt trong hàng ngàn năm qua. Nhưng cuối cùng họ thất bại vì tinh thần bất khuất cao độ của dân tộc và đầu óc xem nhẹ người Hán của dân Việt Nam.

Riêng ngành nông nghiệp khó tránh sự va chạm đó, cũng tiếp cận với nông nghiệp kẻ mạnh và bị ảnh hưởng không ít qua thời gian cai trị lâu dài, đặc biệt trong các khâu kỹ thuật trồng trọt, thu hoạch và hậu thu hoạch của một số màu gồm lúa gạo, chưa kể đến ngành chăn nuôi và những nghề khác. Tuy nhiên, trong nền văn hóa Đông Sơn, nền nông nghiệp lúa nước của người Việt cổ đã đạt một số tiến bộ nhứt định, trong đó có một số kỹ thuật canh tác vượt hẳn Trung Quốc như trồng lúa thâm canh 2 vụ, cấy lúa và kỹ thuật đánh bùn ruộng nước trước khi canh tác, bên cạnh hình thành ý thức dân tộc vững chắc và tinh thần bất khuất cao độ của người dân. 

1.   SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH BẮC THUỘC LẦN THỨ NHỨT

Theo lịch sử Việt Nam và Trung hoa, một cách tóm lược địa bàn của người Việt cổ sống cách nay khoảng 5 000 năm rất rộng lớn: Phía bắc giáp hồ Động Đình, phía tây giáp nước Ba Thục (Tứ Xuyên), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) và phía đông giáp biển Nam Hải. Cái mốc thời gian của nước Xích Quỹ xuất hiện từ vua Hùng thứ nhứt cách nay 2 879 năm tr CN đến vua cuối Hùng Vương 18 cách nay 258 năm tr CN, mặc dù khoảng thời gian vô lý, nhưng rất có ý nghĩa giúp hậu thế biết cội nguồn tổ tiên mình, một nhóm người trong Bách Việt[10] không nhỏ chuyên sống với nghề nông nghiệp, có mặt ở bờ nam sông Dương Tử vùng Động Đình Hồ và Phiên Dương, bờ bắc có dân Miêu, dân Man, trong khi người Hán sống ở lưu vực sông Hoàng Hà.

Theo sử liệu, các nhóm thuộc Bách Việt luôn bị đe dọa xâm lăng qui mô từ nhà Tần đến nhà Hán, cuối cùng chỉ Lạc Việt và Tây Âu tồn tại, còn các nước Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt lần lượt bị đồng hóa (Phạm Văn Sơn, 1960). Cần nhắc lại, đến khoảng giữa nền văn hóa Đông Sơn, thời đại Hùng Vương bắt đầu suy yếu, lại có cuộc xung đột giữa người Lạc Việt (nước Văn Lang) và nhà Thục, khiến cho Hùng Vương phải nhường ngôi cho Thục Phán, thủ lãnh người Tây Âu ở phía bắc Văn Lang, có địa bàn là Cao Bằng và phía nam Quảng Tây. Từ đó nước Âu Lạc ra đời, như tiếp nối nước Văn Lang phát triển và bành trướng lãnh thổ, mở rộng phạm vi kiểm soát nhà nước của người Lạc Việt và Tây Âu, từ vùng phía nam Quảng Tây và Quảng Đông đến Quảng Bình, Quảng Trị (Việt Thường) ngày nay (Hình 2).

Cuối cùng, cuộc chiến xâm lược Bách Việt của nhà Tần kéo dài 10 năm (218 - 208 tr CN), nhưng trên địa bàn Lạc Việt và Tây Âu kéo dài 5-6 năm (214 - 208 tr CN), gây thiệt hại rất lớn cho kẻ xâm lăng vì người địa phương dùng chiến thuật du kích - lợi dụng địa thế núi rừng hiểm trở, ban ngày trốn trên núi, ban đêm tấn công giết giặc và cướp lương thực cho nên nhà Tần phải tạm thời lui binh. Tuy bị thất bại ở Âu Lạc, nhưng quân Tần chiếm được phần đất rộng lớn của người Việt (Bách Việt), lập ra 4 quận để cai trị và thực hiện mưu đồ đồng hóa: Mân Trung (Chiếc Giang, Phúc Kiến), Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (bắc Quảng Tây), và Tượng (tây Quảng Tây và nam Quế Châu).

Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, các vùng đất của 4 quận cai trị bị lung lay. Ở quận Hải Nam, quan úy quận (chức võ quan) là Nhâm Ngao và quan huyện Long Xuyên là Triệu Đà dự tính nổi loạn tuyên bố độc lập; nhưng sau đó Nhâm Ngao bệnh mất, Triệu Đà, người Hán quê ở Hà Bắc cai trị Nam Hải, tiến đánh chiếm Quế Lâm và Tượng quận thành lập nước Nam Việt và xưng đế Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà nhiều lần đem quân chinh phục Âu Lạc, nhưng đều thất bại vì xứ này có thành Cổ Loa kiên cố, nhứt là “nỏ thần” mỗi lần bắn 10 phát tên, mỗi phát tên giết 300 người (Giao châu ngoại vực ký). Sau đó, nhờ sử dụng quỷ kế “Nam nhân” trong truyền thuyết “Trọng Thủy và Mỵ Châu” mà Triệu Đà thắng Âu  Lạc năm 179 tr CN. Từ đó, người Việt rơi vào thảm họa lớn, bị Bắc phương đô hộ cả ngàn năm. Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc vào nước Nam Việt và phân chia làm hai quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh-Nghệ-Tỉnh) (Bùi Thiết, 2000) (Hình 1).

Hình 1: Nước Nam Việt (210-111 tr CN) (Lê Thành Khôi, 2014)

Năm 134 tr CN, lợi dụng mâu thuẩn giữa Mân Việt và Nam Việt, nhà Hán (thay thế nhà Tần cai trị Trung Hoa từ 202 tr CN) mua chuộc, đe dọa, dụ dỗ và cuối cùng đem quân đánh chiếm Nam Việt năm 111 tr CN. Sau đó, nhà Hán chia Nam Việt ra làm 7 quận gọi là Giao Châu do Thái thú đứng đầu, gồm có Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố (Quảng Đông và Quảng Tây), Giao Chỉ (Bắc Bộ), Cửu Chân (Thanh hóa - Nghệ An) và Nhật Nam (từ đèo Ngang trở vào đến Quảng Nam-Đà Nẵng). Theo sách Tiền Hán Thư, vào đầu thế kỷ thứ I, ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam của Giao Châu (Hình 2) có dân số 981 735 người, được ghi nhận như sau (Lê Thành Khôi, 2014 và Bùi Thiết, 2000):

 - Quận Giao chỉ có 92 440 hộ với 746 237 khẩu

 - Quận Cửu Chân có 35 743 hộ với 166 013 khẩu

 - Quận Nhật Nam có 15 460 hộ với 69 485 khẩu

Tổng cộng có 143 643 hộ với 981 735 khẩu

Với tinh thần bất khuất và lòng yêu nước vô biên, trong suốt thời kỳ Bắc phương đô hộ dân Việt kiên trì đấu tranh liên tục, nhiều cuộc nổi dậy giành độc lập dù không thành công mỹ mãn, nhưng đã nêu lên tinh thần bất khuất muôn đời của dân tộc, như cuộc khởi nghĩa đầu tiên của Tây Vu Vương chống nhà Triệu, khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43 tr CN), cuộc nổi dậy Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí-Triệu Quang Phục-Lý Phật Tử (542-602: nhà nước Vạn Xuân), khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (783-791), khởi nghĩa họ Khúc, họ Dương và trận chiến Bạch Đằng giang của Ngô Quyền (915-938) kết thúc cuộc xâm lược hơn ngàn năm và mở ra kỷ nguyên mới Độc Lập lâu dài.

Sự thành công vẻ vang này chủ yếu do tinh thần dân tộc cao độ và ý thức quốc gia vững chắc, được ung đúc qua hàng ngàn năm lịch sử và văn hóa từ thời tiền sử đến nền văn hóa Đông Sơn, bên cạnh nội tình Trung Quốc thường bị phân hóa, bất ổn cùng với chánh sách cai trị tàn bạo bất nhân, đã thúc đẩy các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt. 

2.   HẬU QUẢ CỦA THỜI KỲ BẮC THUỘC HÀ KHẮC

Trước hết, chánh sách đồng hóa của Trung Quốc được thực hiện âm thầm liên tục với các đợt di cư từ nhóm người tù tội, kẻ bất lương đến các gia đình giàu có hay thành phần quý tộc để “sinh cơ lập nghiệp”, lấn chiếm đất đai và tài nguyên của đất nước, trong số này có Sĩ Nhiếp, Tích Quang, Nhâm Diên. Nhờ đó, chính quyền đô hộ có thêm vây cánh cai trị ngày càng hà khắc, bóc lột, đàn áp triệt để với mưu đồ đồng hóa người Việt một cách êm ái. Những di dân Hán ngày càng nhiều, nhứt là khi họ sống lẫn lộn với người Việt nên dần dần sinh hoạt của hai dân tộc hòa hợp và chuyển hóa lẫn nhau. Hiện tượng này được thấy rõ ràng trong nhiều mộ táng, ở một số đồ dùng như bình, chén…  (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Sự giao thoa đó ảnh hưởng rất nhiều đến mọi sinh hoạt và đời sống người Việt, gồm cả lãnh vực nông nghiệp lúa sau này.

Trong thời kỳ Bắc thuộc từ 179 tr CN đến đầu CN khoảng 200 năm, tình trạng kinh tế, văn hóa và xã hội của nước Âu Lạc ngày xưa không thay đổi nhiều, vẫn cơ cấu văn minh Đông Sơn với nông nghiệp lúa nước trong sơ kỳ thời đại Sắt, cho thấy tinh thần quật khởi của dân ta rất kiên cường và sức sống của nền văn minh Việt cổ mãnh liệt; đó là yếu tố chủ lực giúp dân tộc theo đuổi trường kỳ kháng chiến để không bị mất gốc cho đến khi giành lại độc lập tự chủ. Nhưng sau khi Mã Viện dẹp yên phong trào nổi dậy của hai Bà Trưng (40-43 sau CN), chế độ cai trị trở nên khắc khe hơn. Xa triều đình trung ương, các Thái thú Giao Châu cai trị theo ý mình. Họ là những kẻ tàn bạo, lòng tham vô đáy, người dân bị bắt khai thác mỏ vàng mỏ bạc trong vùng núi rừng nước độc, bắt dân mò ngọc trai dưới biển sâu…, ngoài gánh vác sưu cao thuế nặng.

Hình 2: Bản đồ nhà Hán xâm lăng 111 tr CN-34 sCN   

Bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực của thời Bắc Thuộc từ chính sách Hán hóa ngu dân đến chế độ cai trị hà khắc, chiếm hữu tài nguyên bản địa, người Việt đã tiếp cận nền văn minh lâu đời và học hỏi một số kỹ thuật tiến bộ của người Hán. Cho nên, sản xuất nông nghiệp, chủ yếu lúa gạo gia tăng phần nào khi sử dụng lưỡi cày sắt và một số kỹ thuật canh tác khác, nhưng rồi bị ngưng trệ kéo dài do bản chất bảo thủ của nền văn hóa Nho giáo thiếu tinh thần khoa học. Dù vậy, nhờ sự phổ biến chiếc cày bằng sắt vào thế kỷ I tr CN và áp lực dân số gia tăng, người Giao Chỉ cố gắng chinh phục khai khẩn các vùng đất mới ở châu thổ sông Hồng và trên các bãi bồi (Lê Thành Khôi, 2014).

Cũng nên nhắc lại vào lúc Hán Cao Tổ qua đời (185 tr CN), nước Tàu gặp cuộc khủng hoảng chính trị, Lã Hậu cướp ngôi Huệ Đế. Vì lo ngại sức mạnh của nước Nam Việt ở phương nam, Bà Lã Hậu bãi bỏ thông sứ với Vũ Vương Triệu Đà và hạ lệnh cấm vận, không cho người Hán buôn bán đồ vàng, đồ sắt, vũ khí, ngựa, trâu bò và các dụng cụ canh nông với dân chúng Nam Việt (Phạm Văn Sơn, 1960 và Tạ Đức, 2013). Đây là cuộc cấm vận đầu tiên trong lịch sử và sự kiện này cho thấy nền nông nghiệp xứ ta còn kém hơn Tàu ít nhiều, đặc biệt chưa biết sử dụng các nông cụ sản xuất bằng sắt. Từ đó, có thể nói trong thời Bắc thuộc, trình độ trồng lúa của người Việt tiến bộ dần để rồi sau một thời gian bắt kịp người Hán. Hiện nay, ở vùng quê của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, người ta vẫn còn thấy ở khu bảo tàng nhiều nông cụ mà nhà nông Việt Nam đã từng dùng đến ngày xưa như: cày, cuốc, bừa, trục, vòng hái, xa quạt lúa, cối xay, cối giã gạo, nia, thúng, sàng, v.v.

Trong gần 300 năm đầu của thời kỳ Bắc thuộc, tức từ năm 179 tr CN đến thế kỷ I sau CN, nền văn minh sớm và kỹ thuật của Trung Quốc phần nào giúp người địa phương mở mang trí tuệ, văn hóa sẵn có được đa dạng, cũng như làm cho nền kinh tế bản xứ bành trướng hơn để phục vụ chế độ bóc lột và mưu mô đồng hóa của người thống trị. Từ năm 1 đến năm 25 sau CN, Thái thú Giao Chỉ Tích Quang truyền bá văn minh Trung Quốc, mở mang trường học, bắt buộc người dân theo nghi thức hôn nhân của họ (đặc biệt mai mối), đi giày, đội mũ vải… Ở Cửu Chân, người dân đốt rẫy làm mùa, Nhâm Diên dạy dân sử dụng cày sắt, súc vật kéo, nghi thức cưới hỏi… (Lê Thành Khôi, 2014, Phạm Văn Sơn, 1960). Nông dân cũng biết thêm cách sử dụng phân bắc của Tàu để bón ruộng (Bùi Huy Đáp, 1999).

Về mặt kỹ thuật, căn cứ vào những thông tin từ Trung Quốc, người Hán đã biết canh tác ruộng nước, sử dụng cuốc cày, và trâu kéo khoảng 3 500-3 000 năm trước, biết tưới tiêu khoảng 2 600-2 500 năm trước. Tuy nhiên, phương pháp cấy lúa được biết đến hơi muộn ở Trung Quốc vào năm 146 -167 sau CN (Chang, 1985), có thể do du nhập từ Việt Nam thời đô hộ. Năng suất lúa của xứ này đã tăng gia chậm chạp từ 400 kg/ha (khoảng 206 tr CN - 206 năm sau  CN), lên 740kg/ha trong 265 - 317 sau CN, 850kg/ha trong 581 - 906 sau CN, và 1 040kg/ha trong 960 - 1 279 sau CN (Xem thêm Chương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa). Nền nông nghiệp Trung Quốc đã tiến bộ đôi chút trước chúng ta, đặc biệt việc sử dụng trâu kéo trước 1 000 năm (?), sử dụng lưỡi cày bằng sắt (Bảng 1). 

Tóm lại, trong hơn một ngàn năm đô hộ Bắc Phương, ngoài văn hóa Nho giáo thấm nhuần vào tận cội rễ dân tộc, từ vua chúa cho đến hàng thứ dân, nền nông nghiệp nước ta, chủ yếu ngành lúa gạo không nhiều thì ít đã mang màu sắc của xứ thống trị. Trong thời đại Hùng Vương, người Lạc Việt đã biết trồng lúa nước và lúa rẫy khá mạnh từ vùng đồng bằng đến miền đồi núi. Nền nông nghiệp lúa nước đã tiến bộ với cấy lúa, canh tác 2 vụ, dùng sức kéo trâu bò, sức lao động con người, sử dụng cuốc cày bằng đá nhọn, bằng đồng, đắp bờ giữ nước, dẫn nước... gần như đồng thời với tiến bộ phát triển canh tác lúa của người Hán, như được trình bày ở Bảng 1. Ngoài ra, người Việt cổ có nhiều kinh nghiệm đáng chú ý trong ngành trồng lúa, như bắt đầu trồng lúa tẻ (ngoài lúa nếp), trồng lúa nước nhiều hơn lúa nương, chọn mùa gieo hạt, biết đánh bùn ruộng nước trước khi cấy, biết chăm bón ruộng lúa, v.v. Thật vậy, nhà khảo cổ học H. Maspéro (1918) đã xác nhận nước Văn Lang đã có nền văn hóa khá cao, dân tộc biết nghề nông, trồng lúa hai vụ, cấy lúa, biết đúc đồng, làm thủy lợi, dệt vải, ăn trầu, nhuộm răng đen... trước khi người Hán xâm lược. Sự giao thoa mọi mặt xã hội của cộng đồng Hán-Việt đã tạo cơ hội cho đóng góp các kiến thức và kỹ thuật của người thống trị, từ đó nông nghiệp lúa bản xứ trở nên phong phú và tiến bộ hơn.

Bảng 1 cho biết các phương pháp trồng lúa ở Trung Quốc từ 1 500 tr CN đến 1 127 sau CN (Chang, 1985) và Việt Nam cùng thời gian không khác biệt nhiều lắm, từ sử dụng trâu bò đến dùng cuốc cày đồng, khống chế lũ, tưới nước và sửa soạn đất trồng lúa. 

Bảng 1: So sánh thời kỳ phát triển trồng lúa ở Trung Quốc và Việt Nam từ 1 500 tr CN đến 1 127 sau CN 

 

Năm

 

 

Trung Quốc (*)

 

Việt Nam

 

Tham chiếu

Việt Nam

1 500-1 100 tr  CN

Dùng trâu để kéo

Đã sử dụng trâu trong văn hóa Đa Bút, Phùng Nguyên, Gò Mun và Đồng Đậu

- Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

1 222 tr CN

Canh tác ruộng nước đã được thiết lập tốt

Đã sản xuất nhiều lúa. Tìm thấy nhiều hạt gạo cháy ở di chỉ Đồng Đậu, khoảng 1 100 tr CN

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

1 122 tr CN

Đã bắt đầu sử dụng cuốc

Nhiều di vật cuốc đồng và sắt tìm thấy trong văn hóa Phùng Nguyên, Gò Mun và Đồng Đậu

- Viện Khảo Cổ Học, 1999 & 2002

700 tr CN

Đã bắt đầu khống chế lũ

Đắp đê đập. Đoạn đê còn sót lại của thành Cổ Loa (ít nhứt 200 tr CN)

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

-Bùi Huy Đáp, 1980

600-500 tr CN

Công tác tưới tiêu đã được áp dụng

- Công trình thủy lợi đá xếp Basalt ở Do Linh, Quảng Trị

- Tạ Chí Đại Trường, 1996

- Maspéro, 1918

400 tr CN

Lưỡi cày, bắp cày và ách bằng sắt được bắt đầu sử dụng

Đã sử dụng cày đồng trong nền văn hóa Đông Sơn

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

400 tr CN

“Chuyên viên lúa” được bổ nhiệm để hướng dẫn trồng lúa

Vua Hùng Vương dạy dân trồng lúa

- Lĩnh Nam Chích Quái

Trước CN

Cày sâu và làm cỏ giữa mùa đã được áp dụng

Có thể cày sâu và  làm cỏ giữa mùa để sản xuất nhiều lúa

Ca dao, tục ngữ

146-167 sau CN

Cấy lúa được nói đến lần đầu tiên

VN cấy lúa từ thuở lập quốc - Hùng Vương (700 tr. CN)

- Lĩnh Nam Chích Quái

- Maspéro, 1918

618-906 sau CN

Xa đạp nước bằng chân được áp dụng

- Đã sử dụng trong thời kỳ này

Thời Bắc thuộc

960-1127 sau CN

Bừa có răng và trục đã được áp dụng

- Đã sử dụng trong thời kỳ này

Thời Bắc thuộc

Trước và sau CN**

Chưa trồng lúa 2 vụ

VN trồng lúa Chiêm và lúa Mùa

- Maspéro, 1918

- Bùi Huy Đáp, 1980

 

Nguồn: (*) Theo Chang, 1985, (**) do tác giả thêm vào. 

3.   SỬ DỤNG KỸ THUẬT TRỒNG LÚA CỔ TRUYỀN  

Đến nền văn hóa Đông Sơn, nông nghiệp lúa đã có nhiều tiến bộ, phục vụ tăng gia sản xuất thực phẩm để đáp ứng nhu cầu người dân Âu Lạc. Từ đầu Công nguyên về sau, đất nước bước vào thời đại Sắt phát huy ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng kinh tế, xã hội và văn hóa của cư dân. Nền nông nghiệp đã đạt nhiều tiến bộ với trồng lúa 2 vụ, đất bồi trồng dâu, có vườn cây trái, trồng rau đậu, ao nuôi cá, nuôi gia súc trong nhà và ngoài sân…; nhưng đang bị Hán tộc cai trị.

Về hệ thống canh tác lúa, từ hậu kỳ thời đại Hùng Vương đến Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến, nông dân trồng lúa theo lề lối cổ truyền, nghĩa là dựa vào kinh nghiệm lâu đời do ông bà truyền lại và chính bản thân mình, nhưng hoàn toàn thiếu căn bản khoa học và kỹ thuật tân tiến. Lề lối canh tác lúa cổ truyền và hoạt động hậu thu hoạch trong các giai đoạn này được diễn tả khá chi tiết qua bài ca dao sau đây (Nhất Phương, 2006):

Tháng Giêng là tháng ăn chơi,

Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà,

Tháng Ba thì đậu đã già,

Ta đi ta hái về nhà phơi khô.

Tháng Tư đi tậu trâu bò,

Để ta sắm sửa làm mùa tháng Năm,

Sáng ngày đem lúa ra ngâm,

Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.

Gánh đi ta ném ruộng nhà,

Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.

Sắp tiền mượn kẻ cấy thuê,

Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.

Cỏ úa dọn đã sạch rồi,

Nước ruộng với mười còn độ một hai.

Ruộng thấp đóng một gàu dai,

Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.

Chờ cho lúa có đòng đòng,

Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.

Bây giờ cho đến tháng Mười,

Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.

Gặt hái ta đem về nhà,

Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.

Ngoài ra, người ta có thể biết được ít nhiều trình độ và kinh nghiệm trồng lúa cổ truyền của nông dân từ thời kỳ Đông Sơn đến Độc lập phong kiến, được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ phổ biến từ Bắc chí Nam sau đây (Dumont, 1995; Trần Văn Đạt, 2002; Thái Công Tụng, 2005; và Nhất Phương, 2006):

(i) Thời tiết bất định: Nông dân xét đoán thời tiết mỗi năm để gieo mạ, cấy lúa, chăm sóc và thu hoạch:

- Chuồn chuồn bay thấp trời mưa,

bay cao trời nắng bay vừa trời râm. 

- Én bay thấp mưa ngập bờ ao

én bay cao, mưa rào lại tạnh.

- Mống vàng thời nắng, mống trắng thời mưa.

- Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.

- Tháng Tám gió may tươi đồng.

- Tháng Tám nắng rám trái bưởi,

  tháng Chín mưa rươi, tháng Mười mưa cữ.

- Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang,

mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.

- Chớp thừng chớp chão, chẳng bão thì mưa.

- Trăng (hay mặt trời) quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.

- Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.

- Trời đương nắng, cỏ gà trắng thì mưa.

- Kiến dọn ổ trời mưa.

- Tháng Bảy kiến bò chỉ lo lại lụt.

- Quạ tắm thì nắng, sáo tắm thì mưa.

- Cóc nghiến răng, trời đang nắng thì mưa.

- Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.

- Lúa Chiêm nép ở đầu bờ

hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên.

- Đom đóm bay ra trồng cà, tra đỗ

Tua rua bằng một, cất bát cơm chăm.

- Lập thu mới cấy lúa Mùa,

khác nào hương khói lên chùa cầu con.

- Ông tha mà bà chẳng tha,

làm cho cái lụt 23 tháng mười.

- Đã buồn vì trận mưa rào

lại đau vì nỗi ào ào gió đông.

- Trời hành cơn lụt mỗi năm.

- Thử xem một tháng mấy kỳ mưa,

ruộng hóa ra sông nước trắng bừa.

- Trông trời, trông đất, trông mây,

trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.

- Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày...

- Sáng sủa được tằm, tối tăm được lúa.

- Nắng sớm thì đi trồng cà, mưa sớm ở nhà phơi thóc.

(ii) Lề lối canh tác lúa cổ truyền:

·         Nương mạ & Làm đất: Nông dân chọn đất để làm mùa, trồng loại lúa gì, làm nương mạ, cày bừa sửa soạn đất trước khi cấy lúa:

- Nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.

- Tốt giống tốt mạ, tốt mạ tốt lúa.

- Khoai đất lạ, mạ đất quen.

- Mùa nứt nanh, Chiêm xanh đầu (ngâm hạt giống).

- Mạ Chiêm ba tháng không già (do lạnh),

mạ Mùa tháng rưởi ắt là không non.

- Răng bừa tám cái còn thưa

lưỡi cày tám tấc đã vừa luống to.

- Muốn cho lúa nẩy bông to

cày sâu, bừa kỹ, phân tro cho nhiều.

- Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa

- Cày sâu, bừa kỹ, được mùa có khi.

- Tua rua một tháng mười ngày (sao Tua rua mọc)

cày tróc vưng cày cũng được lúa xơi.

- Cày ải còn hơn rải phân (cày chôn rạ rơm).

·         Cấy lúa: Nông dân cấy lúa (hay gieo thẳng) tùy theo đất ruộng, giống lúa, vụ mùa, thời tiết và tuổi mạ:

- Ra đi mẹ có dặn dò,

ruông sâu thì cấy ruộng gò thì gieo.

- Mùa ruộng cao, Chiêm ao lấp.

- Vụ Chiêm em cấy lúa Di,

vụ Mùa lúa Dé, sớm thì Ba giăng.

- Bao giờ nắng rửa bàng trôi

Tua rua quật lại thì thôi cấy Mùa.

- Tua rua thì mặc tua rua,

mạ già, ruộng ngấu, không thua bạn điền.

- Lập thu mới cấy lúa Mùa

khác gì hương khói lên chùa cầu con.

- Ăn nhiều no lâu, cấy sâu tốt lúa.

- Mạ vàng cấy lúa chóng xanh.

- Chiêm chết se hè chết đọng.

- Cấy tháng chạp đập không ra.

- Lúa Chiêm thì cấy cho sâu

lúa Mùa thì gãy cành dâu là vừa.

- Lúa Chiêm đào sâu chôn chặt

lúa Mùa vừa đặt vừa ăn.

- Cấy thưa thừa thóc

cấy dầy, cóc được ăn.

- Già mạ lúa tốt.

            - Mạ úa thì lúa chóng xanh.

·         Chăm sóc & Bảo vệ lúa: Nông dân chăm sóc ruộng lúa kỹ lưỡng: cày ải (cày ngay sau khi gặt), bón phân hữu cơ, thả bèo dâu (cho chất đạm), làm cỏ, be bờ, tưới ruộng và bảo vệ lúa:

- Muốn no thì phải chăm làm

một hạt thóc vàng, chín hạt mồ hôi.

- Thứ nhất cày ải, thứ nhì rải phân.

- Lúa Chiêm mà thả kín bèo

như con nhà nghèo trời đổ của cho.

- Lúa khô cạn nước ai ơi

rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu.

- Ruộng không phân như thân không của.

- Người đẹp nhờ lụa lúa đẹp nhờ phân.

- Mạ Chiêm không có bèo dâu

khác nào như thể ăn trầu không vôi.

- Gánh phân, làm cỏ, chẳng bỏ đi đâu.

- Bao giờ cho đến tháng hai

con gái làm cỏ con trai be bờ.

- Nàng về ngâm nhựa xương rồng

gánh ra đem tưới cho bông cho cà

Sâu non cho chí sâu già

hòng chi sống sót mà ra phá màu.

(iii) Thu hoạch: Nông dân dựa vào kinh nghiệm và quan sát tại chỗ để qui định thời gian gặt lúa cho mỗi vụ mùa, đem lúa phơi nắng, tồn trữ, xay chà, giã gạo và sàng gạo:

- Cấy bằng mắt gặt bằng đầu.

- Tháng Tư mua nứa đan thuyền,

tháng Năm tháng Sáu gặt miền ruộng Chiêm.

- Đói thì ăn ngô ăn khoai,

chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng.

- Thuận mùa lúa tốt đằng đằng

tháng Mười gặt lúa, ta ăn đầy nhà.

- Xanh nhà hơn già đồng (gặt sớm để tránh hạt rụng).

- Mùa cò chân giang, Chiêm vàng trái rợ (Striblus asper) (xem màu của vụ để gặt lúa)

- Lưỡi liềm bán nguyệt cầm tay

lúa vàng nghìn gốc muôn cây thu về.

- Năm nong đầy, em xay em giã

trấu ủ phân, cám bã nuôi heo

sang năm lúa tốt tiền nhiều

em đong đóng thuế, đóng sưu cho chồng.

- Ngày thì đem lúa ra phơi

tối lặn mặt trời đổ lúa ra xay

một đêm là ba cối đầy

một tay xay giã, một tay giần sàng.

- Sáng trăng giã gạo giữa trời

cám bay phảng phất nhớ người phương xa.

- Hai thóc lúa mới được một gạo.

            - Đi đâu cũng nhớ quê mình

            nhớ cầu Bến Lức, nhớ chình gạo Thơm.

            - Cám ơn hạt lúa Nàng Co

nợ nần trả hết, lại no tấm lòng.

- Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi

gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già.

- Anh đi ghe gạo Gò Công,

vô vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm.

- Tiếng đồn Bình Định tốt nhà,

Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hòa tốt trâu.

- Thóc lúa về nhà, lợn gà ra chợ.

- … 

Nhìn chung thời kỳ Bắc thuộc-cả-ngàn-năm là giai đoạn cực kỳ đen tối của dân tộc phải trải qua, với những nỗi đau đớn, thống khổ cùng cực trong khi tài nguyên thiên nhiên, sức lao động bị triệt để bóc lột khai thác; nhưng tinh thần quốc gia vẫn vững mạnh, kiên cường và bất khuất; cho nên cuối cùng người Việt đã đạt đến chiến thắng hào hùng, đuổi giặc khỏi biên cương và giành độc lập cho đất nước. Đồng thời sự giao tiếp giữa hai nền văn hóa Đông Sơn và Hán tộc lúc bấy giờ đã giúp cho nền văn hóa bản địa thăng tiến, đa dạng và phong phú. Ngành nông nghiệp lúa bản địa dù đã đạt đến mức độ cao và vững chắc trong thời đại Kim Khí, nhưng cũng tiếp thu một số kỹ thuật canh tác mới như sử dụng cày sắt, dùng phân hữu cơ (phân bắc, cây họ Đậu…) và một số phương tiện cho thu hoạch và tổn trữ. Nhờ đó, sự sản xuất lúa gia tăng và năng suất bình quân cải tiến từ 0,54 t/ha vào đầu Công nguyên lên 1,0 t/ha lúc Bắc thuộc chấm dứt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
  2. Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
  3. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
  4. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.
  5. Dumont, R. 1995. La culture du riz dans le delta du Tongkin. Printimg House in Bangkok, Thailand. pp 592.
  6. Lê Thành Khôi. 2014. Lịch sử Việt Nam: từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. NXB Thế giới, Hà Nội, 621 tr.
  7. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
  8. Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.
  9. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  10. Nhất Phương. 2006. Ca dao, tục ngữ Việt Nam. NXB Thanh Niên, Công ty in Văn Hóa Sài Gòn, 410 trang.
  11. Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.
  12. Tạ Chí Đại Trường. 1996. Những bài dã sử Việt. NXB Thành Văn, California, Hoa Kỳ, 431 tr.
  13. Tạ Đức. 2013. Nguồn gốc người Việt-người Mường. NXB Trí Thức, Hà Nội, trang 223-236.
  14. Thái Công Tụng. 2005. Việt Nam: môi trường và con người. Vietnamologica,  Trung Tâm Việt Nam Học, Montréal, Canada, 299 tr.
  15. Trần Trọng Kim. 1990. Việt Nam sử lược, Quyển I & II. NXB Đại Nam.
  16. Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam - Từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn, 315 tr.
  17. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời Đại Kim Khí Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 551 trang.
  18. Viện Khảo Cổ Học. 2002. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 519 tr.

CHƯƠNG 10

MỞ RỘNG

TRỒNG LÚA NƯỚC 

THỜI ĐỘC LẬP PHONG KIẾN

 (939 - 1884)

Ngành canh tác lúa đạt được những bước tiến vững chắc mặc dù nhiều lúc bị trì trệ trong khoảng hơn một ngàn năm Bắc phương đô hộ và gần một ngàn năm Độc Lập sau đó, xen kẽ những cuộc xâm lăng thô bạo nhằm đồng hóa và ngu dân nước ta. Trong thời gian này, ngành sản xuất lúa tiếp tục phát triển do bành trướng lãnh thổ, mở mang đất trồng trọt hơn là do kỹ thuật canh tác cải tiến. Diện tích đất nông nghiệp cả nước tăng từ thế kỷ XI, bộc phát mạnh mẽ vào thời Mạc-Trịnh-Nguyễn phân tranh và triều đại nhà Nguyễn cho đến năm 1884 - thời Pháp Thuộc bắt đầu.

Nền kinh tế quốc gia vẫn đặt trọng tâm vào nông nghiệp lúa; nhưng vì ảnh hưởng sâu đậm của Nho học người dân gồm cả giới sĩ phu có đầu óc lệ thuộc Bắc phương quá nhiều, mất hết sáng kiến cá biệt, thiếu đầu óc khoa học kỹ thuật để canh tân quản lý sản xuất lúa trong nước, đặc biệt về năng suất. Vì thế, nông dân chỉ tiếp tục trồng lúa cổ truyền từ nền văn minh lúa nước thời đại Hùng Vương, không có thêm tiến bộ kỹ thuật nổi bật trong suốt 2 000 năm lịch sử. Với thời gian hơn 1 000 năm đô hộ, ngành trồng lúa phát triển có chừng mực do tiếp cận nền văn hóa xa lạ tiến bộ hơn. Tiếp theo, suốt gần 1 000 năm độc lập phong kiến năng suất chỉ tăng từ 1,0 đến 1,2t/ha khi Pháp thuộc bắt đầu. Đó là do sử dụng giống thuần tốt hơn, phát triển công tác thủy lợi và kinh nghiệm lâu dài của nông dân; nhưng mức tăng này còn quá ít và lề lối canh tác không thay đổi nhiều, so với ngành trồng lúa tiến bộ vươt bực ở Nhựt Bổn, chẳng hạn năng suất của nước này tăng từ 1,01t/ha trong 265-317 sau CN lên 3,10t/ha trong thời gian 1644-1911 (Greenland, 1997).

Suốt quá trình lập quốc và phát triển đất nước, dân tộc Việt liên tục nỗ lực cải tiến ngành trồng lúa, chủ yếu diện tích canh tác để đáp ứng nhu cầu dân số tăng từ khoảng 1 triệu người vào thế kỷ I (theo Tiền Hán Thư) lên 3,3 triệu người vào đầu thế kỷ XV (theo Địa Dư Chí của Nguyễn Trải), và 10 triệu dân vào cuối thế kỷ XIX. 

1.  BÀNH TRƯỚNG NGÀNH LÚA NƯỚC VỚI CUỘC NAM TIẾN DÂN TỘC

Thời kỳ độc lập của đất nước bắt đầu từ 939, sau khi Ngô Quyền chiến thắng Bạch Đằng đuổi bọn Nam Hán về nước cho đến năm 1884, lúc triều đình Huế ký hòa ước Patenôtre với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ Pháp trên đất Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong thời gian độc lập phong kiến khá dài này, sự cai trị nhà nước được củng cố vững mạnh hơn, nền văn hóa vẫn còn nhiễm nặng bản chất Nho Giáo. Xã hội đã trưởng thành từ thành thị đến thôn quê, đồng thời phát triển các tập tục địa phương, hương uớc thôn xã và xuất hiện các giai cấp sĩ, nông, công và thương cũng như khoảng cách giữa giới đại phú và kẻ bần cùng ngày càng sâu sắc. 

Vì dân số gia tăng, sức ép Bắc phương và nạn tranh giành quyền lực nội bộ, nên chỉ một thế kỷ sau khi giành độc lập, dân tộc Việt đã bắt đầu cuộc Nam tiến gian nan với sức người giới hạn, mồ hôi, nước mắt cùng tham vọng. Năm 1069, vua Lý Thánh Tôn đánh chiếm nước Chiêm vì nước này sách nhiễu biên giới. Vua Chiêm là Chế Cũ dâng 3 châu để chuộc tội, nay thuộc tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Cuộc Nam tiến tiếp tục với triều đại nhà Trần qua cuộc hôn nhơn Huyền Trân Công chúa để có thêm lãnh thổ Thuận Châu và Hóa Châu năm 1307, nhà Hồ chiếm đất Quảng Nam và Quảng Ngãi năm 1402. Cuộc Nam tiến bộc phát mạnh mẽ vào thời Trịnh - Nguyễn phân tranh (1533-1788). Chúa Nguyễn muốn củng cố thế lực để làm vương một cõi ở phương Nam, nên phát động rầm rộ không ngừng các chiến dịch di dân khai khẩn đất mới, bành trướng lãnh thổ. Đến 1697, nước Chiêm không còn nữa (Phạm Văn Sơn, 1960) (Hình 1), nhưng trào lưu di dân chưa chấm dứt.

Cuộc hôn nhơn giữa công chúa Ngọc Vạn (con thứ của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, 1613-1635) và vua Thủy Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1621 đã mở đầu cho cuộc di dân tiến vào đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) còn hoang vu, nhiều rừng rậm, thú dữ và khí hậu độc hại (Phạm Văn Sơn, 1960 và Huỳnh Văn Lang, 2005). Người dân miền Nam Trung Phần, đặc biệt từ Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi đã được chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1649-1686), Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) động viên di cư vào vùng đất Chân Lạp lập nghiệp, trong đó có nhiều người đi bằng đường biển với thuyền buồm, ghe bầu nan lúc gió mùa đến vùng đất Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa), Lôi Lạp (Gò Công) qua sông Soài Rạp, Cửa Tiểu và Cửa Đại (Sơn Nam, 2000).

Ngoài ra, còn có người Hoa, Chàm và Miên tham gia khai khẩn ĐBSCL, đặc biệt các nhóm người Hoa dưới triều đại nhà Minh lưu vong đến Việt Nam được phép khai hoang lập ấp. Năm 1679, nhóm người Hoa hướng dẫn bởi Trần Thượng Xuyên (cựu Trấn Thủ ở Quảng Đông) được chúa Nguyễn cấp phép lập nghiệp ở Cù Lao Phố, Biên Hòa, và Dương Ngạn Địch (cựu Trấn Thủ ở Quảng Tây) khai thác vùng đất Mỹ Tho. Khoảng 1671, Mạc Cửu, một thương gia Quảng Đông đến vùng Đông nam Chân Lạp, được phép khai thác vùng bờ biển gần Phú Quốc, sau đó đến mở mang đất Hà Tiên (1714). Đến năm 1760, người di cư đã đặt chân đến bán đảo Cà Mau (Hình 1).

Cuộc Nam tiến vĩ đại gian nan và hào hùng của dân tộc kéo dài 7 thế kỷ, từ giữa thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XVIII đã thành công mở rộng giang sơn để vừa tránh âm mưu hiểm độc của Bắc phương vừa tăng gia sản xuất lương thực nuôi dân và tăng thêm ngân sách nhà nước; nhưng đồng thời tạo nên một thành phần mới không nhỏ trong xã hội, đó là những dân lưu tán nghèo đói khốn khổ trong quá trình di dân vất vả lâu dài. Đến thời vua Minh Mạng (1847), diện tích đất canh tác lúa tăng ngoạn mục, từ 216 000ha đầu CN lên 878 000ha[11]. Riêng Nam Bộ năm 1836, diện tích điền thổ được đo đạc là 630 075 mẫu hay 226 827ha (Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).

Đồng thời, người di cư từ miền Bắc và miền Trung đã mang theo kinh nghiệm và kiến thức trồng lúa rẫy, lúa nước, phối hợp với các điều kiện môi trường địa phương để sáng tạo kỹ thuật mới như nông nghiệp cuốc, nông nghiệp cày và nhứt là nông nghiệp phảng dành cho khai thác hữu hiệu các sơn điền và thảo điền ở Nam Bộ. Nhiều giống lúa quen thuộc ở miền Bắc cũng được gieo trồng ở miền Nam, như lúa thơm, lúa Chiêm, lúa Móng chim, lúa Man, lúa Trắng, lúa Cánh, lúa Thuật, lúa Ba trăng, lúa Bát ngoạt, lúa Dung, Lúa Đen, lúa Chày chày; hoặc các loại nếp Voi, nếp Cau, nếp Bò, nếp Vằn, nếp Bụt, nếp Kỳ lân, nếp Hương bầu, nếp Cúc, nếp Cò, nếp Cái, nếp Than, nếp Lúa, nếp Sáp, nếp Trứng… (Huỳnh Lứa và những cộng sự viên, 1987). 

Nhìn lại cuộc Nam tiến gian truân vô vàn khó nhọc, vào buổi đầu người di cư đến một vùng chưa khai thác để trú ở và khai khẩn đất hoang, chăn nuôi trồng trọt để sinh sống là một thời kỳ gian nan, khổ cực, may rủi khó lường. Trước hết, họ phải tìm một nơi đất cao ráo, thường là đất giồng để làm nơi cư ngụ, có nước ngọt để uống trồng trọt, và đã có ít người đến trước hoặc từng nhóm cùng đến để có láng giềng giúp đỡ nhau khi hữu sự trong chốn rừng hoang hẻo lánh đầy nguy hiểm.

Họ bắt đầu tạo một mảnh vườn chung quanh túp liều nhỏ để trồng rau quả, củ đậu, đào ao nuôi cá hoặc ở ven sông rạch để đánh bắt cá, nuôi gia súc hầu có đủ thức ăn hàng ngày cho gia đình. Sau đó, họ chọn một khu đất rừng ở vùng trũng thấp gần nơi cư ngụ để chặt cây, phá rừng, phát quang làm sạch sẽ vào mùa khô trước khi trồng trọt. Trên thửa đất đã được khai phá, họ gieo hạt hoặc cấy lúa sau vài trận mưa đầu mùa. Tuy nhiên, mùa màng rất bấp bênh với nhiều rủi ro bất ngờ, vì hạt lúa gieo hoặc cấy trên đất mới khai thác còn nhiều gốc cây dại, cỏ năng, cỏ lát, nhiều chim, chuột và các thú rừng khác luôn đe dọa phá hại trước khi cây lúa chín. Vài năm sau, đất ruộng trở nên thuần thục, nông dân có nhiều kinh nghiệm nên mùa màng thuận lợi hơn và đời sống cũng dễ chịu. Nếu chẳng may gặp vùng đất xấu, kém phì nhiêu như có nhiều phèn mặn, họ phải rời bỏ đi tìm nơi khác bắt đầu làm lại cuộc đời.

Hình 1: Bản đồ Nam tiến của dân tộc Việt 1069-1760 (Lê Thành Khôi, 2014)

 

cuỘc HÀNH TRÌNH NAM TIẾN 

“… Ngoài số nông dân nghèo thất sở, xiêu tá, trong lớp người Việt đến đất Đồng Nai-Gia Định (Nam Bộ ngày nay) còn phải kể đến những người trốn trách nhiệm binh dịch, những tù nhân bị lưu đài, những binh lính đào ngũ hay giải ngũ, những thầy lang, thầy đồ nghè,… kể cả những người vốn đã giàu có nhưng vẫn muốn tìm nơi đất mới để mở rộng công việc làm ăn.

      Thông thường, những người Việt này đi vào đất Đồng Nai-Gia Định theo hai cách: Một là họ tự động và đi lẻ tẻ, hoặc cả gia đình, hoặc người khỏe mạnh đi trước, rồi đón gia đình đến sau, hoặc mấy người, mấy gia đình kết lại thành nhóm cùng đi với nhau. Hai là họ tham gia vào các đợt di dân khẩn hoang do nhà nước (triều Nguyễn) đứng ra tổ chức và bảo trợ.

Vì thời bấy giờ việc đi lại giữa các phủ miền Trung với vùng đất mới Đồng Nai-Gia Định chủ yếu bằng đường biển, cho nên những người ra đi ắt phải đi theo đường biển với phương tiện thuyền buồm. Dĩ nhiên cũng có người trèo đèo vượt núi, đi theo đường bộ… Nhưng số người đi theo kiểu này chắc là ít vì đường đi quá gian lao, nguy hiểm khó vượt qua.

… Lúc ban đầu, để dễ bề sinh sống. nhất là để đảm bảo có đủ nước ngọt dành cho người, gia súc và cây trồng, và để tiện việc đi lại ở một nơi mà đường sá chưa mở, xóm thôn của người dân thường được hình thành dọc theo ven sông, ven rạch, nhưng là nơi cao ráo, phần lớn là trên các giồng. Tại đây họ sinh sống bằng nghề làm ruộng muối, nghề chài lưới, nghề làm cá mắm, nghề trồng trọt…

    … Trong điều kiện môi trường làm ăn sinh sống còn rất hoang vu, khí hậu độc địa thường gây nhiều bệnh tật, đầy rẫy thú dữ, rắn rết, người lưu dân không thể sống đơn độc ở một nơi hẻo lánh. Trái lại, họ phải sống xúm xít lại với nhau, ban đầu không nhiều, thường là năm, mười nóc nhà kết lại với nhau thành xóm. Khi số người đông thêm do sinh đẻ tự nhiên hoặc do người di cư tiếp tục bổ sung tới, xóm được mở rộng thành ấp, thành thôn rồi thành xã.

Chính từ trong cuộc sống đầy gian nan thách thức và từ trong mối quan hệ thân thương đùm bọc lẫn nhau đã hình thành nên những đức tánh cao đẹp như giàu lòng trọng nghĩa khinh tài, sẵn lòng hy sinh vì nghĩa, chí cốt và chung thủy trong tình bạn, chan hòa cởi mở trong quan hệ hàng xóm láng giềng, cương trực thẳng thắn, rộng rãi hiếu khách, coi trọng lẻ công bằng trong đối nhân xử thế. Ngoài ra, con người vùng đất mới cũng là những con người giàu tính mạo hiểm, không sợ khó, sợ khổ, không sợ gian nguy khi gặp việc phải làm. Với thời gian những đức tính quý báu đó dần dần trở thành nét truyền thống cao đẹp của người nông dân Nam Bộ các thời kỳ sau này (Huỳnh Lứa và các cộng sự  viên, 1987).
 

 2.  CHỦ TRƯƠNG nông nghiỆp lúa qua các triỀu đẠi PHONG KIẾN

(theo Đào Duy Anh, 1938; Phạm Văn Sơn, 1960; TrầnTrọng Kim, 1990; Nguyễn Phan Quang &Võ Xuân Đàn, 2000; và Lê Thành Khôi, 2014)

Nhìn chung, để phát triển sản xuất nông nghiệp nhà nước phải thúc đẩy dân chúng cải tiến năng suất hoặc mở rộng diện tích canh tác hoặc cả hai biện pháp này. Nhưng lúc bấy giờ do óc sáng tạo kỹ thuật trong lãnh vực nông nghiệp còn hạn hẹp, văn hóa dân tộc còn chìm sâu trong Nho học, năng suất và hiệu năng sản xuất khó có thể cải thiện với phương pháp canh tác cổ truyền; trong khi diện tích trồng trọt có thể bành trướng mạnh qua các công cuộc khẩn hoang lập ấp. Do đó, các nhà nước từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn cho đến nhà Nguyễn đều quan tâm đặc biệt đến các công tác phát triển chủ yếu sau đây:

(i)                 Bành trướng, khai khẩn đất hoang và đất mới bồi lấp,

(ii)               Tái trồng đất bỏ hoang do chiến loạn và định cư lưu dân,

(iii)             Đắp đê đập chống lũ lụt, và

(iv)             Phát triển công tác dẫn thủy nhập điền.

       Do đó, các nhà vua từ tiền Lê, Lý, Trần về sau thường xuyên tổ chức lễ tịch điền hàng năm trước các vụ lúa để khuyến khích dân chúng tham gia canh tác. Ngoài ra, nông dân còn có các lễ Thượng điền, lễ Hạ điền, lễ Cơm mới (vào tháng 10 âm lịch) v.v. để tạ ơn trời đất, cầu mong mưa thuận gió hòa cho mùa màng, đồng thời tạo cơ hội cho đồng bào nông thôn giao tế, hợp tác sản xuất và có cuộc sống an vui.

      Trong suốt thời kỳ độc lập, nền nông nghiệp, chủ yếu ngành trồng lúa đã được phát triển và bành trướng không ngừng; nhưng không đồng bộ cả nước, vì ngành trồng lúa nước ở các đồng bằng và thung lũng lớn mạnh với năng suất cao, ruộng đất mở rộng; trong khi lúa rẫy trên các vùng cao nguyên, đồi núi vẫn còn thực hiện du canh lạc hậu từ thời tiền sử cho đến ngày nay.  

1.      Nhà Ngô-Đinh-Lê (939 - 1009 sau CN)

Trong thời kỳ quốc gia vừa độc lập, việc cai trị nước chưa vững chắc, các triều đại chưa quan tâm nhiều đến nông nghiệp, nhưng đã có đất ruộng riêng để vừa tự cấp vừa phục vụ việc tế lễ gọi là lễ Tịch Điền. Năm 987, Lê Hoàn (980 - 1005) đến cày ruộng Núi Đọi và núi Bàn Hải (Hà Nam) làm xới bật lên hủ vàng và hủ bạc nên gọi là ruộng vàngruộng bạc, với mục đích khuyến khích người dân tham gia phát triển trồng lúa trong nước. Năm 1002, Ông ra lệnh tăng gia sản xuất nông nghiệp, khuyên dân chúng cày cấy, sử dụng giống lúa của ruộng Tịch Điền.

Các lãnh chúa trước thời Đinh Tiên Hoàng cho đến các đời vua Tiền Lê là những điền chủ lớn trong nước. Như Lê Lương, một lãnh chúa ở vùng Ái Châu có đất rộng với 3 000 dân cư, thu hoạch lúa cất chứa trong 110 lẫm lúa. Lê Hoàn và các con của Ông cũng là những đại điền chủ. Ruộng của ông ở Hoa Lư có bao nhiêu không rõ, nhưng sứ Tàu Tống Cao (năm 990) cho biết vua có cả ngàn trâu (Tạ Chí Đại Trường, 1996).

2.      Nhà Lý (1010 - 1225)

Vào Triều đại nhà Lý, ruộng đất tư đã xuất hiện do ban cấp, mua bán hoặc thế chấp. Nhà nước cho thi hành chính sách “Ngụ binh ư nông” còn gọi là chế độ quân điền - cho quân lính thay phiên nhau về quê chăm lo trồng lúa để vừa ít tổn phí nuôi quân vừa đẩy mạnh công tác sản xuất. Triều đình còn cấm giết trâu và áp dụng luật pháp xử phạt rất nặng cho những người vi phạm, nhằm giữ gìn phương tiện cày bừa ruộng đất để tăng sản xuất lúa gạo trong nước. Triều Lý bắt đầu thực hiện thuế điền thổ và thuế đinh. Vua Lý Thái Tổ (1010-1028) định các thứ thuế ruộng, thuế đầm, thuế ao, thuế đất trồng dâu và bãi phù sa. Vua Lý Thái Tông cho thiết lập các hợp tác xã nông thôn, mỗi hợp tác xã qui tụ 10 nông dân để giúp đỡ nhau canh chừng công việc đồng áng và mùa màng (Lê Thành Khôi, 2014).

Năm 1092, nhà nước ra lệnh tiến hành đo đạc, lập sổ điền bạ để đóng thuế. Việc phân chia ruộng đất làng xã theo định kỳ lần đầu tiên được quy định thành luật lệ là chế độ quân điền. Vào thời Hậu Lê định kỳ là 6 năm và thời Nguyễn là 3 năm (Phan Đại Doãn, 2001). Ngoài ra, các vua nhà Tiền Lý cũng chú trọng đến lễ Tịch Điền hàng năm. Vua Lý Thái Tổ thực hiện công tác chấn hưng nông nghiệp, cho xây đắp đê Cơ Xá để tránh thủy tai hàng năm. Vào mùa Xuân 1038, Lý Thái Tông (1028-1054) đến Bố Hải khẩu làm lễ Tịch Điền. Khi các quan can gián nhà vua đi cày ruộng, vua Lý Thái Tông đáp: “Trẫm không cày thì lấy gì mà làm xôi cúng. Lấy gì để xướng xuất thiên hạ.” Vào năm 1056, vua Lý Thánh Tông (1064-1072) ban bố chiếu khuyến dân làm ruộng. Quan trọng hơn hết là phát triển công tác đắp đê đập để chống lũ lụt. Nhà Lý tiếp tục công tác này cũng như đào vét kinh trong những năm về sau một cách tích cực. Năm 1072, nhà vua cho đắp đê Như Nguyệt ở sông Cầu để bảo vệ cư dân và thành phố. Tất cả đều nhằm phục vụ nền nông nghiệp lúa nước.

3.      Nhà Trần (1226 - 1400)

Nền kinh tế dưới đời nhà Trần vẫn là nền kinh tế nông nghiệp và ngư nghiệp. Đời Trần Thái Tôn (1242) định lệ mỗi mẫu ruộng tư phải đóng thuế 100 thăng lúa, còn ruộng công thì nặng hơn. Vào năm 1266, nhà Trần cho thi hành chính sách khẩn hoang, ra lệnh cho các vương hầu tôn tử chiêu mộ các phần tử lưu tán đi khẩn hoang để tăng diện tích canh tác lúa. Nhà nước đặt ra các chức Chánh và Phó đồn điền sứ để đẩy mạnh công tác khai thác đất mới. Công tác đắp đê và bảo vệ đê điều tiến triển mạnh hơn. Nhà nước đặt ra chức Hà đê chánh và phó sứ để đôn đốc, bảo vệ và làm rộng thêm các con đê chạy dọc theo sông Hồng. Nếu công tác làm rộng đê lấn đất ruộng của dân, Triều đình chiếu theo giá ruộng đất bồi thường cho họ. Hàng năm vào tháng giêng khi công tác mùa màng nhẹ đi, tất cả nhân dân không phân biệt giàu nghèo, ngay cả học sinh quốc tử giám cùng nhau tu bổ đê đập và đào vét kinh rạch để dẫn thủy chống hạn. Đây là hình thức công tác cộng đồng đầu tiên của quốc gia. 

Ngoài ra, nhà Trần còn dùng chánh sách “cảo điền hoành” nghĩa là dùng tù nhân trông nom việc cày cấy ruộng công cho nhà nước. Mỗi người lo trồng 3 mẫu ruộng và mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc. Những người nô tì của các vương hầu, công chúa, đế cơ phải làm công tác khai khẩn ruộng đất và xây dựng các điền trang. Họ đắp đê ngăn nước biển, sau hai ba năm đất mặn thuần thục hơn và trở thành ruộng trồng lúa cho chủ nhân. Đến đời nhà Trần, Việt Nam đã bành trướng đến vùng Thuận Châu và Hóa Châu. Diện tích đất trồng lúa bành trướng không ngừng, nhưng kỹ thuật canh tác không cải tiến nhiều.

4.      Nhà Hồ (1400 - 1407)

Hồ Quý Ly đặt ra chính sách hạn danh điền (1397) để hạn chế ảnh hưởng của công thần nhà Trần, với lệnh ban như sau:“Đại vương và trưởng công chúa vô hạn cho đến thứ dân ruộng 10 mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép tự ý đem ruộng chuộc tội, bị biếm truất cũng như vậy. Người nào thừa ra thì đem nạp vào của công.” Đây là một hình thức cải cách ruộng đất đầu tiên của nước, với ruộng đất tập trung vào nhà nước. Hồ Quý Ly lại hạ lệnh đo đạc lại để kiểm soát ruộng đất và lập thành điền bạ vì có nhiều ruộng đất có ẩn lậu. Thửa ruộng nào không có người khai thác sẽ trở thành công điền.

            Để đối phó với các thiên tai như lụt lội, hạn hán và giặc giã, Hồ Quý Ly cho lập kho thóc gọi là kho Thương bình ở nhiều nơi, bằng cách mua lúa lúc giá hạ thấp để bán rẻ cho người nghèo hoặc cứu trợ lúc gặp khó khăn. Ngoài ra, Triều đình còn cho đắp đê đập ở vùng bờ biển để có thêm ruộng đất cho dân cày cấy.

5.      Nhà Hậu Lê (1428 - 1527)

Nhà Hậu Lê thi hành chính sách “trọng nông”. Nhà nước cho thành lập chế độ quân điền ở các xã để đôn đốc khôi phục lại các ruộng bỏ hoang nhằm tăng mức thu thuế tô của nhà nước. Năm 1481, Lê Thánh Tông ra chiếu lập đồn điền để “khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Ngoài chức chánh và phó sứ đồn điền, quan hà đê, nhà nước còn đặt ra chức quan “Khuyến Nông” ở cấp tỉnh và huyện để đôn đốc sản xuất nông nghiệp. Lúc bấy giờ trong nước có 53 ty Hà Đê và 53 ty Khuyến Nông. Ngoài ra, còn có 42 sở Đồn Điền để đôn đốc khẩn hoang các miền thượng du, được đặt dưới quyền điều khiển của 13 quan Đồn Điền (Đào Duy Anh, 1938). Ngoài bảo vệ đê điều, nhà nước còn khuyến khích “tưới ruộng cho dân” và ra lệnh cấm trộm cướp trâu bò để có phương tiện canh tác. Năm 1435, nhà nước ra lệnh cho địa phương: “hễ công dịch gì có hại đến nghề nông thì không được khinh động sức dân”.

Vào thời Hậu Lê, luật Hồng Đức bảo vệ dân quyền và quyền lợi xã hội rất chặt chẽ, trong đó có nhiều điều khoản bảo vệ quyền tư hữu và đất công, trừng phạt các vi phạm, quy định việc giao dịch và thừa kế. Chẳng hạn, làm ruộng quá hạn mà không nộp thóc bị đánh đòn 80 gậy. Tái phạm phải nộp thóc gấp đôi. Khi tái phạm lần thứ ba ruộng sẽ bị tịch thu làm công điền. Người ngoài bắt được sự gian lận sẽ được ân thưởng. Vào thời này, thuế ruộng đất và bãi dâu đã bắt đầu chia mỗi thứ làm ba hạng, tùy theo nơi tốt xấu, nhưng không rõ cách trưng thu thế nào.

Chánh sách tiến bộ nhứt của nhà Lê là việc phân bố công điền mỗi 6 năm. Mặc dù gọi là quân điền, nhưng không phân chia ruộng đất đồng đều mà tùy theo tôn ti cấp bực trong xã hội, càng có địa vị cao càng nhận được nhiều công điền. Mục đích của quân điền là giúp đảm bảo tối thiểu cho mọi nông dân có ruộng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp; nhưng kết quả của chánh sách này bị hạn chế bởi việc phân chia đất đai định kỳ nên nông dân không mặn mà cải thiện lề lối canh tác để tăng năng suất.

6.      Mạc-Trịnh-Nguyễn phân tranh (1523 - 1785)

Vào cuối nhà Hậu Lê, lợi dụng triều đình suy yếu, Mạc Đăng Dung chiếm quyền và lập “Bắc Triều” ở Thăng Long, còn “Nam Triều” lấy danh nghĩa nhà Lê nhưng do nhà Trịnh kiểm soát từ Thanh Hóa vào trong. Để củng cố quyền lực, Nhà Mạc (1527-1592) dùng chế độ lộc điền, đem công điền và ruộng chùa để cấp cho binh lính hầu thu phục sự ủng hộ của phe quân nhân. Nhà Mạc cũng cấp một số ruộng đất cho công thần; do đó, ruộng tư hữu của các quan lại, địa chủ và binh lính thời bấy giờ phát triển rất mạnh. Đất ruộng còn lại rất ít dành cho người dân.

Đàng ngoài, tình trạng chiến tranh liên miên xảy ra giữa họ Trịnh và Mạc và sau đó giữa họ Trịnh và Nguyễn làm cho nông nghiệp sa sút trầm trọng. Họ Trịnh cố duy trì chánh sách quân điền của nhà Lê, nhưng thực tế ruộng công không còn bao nhiêu nên mất hết hiệu lực. Tai họa thường xuyên đến với người dân không những thiên tai, lũ lụt, mà còn chế độ sưu cao thuế nặng, lao dịch ngày đêm và quan lại tham nhũng. Năm 1664, nhà Lê tu sửa lại luật lệ thuế, đánh thuế đất công thổ nhất đẳng mỗi mẫu 1 quan, nhị đẳng mỗi mẫu 8 tiền, tam đẳng mỗi mẫu 6 tiền. Thuế nộp bằng lúa đời trước, bây giờ có thể nộp bằng tiền, cứ 100 thăng là 3 quan…

            Đến thời chúa Trịnh Cương, các ngạch thuế được định lại, chia ruộng công ra làm hai hạng: ruộng một vụ và hai vụ, mỗi hạng phải nộp thuế bằng lúa và tiền. Ruộng dâu phải nộp thuế một nửa bằng tiền, một nửa bằng tơ… Ruộng đất của công thần và quan lại được miễn thuế tô, nhưng ruộng công bị thuế nặng. Cứ mỗi mẫu công điền phải nộp 8 tiền thuế, ruộng hai vụ thì lúa thu hoạch được chia làm ba, quan lấy một phần thóc, nhà nước lấy một phần và dân lấy một phần, còn ruộng một vụ chỉ đóng thuế 2 tiền. Ruộng tư điền xưa không chịu thuế đến đầu thế kỷ XVIII mới phải nộp: ruộng hai vụ mỗi mẫu phải nộp 3 tiền, còn ruộng một vụ chỉ đóng thuế 2 tiền.

Trái lại, ở Đàng trong, Nguyễn Hoàng và con cháu cố gắng khai khẩn đất đai, xây dựng thành một khu độc lập chống đối lâu dài với nhà Trịnh. Nhân cuộc chiến tranh Lê-Trịnh, nhà Nguyễn tiến hành mau lẹ khai khẩn đất đai để biến vùng Thuận Quảng thành những khu trù phú nhằm củng cố thế lực và thu tô nhiều hơn. Chúa Nguyễn khuyến khích mọi thành phần tham gia khai hoang lập làng ấp. Tất cả ruộng làng đều thuộc ruộng công được chia cho dân canh tác để lấy thuế. Dân có thể khẩn hoang ruộng đất ở ngoài làng để làm ruộng tư gọi là bản bức tư điền. Những ruộng đất công phải nộp tô nặng còn ruộng đất tư dần bị địa chủ chiếm lấy.

Về mặt xã hội, sau một thời gian thành lập làng, nhiều người dân lại phải bỏ đi về phía nam để làm lại cuộc đời. Từ thế kỷ XVI trở về sau, người dân miền Trung được khuyến khích di cư vào miền Nam lập nghiệp, nhiều xã ấp được thành lập thêm. Nhà Nguyễn còn khuyến khích quan lại và địa chủ tuyển mộ nô lệ đi khẩn hoang ở châu thổ sông Cửu long. Cho nên, công tác xây dựng các vùng trồng trọt ở miền Nam chủ yếu do sức lao động của dân tộc Việt, Chàm, Miên và Hoa. Dù công tác khai phá đất đai làm ruộng phát triển nhanh, đời sống của lớp nông dân vẫn còn nghèo khó.

Chúa Nguyễn còn đặt ra ty Khuyến Nông để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang và cũng để phân hạng ruộng đất đã cày cấy trồng trọt. Để đánh thuế ruộng cho chính xác sau khi gặt vụ chính, các quan đến từng địa phương xem xét mới định hạng ruộng phải nộp thuế. Chúa Nguyễn thu tô thuế cao, chia ruộng ra làm 3 loại để nộp thuế:

o   Ruộng hạng nhứt nộp 40 thăng thóc và 8 hộc gạo[12];

o   Ruộng hạng nhì nộp  30 thăng thóc và 6 hộc gạo và

o   Ruộng hạng ba nộp 20 thăng thóc và 4 hộc gạo.

Ngoài ra, cứ 50 thăng thóc phải nộp thêm một thăng gạo điền mẫu và 3 đồng tiền phụ. 

Ruộng đất dưới thời chúa Nguyễn được chia ra làm 4 loại:

·         Ruộng đất sở hữu nhà Nguyễn gồm cả các quan đồn điền và quan điền trang (độ 6 000 mẫu).

·         Ruộng quý tộc rất ít vì chúa Nguyễn không cấp ruộng đất cho thành phần này mà chỉ cấp tiền bạc hoặc thuế khóa.

·         Ruộng công làng xã: Đất khai khẩn được biến thành ruộng công ở miền Thuận Quảng. Còn ở Nam Bộ có rất ít ruộng công thời bấy giờ.

·         Ruộng tư nhân xuất hiện nhiều do địa chủ và cường hào tìm mọi cách chiếm đoạt từ nông dân nghèo, hoặc biến ruộng công thành ruộng tư.

Đất Miền Nam vốn màu mỡ, cây lúa phát triển rất sung túc với năng suất cao. Từ Gia Định đến Rạch Giá, ruộng đất được chia ra làm 3 loại:

(i) Ruộng miền đồi núi (sơn điền) được dân làm theo lối ruộng rẫy.

            (ii) Ruộng ở các vùng bùn lầy (thảo điền) ở Trấn Biên và Phiên Trấn. Ở đây cứ gieo 1 hộc thóc thì thu hoạch 100 hộc.         

(iii) Ruộng đầm tốt nhất: Vào mùa mưa nông dân phát cỏ vun lại từng đống, đắp bờ và đem mạ ra cấy. Ở Long Hồ, cứ gieo một hộc thóc thì thu hoạch được 300 hộc thóc.

7.      Nhà Tây Sơn (1786 - 1802)

Thời kỳ chiến tranh đã làm cho dân cư nhiều làng ấp bỏ đi lưu vong, nạn đất đai bị bỏ hoang trở nên trầm trọng. Các quan lại, người Hoa lợi dụng thời cơ chiếm đoạt của cải, đất dai của tiểu nông. Do đó, sau khi đại thắng nhà Thanh năm 1789, vua Quang Trung ra lệnh làm lại địa bạ và sổ đinh. Hệ thống thuế đơn giản hóa và nhẹ hơn so với thời chúa Nguyễn. Thuế công điền và tư điền được trả bằng tiền hay hiện vật, nhưng thuế công điền nặng hơn. Vua ban bố chiếu Khuyến Nông:“Chiến tranh đã làm phân tán cư dân, công việc canh tác bị bỏ bê. Số dân bị giảm từ 40 tới 50%. Ngày nay, hòa bình đã được tái lập cần phải đưa những kẻ lang thang trở về khai thác đất bỏ hoang” và đề ra những biện pháp tích cực và thực tế để giải quyết hai vấn đề xã hội và kinh tế khó khăn lúc bấy giờ:

1)      Làm sao cho ruộng đất sản xuất nhiều;

2)      Làm sao cho nhân khẩu gấp rút gia tăng để dân số mau đông đảo.

Đối với vấn đề thứ nhứt, Nhà nước ra lệnh cho những người lưu vong phải trở về quê quán sinh sống và phải lãnh ruộng đất để cày cấy. Những xã nào không thi hành nghiêm chỉnh lệnh của nhà nước sẽ bị trừng phạt nặng. Về thuế khóa, ruộng công và tư điền mỗi loại được chia ra làm 3 hạng để đóng thuế. Sau 4 năm thi hành chánh sách nêu trên (1793),“mùa màng trở lại phong đăng năm phần mười trong nước trở lại cảnh thái bình.” Những năm bị thiên tai thất mùa, triều đình ra ân miễn thuế và xá tội cho dân chúng.

8.      Nhà Nguyễn (1802 - 1884)

Sau khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, ngoài việc chỉnh đốn, tu bổ và giữ gìn đê điều ở Miền Bắc, triều đình chú trọng ngay công cuộc khai hoang và tiếp tục chính sách dinh điền để di dân lập ấp ở Miền Nam. Nhà Vua sai các quan trấn ở Gia Định cung cấp lúa gạo cho những dân nghèo đi khẩn hoang hoặc khôi phục các đất phế canh bằng cách quy tập những người lưu vong. Ngoài ra, nhà nước vẫn còn tuyển mộ dân đi khai khẩn đồn điền ở các trấn Gia Định và nam Trung Bộ. Nguyễn Công Trứ, Trương Minh Giảng và Nguyễn Tri Phương là những người có công lớn trong chương trình khai hoang qui mô theo hình thức doanh điền hoặc đồn điền.

Dưới triều đại Minh Mạng, Ông Nguyễn Công Trứ thành công chinh phục các bãi bồi ven biển từ 1828-1832, qua đắp đê, đào kinh và thoát nước. Ông đã khai thác được mấy trăm mẫu đất ở Nam Định và 3 500 mẫu trong tỉnh Quảng Yên, đặc biệt Ông đã thành lập hai huyện Tiền hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình).

Nhưng với chủ trương khuyến khích khai hoang của nhà Nguyễn, các quan lại chiếm đoạt nhiều ruộng đất rộng lớn từ nông dân và công điền. Dưới chính sách tư hữu của Nam Bộ, các nông dân nghèo không có đủ khả năng tự khai hoang và canh tác cùng bảo quản nên phải dựa vào tầng lớp phú hộ (chủ điền) và trở thành tá điền. Nhiều địa chủ có ruộng đất rộng lớn tới “thiên hộ” và “vạn hộ”. Năm 1840, tỉnh Gia Định tâu: “Trong hạt không có nhiều ruộng công, các nhà giàu bao chiếm ruộng tư đến ngàn, trăm mẫu, dân nghèo không được cày bừa”. 

Công cuộc khẩn hoang ở ĐBSCL của nhà Nguyễn rất vất vả, gồm sự phối hợp chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa. Cuộc vận động lớn này có thể chia ra làm 3 thời kỳ (Sơn Nam, 2000):

(1)  Từ các chúa Nguyễn trước đến thời Gia Long: Khai khẩn các khu đất trù phú ven sông rạch, cù lao, như thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh, theo nhu cầu phát triển của Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia.

(2)  Từ cuối đời Gia Long đến cuối đời Minh Mạng: Khai khẩn phía hữu sông Hậu Giang nối qua vùng đồi núi Thất Sơn vì nhu cầu xác nhận biên giới Việt Miên. Thành lập An Giang tách ra từ trấn Vĩnh Thanh.

(3)  Từ đời Thiệu Trị đến Tự Đức: Khai khẩn những điểm chiến lược nhằm đề phòng nội loạn ở Hậu Giang. Chính sách đồn điền được phát triển mạnh.

 
 

KHAI HOANG LẬP ẤP

Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mạng cho phép thiết lập các doanh điền và đồn điền. Ông khai hoang lập ấp ở Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) và Hải Hậu (Nam Định). Ruộng đất khai khẩn ở đây đều dành một nửa làm công điền. Năm 1834, Trương Minh Giảng lập được 41 xã thôn và phường phố ở An Giang và Hà Tiên. Năm 1853, Nguyễn Tri Phương lập được 124 ấp trong các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Định Tường và Gia Định. Tháng 8-1854, Nguyễn Tri Phương lại lập được 21 cơ sở đồn điền rải rác ở các tỉnh Nam Kỳ và một số tỉnh Trung Kỳ. Tuy nhiên, các đồn điền sau này sớm trở thành sở hữu của các quan đồn điền (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).

 

 

 

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Với chính sách tái canh ruộng bỏ hoang và khai khẩn đất mới lập ấp, các triều đại quân chủ, nhứt là Nhà Nguyễn đã thu hoạch được kết quả rất khả quan. Năm 1820, số ruộng và đất nạp thuế trong cả nước là 3 076 300 mẫu ta. Năm 1847 tăng lên 4 063 892 mẫu ruộng và đất. Trong 27 năm, diện tích đất khẩn hoang tăng gần 1 triệu mẫu, tức 40%. Tuy nhiên, số ruộng bỏ hoang vẫn còn nhiều đến 395 488 mẫu (Trần Trọng Kim: Việc Đinh điền và thuế má, thời vua Minh Mạng). Dưới triều nhà Nguyễn, nạn lưu vong là nạn thảm khốc đối với nông dân vì họ bi bóc lột và đói khát.

Trong các triều đại nhà Nguyễn, lễ Tịch Điền vẫn còn tiếp tục tổ chức hàng năm. Đến thời vua Minh Mạng, lễ Tịch Điền được tổ chức long trọng hơn hết và sở Tịch Điền được thành lập để phụ trách việc này. Nhà Nguyễn còn xây dựng kho chứa thóc gạo ở các Trấn để trả lương cho công chức và phân phát cho dân chúng khi bị bão lụt, hạn hán hoặc lúc bị đói kém xảy ra. Đồng thời triều đình cũng chú trọng đến thuế điền thổ và phân chia ruộng làm ba hạng:

- Nhất đẳng điền 

- Nhị đẳng điền 

            - Tam đẳng điền         

Ở Gia Định, đất ruộng được chia làm hai loại: đồng bằng và ruộng núi. Thuế suất ở Miền Bắc cao hơn hết vì làm lúa 2 vụ, trong khi Miền Nam chỉ trồng một vụ. Với Nhất đẳng điền, Miền Bắc nộp 80 thăng/mẫu/năm (234 lít), Miền Trung 40 thăng/mẫu/năm (117 lít) và Miền Nam 26 thăng/mẫu/năm (76 lít).

 

 

ThuẾ ĐiỀn ThỔ TriỀu NguyỄn

 

“… Ở triều Nguyễn, địa bộ mỗi làng kể rõ diện tích và hạn giới của mỗi sở ruộng đất cùng tên họ của nguyên chủ và hiện chủ, trước hết là các hạng thảo điền (ruộng bằng), đến các hạng sơn điền (ruộng cao), rồi đến các hạng thổ (đất hoa màu và đất nhà ở). Lấy địa bộ ấy làm chủ đích, mỗi năm các làng phải làm một bản sổ ghi những điều thay đổi về điền chủ, gọi là tiểu tu điền bộ, rồi cứ năm năm một lần, phải làm một bản sổ ghi những điều thay đổi trong thời gian ấy, gọi là đại tu điền bộ. Bản sổ ấy kê các hạng ruộng thảo điền, sơn điền, các hạng đất hoa màu và đất nhà ở, thuế suất mỗi hạng cùng diện tích và tính chất công tư của mỗi sở.

      Ở triều đại Gia Long - Minh Mệnh thuế lệ đại để chia ra hai khu khác nhau: Ở Bố Chánh nội châu (từ Quảng Bình đến Khánh Hòa), thì ruộng công tư đều chia ba hạng mỗi mẫu ruộng phải nộp từ 10 đến 20 thăng. Ở Bố Chánh ngoại châu thì công tư điền không chia đẳng đệ, đều nhất luật phải nộp 15 thăng mỗi mẫu. Ngoài suất chính phải nộp bằng lúa, mỗi mẫu còn phải nộp bao nhiêu tiền thập vật, tiền khoán khố v.v… là các món phụ thu. Về thuế đất đại khái cũng theo phân lệ như thuế ruộng.” (Đào Duy Anh, 1938).

 

LỄ TỊCH ĐIỀN

 

“Vua Minh Mạng (1820-1841) từng xuống dụ coi việc này “thực là chính sự quan trọng của đấng vương giả”. Vua ra lệnh chuyển ruộng Tịch Điền về hai phường An Trạch và Hậu Sinh. Lễ được tổ chức vào tháng 5 âm lịch, gọi là tháng trọng xuân.

     Trước lễ 5 ngày, các nhân viên, kỳ lão nông phu, ca sinh và nhạc sinh... phải có mặt đầy đủ tại sở ruộng Tịch Điền dưới sự điều khiển của quan viên bộ Lễ. Trước một ngày, quan phủ Thừa Thiên phái thuộc hạ đến Võ Khố nhận roi, cày cùng thóc, thúng và các vật dụng khác, sau đó cung nghinh tới án vàng trước thềm điện Cần Chánh, báo cáo cho bộ Hộ rõ để bộ này tâu “rước vua thân hành duyệt đồ cày”. Cũng trong ngày hôm đó, nhà vua đến cung Khánh Ninh chuẩn bị cho việc làm chủ lễ vào rạng sáng hôm sau. Vua nghỉ bên phía trái đàn Tiên Nông là nơi diễn ra nghi lễ chính. Binh lính và voi hầu dàn chầu ở bên ngoài vòng tường bao quanh.

     Canh 5, ba hồi chuông trống gióng giả vang động một góc trời. Trâu vàng, trâu đen, kỳ lão nông phu đồng trang phục cùng cày, bừa mỗi loại 6 chiếc có mặt tại vị trí đã định. Ca sinh gồm 14 người cất lên bài ca về lúa, cùng với 8 nhạc sinh, 30 người cầm cờ ngũ sắc dàn hàng hai bên sở ruộng Tịch Điền. Bảy tiếng ống lệnh nổ vang khi đạo ngự nhà vua rời khỏi cung Khánh Ninh. Hai bên đường ngự đạo đi qua, bá quan văn võ và dân chúng đều quỳ lạy đón tiễn.. Nhà vua vào ngự tọa tại nơi nghỉ dành riêng, tiếp chậu nước rửa tay; xong lên đàn tế, ở phía đông, mặt quay về hướng tây, làm lễ dâng rượu 3 tuần. Lễ xong, đại nhạc và tiểu nhạc cử lên rước vua đến điện Cụ Phục là nơi để nhà vua thay mũ cửu long, áo hoàng bào và nghỉ ngơi một lúc.

     Khi nghe tiếng “xin vua làm lễ cày ruộng”, nhà vua rời khỏi điện Cụ Phục. Một viên quan bộ Hộ dâng cày, Phủ doãn phủ Thừa Thiên dâng roi. Nhà vua tay phải cầm cày, tay trái cầm roi bắt đầu cày ruộng, phụ giúp có 2 kỳ lão nông phu dắt trâu và 2 người đỡ cày. Viên phủ doãn bưng thúng thóc, một viên quan đường bộ Hộ đi bên cạnh để gieo giống. Nhà vua cày 3 lượt, giữa tiếng nhạc trầm vang. Xong việc, bộ Lễ tâu rước vua đến đài Quan Canh. Tiếp theo là lễ cày của các hoàng tử, thân công (cày 5 lần), quan viên văn võ (cày 9 lần) và nông phu ở xã Phú Xuân. Sau khi nghe nhân viên bộ lễ quỳ tâu “Lễ thành” nhà vua rời đài Quan Canh về điện Cụ Phục thay áo, mão rồi lên xe trở về cung Khánh Ninh. Về tới điện, khi nhà vua đã an tọa trên ngai vàng, bắn 5 tiếng ống lệnh. Bá quan bày hàng trước sân cung, khi nghe tiếng “Lễ cày ruộng tịch đã thành xin làm lễ mừng” thì đồng quỳ  lạy 5 lạy. Sau đó, Phủ doãn phủ Thừa Thiên lĩnh vải thưởng cho các kỳ lão nông phu [hạng 1 (8 người) được 4 tấm vải mỗi người; hạng 2 (66 người) được 3 tấm vải mỗi người]. Sau đó, toàn thể được nhà vua ban cho ăn yến một bữa” (Duy Từ, 2000).

 

3.  LỀ LỐI CANH TÁC LÚA THỜI PHONG KIẾN

Trồng lúa thời phong kiến chỉ là nối tiếp thời kỳ Bắc thuộc, không có sáng kiến kỹ thuật xuất hiện, ngoại trừ trong khâu dọn đất bùn sâu với chiếc phảng thay vì cày bừa trong ruộng thảo điền Nam Bộ; do đó, năng suất bình quân cả nước tăng chậm chạp, từ 1,0 lên 1,2 t/ha. Điều này cho thấy trình độ nông dân và kỹ thuật trồng lúa không tiến bộ nhiều lắm suốt thời gian gần 1 000 năm.

Thật vậy, các triều đại phong kiến và nông dân chưa biết đến trào lưu tiến bộ quan trọng đang xảy ra trên thế giới, như từng thấy ở châu Âu và Nhựt Bổn trong thế kỷ XVIII và XIX. Cho nên, trong phương pháp canh tác lúa, nông dân chưa biết hạt giống tuyển lựa và lai tạo để có năng suất cao; chưa có nông cơ, nông cụ để dọn đất làm mùa, chăm sóc và thu hoạch; chưa biết đến phân hóa học, thuốc sát trùng... Trong khi thủy nông chưa được phát triển đủ mạnh trong mùa khô và mùa mưa, nên mùa màng trồng trọt còn lệ thuộc rất nhiều vào thời tiết bất định hàng năm.

Do đó, nông dân chỉ biết trao đổi hạt giống tốt với nhau; dùng kinh nghiệm quyết định vụ mùa gieo trồng; sử dụng cày cuốc bằng sắt, bừa, trục để dọn đất, đánh bùn, diệt cỏ, giữ nước; dùng sức kéo trâu bò thay sức lao động; điều chỉnh mực nước qua dẫn thoát thủy ở nơi nào có thể làm được; dùng phân bón hữu cơ, phân lân nhất là ở miền Bắc và miền Trung. Họ còn dùng sức người để bảo vệ mùa màng, diệt cỏ, đuổi chim, bắt chuột cho đến ngày lúa chín, cũng như việc gặt hái, phơi sấy, biến chế và bảo quản với phương pháp cổ truyền.

Riêng Miền Nam với vùng đất mới khai thác, đất đai vốn màu mỡ, cây lúa phát triển rất sung túc cho năng suất cao. Từ Gia Định (miền Đông Nam Bộ) đến Rạch Giá, ruộng đất được chia ra làm 3 loại, với các phương pháp canh tác khác nhau:

(i)     Ruộng miền đồi núi còn gọi sơn điền tập trung ở Bà Rịa, Đồng Nai, đất cao ở khu vực sông Vàm Cỏ và vài nơi khác, được dân làm theo lối ruộng rẫy. Vào mùa nắng, họ phát quang cây cỏ trên đất gò cao; đến đầu mùa mưa: đốt cây cỏ làm phân, chọc lỗ, gieo hạt, lắp đất, thỉnh thoảng làm cỏ, canh chừng thú rừng, đuổi chim; đến ngày lúa chín: hái hoặc cắt gié lúa bằng tay hay liềm, nhíp. Sau 3-4 năm, cỏ dại mọc nhiều và mức phì nhiêu đất giảm họ đi tìm nơi khác tiếp tục canh tác.

(ii)   Ruộng ở các vùng bùn sâu còn gọi thảo điền ở Trấn Biên và Phiên Trấn. Loại ruộng này có bùn sâu, nông dân không thể dùng trâu cày, phải chờ mưa nhiều đầy ruộng mới dùng chiếc phảng[13] để cắt cỏ lác, gom cỏ đắp bờ, dọn mặt đất bằng sạch rồi cấy lúa. Với loại ruộng này, cứ gieo 1 hộc thóc thì thu hoạch 100 hộc.

(iii) Ruộng đầm tốt nhất cũng là một loại thảo điền nhưng ruộng ít bùn hơn nên có thể dùng trâu để dọn đất: cày (xới đất), bừa (dọn cỏ, làm bằng mặt ruộng) và trục (làm nhuyễn đất thành bùn để chôn cỏ, giữ nước). Vào mùa mưa, nông dân đợi ruộng đầy nước còn gọi “ruộng nổi nước” để thấm đất trước khi cày. Họ làm sạch cỏ bờ đê, đắp bờ và đem mạ ra cấy. Nương mạ được chuẩn bị trước đó từ 1,5-2 tháng vào đầu mùa mưa. Ở Long Hồ, cứ gieo một hộc thóc thì thu hoạch được 300 hộc thóc. 

Tóm lại, trong thời Độc Lập phong kiến, Việt Nam nỗ lực bành trướng bờ cõi về phương Nam để vừa tránh xa âm mưu thâm độc của thế lực phương Bắc vừa phát triển kinh tế nông nghiệp để nuôi dân củng cố đất nước, với cuộc Nam tiến khai khẩn đất hoang mở rộng điền thổ canh tác; nhưng trình độ kỹ thuật nông nghiệp trồng lúa không thay đổi nhiều, vẫn tiếp nối lề lối trồng trọt từ thành quả giao tiếp giữa hai nền văn hóa Đông Sơn và văn minh Hán tộc.

Đến quá nửa thế kỷ XIX, có một số người cải cách với nhiều tâm huyết và can đảm đưa ra những kiến nghị canh tân xứ sở, gồm cả nông nghiệp, nhưng đều thất bại. Dưới thời nhà Nguyễn, Ông Nguyễn Trường Tộ, người ở thôn Bùi Châu, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An đã làm bản điều trần để xin vua và triều đình canh cải mọi việc để nước nhà phú cường, bao gồm cả lãnh vực nông nghiệp. Ngày 14-10-1871, Ông làm bản điều trần về việc nông chính:“Chấn hưng nông nghiệp: đặt nông quan (lấy các cử nhân, tú tài cho chuyên học tập về nông chánh) và các sở chuyên môn để cải lương cách làm ruộng, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang; kinh lý việc dẫn thủy nhập điền” (Dương Quảng Hàm, 1941). Tiếc thay vua Tự Đức không có ý chí quả quyết của nhà lãnh đạo tài ba, triều đình có nhiều quan lại với đầu óc thủ cựu hơn nghinh tân, nên tất cả các bản điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ và những người canh tân khác không được thi hành! Đất nước phải chờ đến thời Pháp thuộc, các kỹ thuật khoa học tân tiến mới được du nhập và áp dụng, cũng như cách tổ chức và quản lý nông nghiệp trong nước mới thay đổi; nhờ đó nền nông nghiệp VN thoát khỏi cái xác cũ rích để tiến bộ mau lẹ, bên cạnh biết bao nỗi đau khổ nhục nhã của kẻ bị trị!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Duy Từ. 2000. Lễ Tịch Điền. Lễ hội cung đình triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, tr. 82-85.
  2. Dương Quãng Hàm. 1941. Việc canh tân, Nguyễn Trường Tộ và chương trình cải cách của ông. Việt Nam Văn Học Yếu Sử. Institute de l’Asie Sud-Est, XIV: 346-354.
  3. Đào Duy Anh. 1938. Việt Nam văn hóa sử cương. NXB Xuân Thu, Texas (tái bản 1976), 345 tr.
  4. FAO. 2007. FAOSTAT,
  5. Greenland, D.J. 1974. Evolution and development of different types of shifting cultivation. In Shifting cultivation and soil conservation in Africa. Food and Agriculture Organization, Rome, 24:5-13.
  6. Huard, P. and Durant, M. 1954. Connaissance du Vietnam. Imperie nationale, École française d’Extrême-orient, Hanoi, 1954.
  7. Huỳnh Lứa, Lê Quang Minh, Lê Văn Năm, Nguyễn Nghị và Đổ Hữu Nghiêm. 1987. Lịch sử khám phá vùng đất Nam Bộ. NXB TP/HCM, 275 trang.
  8. Huỳnh Văn Lang. 2005. Công Chúa Ngọc Vạn. Tập san nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai - Cửu Long, số 2, Tả Quân Lê Văn Duyệt Foundation ấn hành, trang 50-74.
  9. Lê Thành Khôi. 2014. Lịch sử Việt Nam: từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. NXB Thế giới, Hà Nội, 621 tr.
  10. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  11. Phan Đại Doãn, 2001. Làng xã Việt Nam - Một số vấn đến đề kinh tế - văn hóa - xã hội. NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 366 tr.
  12. Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.
  13. Sơn Nam. 2000. Lịch sử khẩn hoang Miền Nam. NXB Xuân Thu, California, Hoa Kỳ, 330 tr.
  14. Tạ Chí Đại Trường. 1996. Những bài dã sử Việt. NXB Thành Văn, California, Hoa Kỳ, 431 tr.
  15. Trần Trọng Kim. 1990. Việt Nam sử lược, Quyển I & II. NXB Đại Nam.

CHƯƠNG 11

PHÁT TRIỂN

TRỒNG LÚA CẢI TIẾN

THỜI PHÁP THUỘC

 (1885-1954)

Những cố gắng tăng gia sản xuất nông nghiệp của thực dân, đặc biệt lúa gạo tại Việt Nam trong thời Pháp thuộc chủ yếu nhằm phục vụ quyền lợi người Pháp và các cộng sự viên của họ, trong lúc đa số quần chúng nông thôn vẫn phải làm việc vất vả nghèo khó. Ở Miền Nam, người Pháp khuyến khích công tác khẩn hoang với các biện pháp hỗ trợ nhà nước đô hộ, như cho vay lãi suất nhẹ, miễn thuế, cấp quyền sở hữu ruộng đất sớm nhằm thúc đẩy sản xuất nhiều lúa gạo để xuất khẩu trục lợi, cao nhứt 1,5 triệu tấn gạo vào năm 1921. Chương trình này đã đạt được thành quả lớn, diện tích và sản lượng lúa tăng đáng kể; nhưng phần lớn đất đai khai khẩn rơi vào tay giới quyền lực và giàu có địa phương. Ở Miền Bắc, dân cư đông đảo nhưng đất đai hạn hẹp nên những nỗ lực phát triển vùng này của Pháp chỉ nhằm tránh nạn đói tương lai. Do đó, xã hội bấy giờ xuất hiện những tầng lớp giai cấp rõ rệt như: đại phú nông, trung nông, tiểu nông, và tá điền nghèo bị bóc lột.

Ngay buổi đầu, bên cạnh các tham vọng tiêu cực của chánh sách đô hộ, người Pháp đưa ý niệm khoa học và kỹ thuật vào ứng dụng trong các sinh hoạt hàng ngày bản xứ. Riêng nông nghiệp, họ tổ chức quản lý, thành lập ngành nghiên cứu để cải tiến hoạt động sản xuất nói chung ngành lúa gạo nói riêng, và giới thiệu lần đầu tiên các kỹ thuật tiên tiến thế giới bấy giờ: phân hóa học, thuốc sát trùng sát khuẩn, thuốc diệt cỏ, giống cải thiện, nông cơ, nông cụ, phương pháp phân tích khoa học... vào xã hội cổ lổ Việt Nam, nhằm cải tiến sản xuất nông sản và nâng cao năng suất còn thấp kém. Trong gần một thế kỷ xâm lăng, năng suất lúa tăng nhanh gần gấp đôi, từ 1,2t/ha khi Pháp tấn công thành Gia Định năm 1859 lên gần 2t/ha vào cuối thập niên 1950, so với 2000 năm Bắc thuộc và nền Độc Lập phong kiến (từ 0,54 lên 1,2t/ha). Năm 2017, năng suất bình quân cả nước đạt đến gần 5,6t/ha nhờ Cuộc Cách Mạng Xanh và Đổi Mới kinh tế sau này. 

1.  TỔ chỨc quẢn lý nông nghiỆp thỜi Pháp ThuỘc

Hệ thống quản lý nông nghiệp ở Việt Nam thời Pháp Thuộc được thực hiện tùy theo bộ máy cai trị do Pháp thiết lập. Các cơ quan đầu tiên được thực hiện ở Nam Kỳ, sau đó lần lượt áp dụng cho toàn Đông Dương, gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào. Cơ quan quản lý ngành được thiết lập chung cho Đông Dương và cũng có cơ quan quản lý riêng cho từng Kỳ, khu vực; trong khi vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống quản lý làng xã và tầng lớp cường hào, địa chủ để cai trị. Những tài nguyên được Pháp chú ý trước hết là lúa gạo và gỗ rừng, tiếp theo cây cao su, cây công nghiệp khác như cà phê, trà, cây có dầu, dâu tằm…, bên cạnh khai thác các mỏ than, kim loại.

            Hệ thống cai trị của Pháp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2015) gồm có Toàn Quyền thay mặt chính phủ Pháp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới Toàn Quyền là Thống Đốc Nam Kỳ, Thống Đốc Bắc Kỳ, Khâm Sứ Trung Kỳ, Lào, Cao Miên. Cơ quan quyền lực tối cao là Hội đồng tối cao Đông Dương, mà Chủ Tịch là Toàn Quyền và các ủy viên đều là người Pháp, chỉ có hai người VN đại diện cho bản xứ. Trong số ủy viên Hội đồng có Giám đốc các công sở, viên quan đứng đầu 5 xứ, Chủ sự các Phòng Thương Mãi và Canh Nông.

            Ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ có bộ máy cai trị riêng. Ở Nam Kỳ có Phòng Canh Nông thành lập 1897 để quản lý nông nghiệp. Ở Trung Kỳ có đại diện của Phòng Thương mại và Canh nông Đông Dương, ở Bắc Kỳ có hai Phòng Thương mại và Canh Nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng. Về sau Pháp cải tổ thành lập các Tổng nha, Sở cho toàn Đông Dương và Nha ở các xứ cùng với các ngành ở cấp tỉnh. Năm 1900, thành lập Tổng nha Nông nghiệp và Thương mại Đông Dương, năm 1901 đổi thành Tổng nha Nông nghiệp, Rừng và Thương mại, và Sở Tổng Thanh tra nông, lâm, mục. Ở cấp Kỳ, quản lý nông nghiệp thuộc Sở: Sở Canh nông, Sở Thú y (gồm cả chăn nuôi), Sở Thủy lâm. Ở cấp tỉnh có Ty Canh nông, Ty Thú y, Ty Thủy lâm trực thuộc Công sứ; Các nhân viên của Ty, Trung tâm trực thuộc trung ương. Hệ thống quản lý này còn được tiếp tục ở Miền Nam Việt Nam cho đến 1975 với chút ít thay đổi.

Về thủy lợi, Pháp thành lập các Ty Nông giang quản lý từ hệ thống hoặc công trình thủy nông ở từng vùng, cũng có khi là các Khu Thủy nông. Đứng đầu ngành công chánh Đông Dương là Tổng Thanh tra Công chánh. Ở mỗi Kỳ có Tổng nha công chánh riêng. Ở Bắc Kỳ có 4 sở (Sở trị thủy, hộ đê, nghiên cứu và bảo dưỡng). Tổng nha Công chánh Trung Kỳ có 4 sở (2 sở cầu đường và 2 sở thủy nông). Ở Nam Kỳ không có Tổng nha Công chánh Nam Kỳ, nhưng có Tổng nha Thủy nông và Giao thông đặc trách nghiên cứu và xây dựng thủy nông và giao thông trên sông ở Nam Kỳ và Cao Miên.

Công trình thủy lợi có mục tiêu mở rộng đất mới cho canh tác, tăng 2-3 vụ lúa mỗi năm và nâng cao năng suất lúa. Các công trình này gồm có đào kinh, nạo vét sông ngòi và thoát thủy ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); củng cố các đê cũ, đắp thêm đê mới, đào thêm kinh dẫn thoát nước ở Bắc bộ; và đào kinh dẫn nước vào ruộng ở Trung bộ (Xem thêm Chương 14: Tiến hóa qui trình sản xuất lúa - Phát triển thủy nông). 

2.   NGÀNH NGHIÊN CỨU LÚA GẠO VÀ GIÁO DỤC NÔNG NGHIỆP THỜI PHÁP THUỘC

Đến giữa thế kỷ XIX, nông dân Việt Nam vẫn còn canh tác theo phương pháp cổ truyền, có tính cách quãng canh, sử dụng nhiều sức lao động, với năng suất thấp kém; trong khi đó, kiến thức khoa học và kỹ thuật Tây phương phát triển mạnh từ thế kỷ XVIII được thế giới áp dụng vào mọi lãnh vực, gồm cả nông nghiệp.

Sau khi chiếm 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ (1862), người Pháp chú ý ngay ngành nông nghiệp để thủ lợi. Họ ra nghị định thành lập Vườn Bách Thảo năm 1864. Năm sau thành lập Hội Nông Nghiệp và Kỹ Nghệ Nam Kỳ. Hai năm sau (1866), Hội đổi thành Hội Nghiên Cứu Đông Dương tại Sài Gòn (Société des Études Indochinoises de Saigon), chỉ nhằm cung cấp kiến thức nông nghiệp cho những tư nhân khai thác trồng trọt. Tiếp theo, một số cơ sở lần lượt ra đời tại Sài Gòn: Nha Canh Nông và Thương Mại Đông Dương (Direction de l’Agriculture et du Commerce de l’Indocnhine) (1898), Nha Canh Nông Nam Kỳ (Direction de l’Agriculture de la Cochinchine) (1899), Phòng Thí Nghiệm Phân Tích Hóa Học Nông Nghiệp và Kỹ Nghệ (Laboratoire d’analyses chimiques, agricoles et industrielles) (1898), Sở Khí Tượng (Service météorogique)… Các cơ quan này có nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết những vấn đề kỹ thuật cho công tác khai thác ĐBSCL. Năm 1927, Nam Kỳ còn có 7 Trạm thí nghiệm lúa và 2 Trạm sản xuất giống hoạt động (Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).

Ngoài lúa gạo, người Pháp đặc biệt quan tâm đến các loại cây công nghệ như cà phê, trà, cao su, cây có dầu và các đồng cỏ để chăn nuôi (Dumont,1995). Vài thí nghiệm về phương pháp canh tác và tuyển chọn giống lúa được thực hiện trong giai đoạn nầy (Angladette, 1966). Chẳng hạn, người Pháp nhập giống lúa Miến Điện để trồng thử vào 1888 tại tỉnh Mỹ Tho. Kết quả cho thấy giống lúa Miến Điện cho năng suất cao trên vùng đất cao, nhưng không thích hợp với các vùng đất thấp. Năm 1893, họ trồng thử một lần nữa, nhưng thất bại vì lúa giống đem về quá muộn và không được tuyển chọn kỹ lưỡng. Các chuyên gia Pháp nhận thấy du nhập lúa giống không đem đến kết quả tốt cho phát triển ĐBSCL, nên quyết định tập trung nhiều hơn vào tuyển lựa giống trong nước.   

2.1.      Viện Khảo Cứu Nông Học: Phòng Thí Nghiệm Di Truyền và Tuyển Chọn Lúa. Tại Miền Bắc, ba Trại Thí Nghiệm của Sở Nông Nghiệp Hà Nội được thành lập vào 1904 ở Phú Thy (tỉnh Hưng Yên) cho vùng Châu Thổ và tại Thanh Ba và La Phổ (tỉnh Phú Thọ) cho vùng Trung du để nhằm phục vụ xuất khẩu các cây kỹ nghệ (Dumont, 1995). Ở miền Nam có Trại thí nghiệm cây ăn trái ở Bàu Cá, cây thuốc lá ở Hớn Quản và cây cao su ở Xã Trạch (Capus, 1918). Tuy nhiên, công tác nghiên cứu còn rải rác thiếu sự điều hợp. Cho nên, Viện Khoa Học Đông Dương được thành lập tại Sài Gòn và sau đó trở thành Viện Khảo Cứu Nông Học năm 1919, trong đó có Phòng Thí Nghiệm Di Truyền và Tuyển Chọn Lúa. Năm 1924, Viện trở thành Viện Khảo Cứu Nông Học và Lâm Nghiệp Đông Dương (Dumont, 1995) (Hình 1) đặt trực thuộc Tổng Thanh Tra Nông Lâm Súc, gồm có phòng thí nghiệm hóa học, côn trùng học, vi khuẩn học, di truyền học, thực vật bệnh học, kỹ thuật lâm học… Viện này được tiếp tục hoạt động cho đến khi thực dân chấm dứt. Sau đó, Viện đổi tên Viên Khảo Cứu Nông Nghiệp cho đến 1975 và hiện nay là Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam.  

Hình 1: Viện Khảo cứu nông lâm Đông Dương 1924

Tầm quan trọng của lúa gạo được thực dân đánh giá cao. Ngoài phục vụ độ 10 triệu dân trong nước vào đầu thế kỷ XX, ngành sản xuất lúa gạo còn mang đến nguồn lợi quan trọng cho ngân sách người cai trị qua xuất khẩu lúa, gạo và phó sản. Tuy nhiên, chất lượng lúa gạo xuất khẩu Việt Nam rất kém so với gạo Thái Lan và Miến Điện, làm hạ thấp giá cả và giới xuất khẩu mất lợi tức đáng kể. Do tầm quan trọng đó, Phòng Thí Nghiệm Tuyển Chọn Hạt Giống Lúa được thành lập tại Sài gòn trong 1909 và sau đó thay đổi liên tục để trở thành Phòng Thí Nghiệm Di Truyền và Tuyển Chọn Giống Lúa trong 1912, nhằm cải tiến chất lượng lúa gạo qua:

1.      tuyển chọn cơ học như quạt lúa, sàng lọc và máy phân loại theo tỷ trọng;

2.      Tuyển chọn theo gia phả;

3.      Thí nghiệm thích ứng địa phương; và

4.      Lai tạo giống.

2.2.      Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa Cần Thơ

Phòng Thí Nghiệm Di Truyền thu thập khoảng 800 giống lúa (Carle, 1927) để tuyển chọn hạt giống theo cơ giới cho đến 1915 và tuyển chọn giống lúa bằng “dòng thuần” bắt đầu 1916, sau khi một Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa được thành lập đầu tiên ở tỉnh Cần Thơ vào 1913. Năm 1917, cuộc tạo giống đầu tiên giữa giống lúa du nhập từ Java, Indonesia tên “Caroline” (được du nhập từ Mỹ) với giống lúa địa phương “Tàu Hương” (Carle, 1927). Trung Tâm Lúa Cần Thơ có 20 ha và sau tăng lên 44 ha, dưới sự điều khiển của Kỹ sư Nông vụ Trần Văn Hữu, người Việt Nam đầu tiên làm thí nghiệm lúa chính thức trong nước. Mỗi năm Trung tâm này cung cấp từ 60 đến 80 tấn lúa giống tốt cho các tỉnh để trồng xuất khẩu. Năm 1923, các trại lúa khác, nhỏ hơn từ 10-15 ha, còn gọi là Trại lúa được thành lập tại một số tỉnh trồng lúa quan trọng như Bạc Liêu, Sóc Trăng (Bãi Xàu), Vĩnh Long, Mỹ Tho (Cai Lậy), Trà Vinh và Gò Công để phục vụ và hỗ trợ kỹ thuật cho các vùng địa phương (Trần Văn Hữu, 1927). 

Sau thời thực dân, Trung tâm lúa này trở thành Trại Thí Nghịệm Lúa Cần Thơ với 2 ha đất để thử nghiệm các giống lúa cấy 2 lần. Trại Thí Nghiệm Lúa Cần Thơ là một trong 7 Trại thí nghiệm lúa nằm rải rác khắp Miền Nam, như Huế, Phú Yên, Ninh Thuận, Long An (đất phèn), Long Xuyên (Bình Đức cho lúa nổi) và Bãi Xàu (đất mặn); và Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa Long Định trực thuộc Sở Lúa Gạo cho đến 1973 và Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp cho đến 1975. 

2.3.      Cục Túc Mễ Đông Dương

Năm 1923, Phòng Di Truyền của Viện Khảo Cứu và Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa Cần Thơ trở thành hai cơ quan chính thức để nghiên cứu lúa gạo cho toàn cõi Đông Dương, gồm có Nam Kỳ (Nam bộ), An-nam (Trung bộ), Bắc Kỳ (Bắc bộ), Cam-Bốt và Lào cho đến khi Cục Túc Mễ Đông Dương (L’Office indochinois du riz), một cơ quan tự trị được chính thức thành lập vào 1930. Mục đích của Cục Túc Mễ Đông Dương là “cải thiện canh tác, xay chà và thương mãi lúa gạo” của vùng. Cục này được điều hành bởi một Hội Đồng Quản Trị gồm 8 hội viên do Toàn Quyền bổ nhiệm, đặt dưới quyền điều khiển của Tổng Thanh Tra Nông Lâm Súc trong chức vụ Chủ Tịch và một Phó Chủ Tịch do Toàn Quyền chỉ định. Ngân sách của Cục một phần từ nhà nước và một phần từ thuế lúa gạo (Phạm Cao Dương, 1967). Cục này gồm có hai bộ phận: một bộ phận ở Miền Nam Đông Dương tại Sài Gòn, có phòng thí nghiệm hóa học và nông học. Bộ phận này đặc trách Nam Việt, Miên và Lào. Bộ phận thứ hai trực thuộc An Nam có văn phòng tại Huế đặc trách lúa gạo ở miền Trung và Bắc. Những phòng thí nghiệm của Cục sau này trở thành Nha và Sở. Sau vài năm, Cục Túc Mễ có thêm Phòng Thủy Nông (Dumont, 1995). 

Sau khi chế độ thực dân bị xóa, Cục được đổi tên Sở Túc Mễ và cuối cùng Sở Lúa Gạo gồm có ba phòng: Kỹ thuật, Sản xuấtHạt giống với khoảng 200 nhân viên tai trung ương và các Ty Nông Nghiệp địa phương. Sở này trực thuộc Bộ Cải Cách Điền Địa và Canh Nông Miền Nam có nhiệm vụ khảo cứu và tăng gia sản xuất lúa gạo Miền này cho đến 1975. Tại mỗi Ty Nông Nghiệp tỉnh ở Miền Nam, có một tổ 2-3 nhân viên cấp Kiểm Sự và Huấn Sự đặc trách phát triển lúa gạo trong tỉnh.   

2.4.      Các Trường Nông Lâm

Nền giáo dục nông lâm chỉ bắt đầu trong thời Pháp thuộc. Bên cạnh các phòng, viện và cục nghiên cứu và sản xuất, người Pháp đã thiết lập các trường nông lâm để đào tạo chuyên viên phục vụ nhà nước cai trị và các ngành khảo cứu để tăng gia sản xuất trong nước (Phạm Cao Dương, 1967):

- Trường Thú Y Hà Nội được thành lập năm 1906 và được xem như một ban của Trường Y Khoa Bắc Kỳ. Đến năm 1910 đổi thành trường riêng biệt và 1917 cải tổ thành Trường Thú Y Đông Dương.

- Trường Cao Đẳng Nông Lâm Hà Nội thành lập 1918, với thời gian học 2 năm rưỡi và một khóa thực hành 9 tháng tại các sở nông lâm hay các đồn điền tư nhân.

- Trường Canh Nông Thực Hành Tuyên Quang thành lập 1918 nhằm đào tạo các nhà trồng trọt bản xứ hoặc phụ giúp các chuyên viên châu Âu. 

            - Trường Nông Lâm Thực Hành Bến Cát thành lập từ 1917 có mục tiêu như trường Tuyên Quang, nhưng ít người theo học vì khó tìm việc làm. Năm 1926 trường đổi thành Trại Nông Nghiệp dành đào tạo những giám thị canh tác cho đồn điền. 

3.   CƠ CẤU XÃ HỘI NGÀNH TRỒNG LÚA

Trước thời thực dân Pháp, xã hội nông thôn Việt Nam có truyền thống lâu đời và được tổ chức chặt chẽ với những tập tục, lệ làng, hội hè địa phương, đặc biệt nhằm tương trợ, giúp đỡ nhau khi hữu sự. Đến ngày nay, một số tập tục này còn tồn tại ở nhiều nơi trong nước. Trong ngành trồng lúa, nông dân thường có thông lệ hỗ trợ lẫn nhau qua việc cho mượn nhân công trong các hoạt động cấy lúa, làm cỏ và gặt lúa.

Trong thời Pháp thuộc, ruộng đất gồm có hai loại: tư điền do nông dân làm chủ, có thể phân chia trong gia đình và công điền dành để giúp đỡ thành phần nghèo hoặc tái phân chia để giải quyết một phần dân số gia tăng nhanh, giúp công việc xã hội, văn hóa (đình, miểu, chùa,...) và đặc biệt bảo đảm việc thu thuế của xã ấp (Dumont, 1995). Mỗi xã ở miền Nam có viên Thủ khoản chịu trách nhiệm về ruộng nương và giữ gìn công điền. Cho nên, tổ chức xã hội nông thôn Việt Nam tương đối ít bất công so với một số nước ở Nam Á như Ấn Độ, nơi các tầng lớp xã hội quá cách biệt và ảnh hưởng tôn giáo quá mạnh.

Tuy nhiên, tình trạng phân chia ruộng đất ngày càng tồi tệ hơn. Ruộng đất được tập trung vào một số người có quyền lực, giàu có hoặc thân cận với người cai trị. Các công điền lần lượt bị người có quyền thế chiếm hữu. Riêng người Pháp chiếm những mảnh đất trù phú hoặc các công điền, công thổ. Năm 1890, họ khai thác 11 390 ha trên toàn cõi Đông Dương. Đến năm 1939, diện tích này lên đến một triệu hecta, trong đó 610 000 ha ở Nam Kỳ (Phạm văn Sơn, 1960).

Giai cấp xã hội ngày càng cách biệt lớn, đặc biệt ở miền Nam. Gần phân nửa diện tích trồng lúa của nước rơi vào tay của một thiểu số người, trong khi đại đa số nông dân là tiểu nông có ít ruộng đất hoặc không có. Đa số ruộng đất thường cho mướn bằng lúa hoặc tiền mặt từ 1/3 đến phân nửa giá trị vụ lúa thu hoạch bình thường. Ở An Nam, người ta thường chia đều vụ mùa: phân nửa cho chủ điền và phân nửa cho người mướn. Nông dân cũng thường vay tiền để làm mùa, với lãi suất bình quân 3-5% mỗi tháng và có khi lên đến 10% mỗi tháng (King, 1977). 

3.1.   Miền Bắc 

Vào năm 1930, vấn đề tăng dân số Miền Bắc với mức độ 3,8% mỗi năm được các giới quan sát đặc biệt lưu ý. Người ta tiên đoán với mức độ gia tăng đó, Miền này có thể gặp nạn đói trong vòng 25 năm tới, nhưng điều này không xảy ra cho toàn vùng nhờ vào bản tính cần cù và năng động của dân tộc trong nỗ lực tăng gia sản xuất lương thực. Tuy nhiên, vào năm 1929, dân số tỉnh Nghệ An tăng nhanh nên nạn đói xảy ra làm khoảng 500 người chết (Dumont, 1995). Sau đó, do áp lực chiến tranh, nạn đói lịch sử năm 1945 đã làm thiệt mạng đến 2 triệu người (Hỉnh 2 và 3).

Về xã hội, thành phần nông dân có thể được phân ra làm 3 hạng: Bần cố nông (tiểu nông), Trung nông và Phú nông. Trong cuộc kiểm tra vào thập niên 1930, 91% nông dân miền Bắc là Bần cố nông (tiểu nông) canh tác dưới 1,8 ha, chiếm 37% tổng diện tích ruộng và 9% là Trung nông (5-50 mẫu hay 1,8-18 ha) và Phú nông (50-100 mẫu hay 18-36 ha) chiếm 43% đất ruộng. Số ruộng còn lại

 
NẠN ĐÓI NĂM 1945

 Hình 2: Nạn đói 1945 (Ảnh của Vỏ Anh Ninh, 1945)

 

Trong thời Pháp thuộc, người ta không thể quên được nạn đói trầm trọng xảy ra ở miền Bắc. Vào đầu thập niên 1940, miền Bắc đã sản xuất đủ lúa gạo cho giới tiêu thụ trong vùng, với 1 760 000 tấn thóc trên 620 000ha ruộng; nhưng chế độ quân phiệt Nhật và chánh sách thực dân Pháp đã gây ra nạn đói lịch sử giết chết vô số người năm 1945.

Bọn quân phiệt Nhật vừa chiếm Việt Nam xong, đã bắt buộc nông dân trồng cây bố để phục vụ quân trang thay vì lúa và bắt đầu thu mua lúa gạo với giá rẽ để phục vụ cho đoàn quân viễn chinh. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng thu mua lúa gạo để tồn trữ chờ lực lượng đồng minh trở lại xâm lăng, nhưng điều này không hề xảy ra. Ngoài ra, người Pháp còn khuyến khích dân miền Nam dùng lúa gạo và nếp để nấu rượu thay thế xăng hoặc dùng lúa thay thế than đá để chạy nhà máy phát điện vì khan hiếm xăng dầu. Cho nên, vào mùa đông 1944, nông dân miền Bắc bắt đầu thiếu lương thực để nuôi gia đình. Họ phải bỏ làng ấp đổ xô ra các đô thị để xin ăn, nhưng vô vọng. Nạn đói bắt đầu từ cuối mùa đông 1944 và kéo dài gần một năm, làm thiệt mạng khoảng 2 triệu người  (Phạm Kim Vinh, 1976).

 

 




Text Box: Hình 3: Nạn đói 1945 ở Miền Bắc (ảnh Vỏ An Ninh, 1945)20% là công điền (Gourou, 1955). Dĩ nhiên, có những thành phần trung gian giữa các loại này. Những ruộng đất rộng lớn thường ở ngoại biên của đồng bằng sông Hồng, trong tỉnh Vĩnh Yên và nhất là Bắc Giang.

Bần cố nông (tiểu nông): đa số nghèo, chỉ có vài sào ruộng, cày, bừa và các dụng cụ làm ruộng. Họ dùng tất cả sức lao động trong gia đình để canh tác lúa: từ gieo mạ, cày cấy cho đến thu hoạch và tồn trữ. Ngoài vụ mùa, họ phải đi ra thành phố hoặc các nơi khác tìm việc làm thêm để nuôi gia đình.

Trung nông có đời sống tương đối khá hơn, có trâu hoặc bò để giúp canh tác. Họ dùng trâu bò cho canh tác ruộng nhà trong thời gian ngắn. Thời gian còn lại họ cho mướn hoặc đi cày bừa mướn cho những nông dân khác. Họ không dư nhiều lúa gạo, nếu gặp năm thất mùa, họ phải đi vay mượn hoặc đi xa để làm việc kiếm tiền. Hai thành phần nông dân trên không bị thu lúa ruộng sau khi thu hoạch.

Phú nông và gia đình có đời sống sung túc. Họ có khoảng từ 50 đến 100 mẫu (hoặc >36 ha) và không còn làm việc bằng chân tay nữa. Họ có vài cặp trâu bò và thường chỉ làm một phần ruộng đất tốt vào vụ tháng 10, đất còn lại cho mướn đến vụ tháng 5. Họ là loại nông dân có đầu óc tiến bộ, biết nhiều kỹ thuật cải thiện, là thành phần có quyền cao, chức trọng trong xã hội, chẳng hạn như Hội Đồng, Cai Tổng...; do đó ruộng đất ngày càng rộng lớn hơn, nhưng không thể tự canh tác hết nên thường cho nông dân không đất mướn để thu huê lợi, đó là những những tá điền.

Hình 4: Sân phơi lúa của một phú nông ở Bắc Ninh, 1929

(Dumont, 1995)

Tá điền là người mướn ruộng hoặc làm mướn cho chủ điền vì họ không có đất. Thành phần này thường bị chủ điền bóc lột nhiều nhất. Những người mướn ruộng phải trả bằng lúa vừa thu hoạch hoặc bằng tiền, chủ điền trả thuế điền thổ cho chính quyền địa phương. Ở những vùng đất kém màu mỡ, tá điền phải trả bằng tiền vì chủ điền không muốn rủi ro, thiệt hại cho mình. Người tá điền được cung cấp dụng cụ canh tác, hạt giống, phân và làm đất. Nếu chủ điền cấp tiền để canh tác, họ sẽ làm hợp đồng và tá điền phải trả thêm tiền lời (Dumont, 1995). 

Ngoài ra, còn có hình thức chia thóc giữa người mướn và chủ ruộng do sự đồng thuận giữa hai thành phần này qua một hợp đồng. Thể thức này lúc đầu rất hiếm, nhưng bành trướng về sau. Người nông dân hợp đồng có phương tiện canh tác, còn chủ điền cung cấp đất. Trong phương thức này, chủ điền thường muốn tham gia thu hoạch (Hình 4). Các mô hình xã hội liên hệ đến canh tác lúa nêu trên kéo dài đến khi chế độ thực dân chấm dứt.

Ngoài ra, nhà nước còn tổ chức các hợp tác xã; khuyến khích nông dân làm việc tập thể; và cung cấp các phương tiện canh tác, tín dụng, hạt giống, trâu bò, và dụng cụ nông nghiệp để thực hiện vụ mùa; nhưng tình trạng sản xuất lúa không cải tiến nhiều, nếu không nói thụt lùi (Dumont, 1995).  

3.2.   Miền Nam

Vào thập niên 1930, các giai cấp nông dân cũng giống như Miền Bắc, nhưng khoảng cách giữa các giai cấp lớn hơn. Tiểu nông thường có dưới hai hecta (1,87 ha) đại diện 71,7% nông dân, chỉ canh tác trên 15% diện tích đất trồng. Thành phần Trung nông (5-50 ha) và Phú nông hay Đại điền chủ (trên 50 ha) chiếm 82% đất trồng, và số đất còn lại là công điền (Angladette, 1966). Ở châu thổ sông Cửu Long, đa số ruộng đất tập trung vào tay các đại điền chủ. Năm 1945, chỉ 2,5% nông dân là chủ điền với trên 50 ha, chiếm phân nửa diện tích canh tác, trong khi 70% người làm chủ ruộng dưới 5 ha chỉ chiếm 12% diện tích đất. Hai phần ba nông dân là người không có ruộng đất (King, 1977). 

Nhiều Phú nông có ruộng hàng ngàn mẫu - “ruộng cò bay thẳng cánh” ở các tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau..., nhưng ít khi họ dùng kỹ thuật canh tác cải tiến. Những đại điền chủ có hàng chục lẫm lúa mà mỗi lẫm là một dãy nhà ngói liên tiếp, rộng 4-5m, dài từ vài chục đến hàng trăm thước. Ruộng đất của hai thành phần sau này hoặc do họ tự canh tác, hoặc cho người khác mướn hoặc họ mướn người đại diện hay quản lý phụ trách tổ chức việc canh tác và thu lúa ruộng cho chủ điền. 

Giới tiểu nông có những đặc tính như sau:

1)  Đất đai nhỏ, dưới hai hecta hoặc không có đất đai phải đi mướn đất để làm ruộng. Đất ruộng này ngày càng nhỏ hẹp do tục lệ phân chia gia tài cho con cháu trong gia đình;

2)  Không có đủ vốn liếng để canh tác, nhất là mua phân hóa học, thuốc sát trùng, cấy lúa, gặt lúa, v.v., nên phải vay mượn trước mùa lúa với lãi suất cao. Nhiều nông dân phải bán “lúa non” để thanh toán nợ hoặc bán dần sau khi thu hoạch để đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong gia đình;

3)  Những tá điền còn phải cung cấp những dịch vụ miễn phí cho các chủ điền;

4) Do đó, họ là những thành phần nghèo hoặc vừa đủ ăn. Trong những năm thất mùa, đời sống gia đình càng vất vả thêm. Nhiều khi họ phải rời quê hương để đi làm ăn xa trong mùa nắng. Ở những nơi đất phèn mặn hoặc chỉ trồng lúa một vụ mỗi năm, đời sống gia đình càng cơ cực.

Tá điền: Tá điền là những nông dân không có ruộng đất hoặc có rất ít đất ruộng để đủ nuôi gia đình, nên họ mướn ruộng đất từ chủ điền lớn mà đa số không tự canh tác. Mỗi tá điền ít khi mướn trên 5 ha, vì vậy mỗi chủ điền có rất nhiều tá điền, có khi lên đến cả trăm hoặc ngàn để phục vụ cho họ và gia đình. Sau mỗi vụ mùa, tá điền phải trả cho chủ điền lúa hoặc tiền, tùy theo từng loại ruộng màu mỡ hoặc xấu: từ 5-10 giạ lúa (20 kg/giạ) cho ruộng xấu đến 40- 50 giạ lúa mỗi ha cho ruộng tốt. Tá điền ở miền Đông phải trả tiền mướn tương đương 40-50 gịa cho ruộng sản xuất trung bình 100 giạ, trong khi tá điền ở miền Tây chỉ trả 30-40 giạ cho ruộng sản xuất từ 120 đến 150 giạ (Trần Văn Hữu, 1927). Chủ điền thường bóc lột sức lao động và làm giàu nhờ tá điền. Tá điền còn vay tiền với lãi suất rất cao từ các chủ điền để có phương tiện canh tác. Ngoài ra, họ còn bỏ thêm công giúp việc gia đình của chủ điền.

Trong khi đó, vài quốc gia lân bang cũng trải qua tình trạng gần giống như Việt Nam. Tại đảo Java, Indonesia, diện tích bình quân mỗi gia đình là 1,15 ha vào năm 1922, xuống chỉ còn 0,86 ha vào năm 1960. Ở Philippines, vào đầu thế kỷ 80% nông dân làm chủ ruộng đất, đến 1939 chỉ còn 49,2%. Năm 1957, diện tích bình quân mỗi gia đình là 1,9 ha (Angladette, 1966). 

3.3.  Miền Trung

Năm 1945, tổ chức xã hội nông thôn gần giống như Miền Bắc và Miền Nam, nhưng số người làm chủ ruộng đất chiếm đến ba phần tư đất. Chế độ điền thổ miền này tương đối công bằng hơn hai Miền kia. Trong 650 000 người có ruộng đất, chỉ có 50 người có 50 ha và hơn 10 người có trên 100 ha. Những chủ ruộng có từ 5-10 ha đã là thành phần ưu đãi xã hội trong vùng (King, 1977). Phần lớn vùng đất cao nguyên Trung phần trực thuộc triều đình nhà Nguyễn, được gọi là “hoàng triều cương thổ” cho đến năm 1955. Đa số đất đai miền này chưa được khai thác hết, ngoại trừ các vùng đất do người Pháp khai phá để thành lập các đồn điền cao su, trà và cà phê. 

4.  CHẾ ĐỘ THUẾ ĐIỀN THỔ

Chế độ thuế khóa thời thực dân Pháp rất nặng, nhằm đáp ứng nhu cầu ngân sách Đông Dương (chủ yếu thuế quan, thuế rượuthuốc phiệnmuối...) và dành cho ngân sách địa phương gồm các xứ Bắc kỳ, An Nam và Nam Kỳ và các tỉnh (chủ yếu thuế thân, thuế ruộng đất, sưu dịch - một loại thuế thân nhưng phải trả bằng số ngày lao động). Thuế và sưu dịch là một gánh quá nặng đối với đồng bào Việt Nam, nhứt là ở Nam Kỳ, thường cao hơn thời phong kiến Nhà Nguyễn. Chẳng hạn, thuế điền thổ là 5 francs trong 1864 tăng gấp đôi 10 francs mỗi mẫu năm 1873, thuế thân (hay thuế đinh, thuế đầu người) tăng từ 2 francs lên 10 francs. Ngoài ra, còn có các thứ thuế khác như thuế môn bài, thuế thuyền bè, thuế lưu trú của Hoa kiều, thuế nha phiến, thuế cờ bạc… Cho nên, người cai trị thu được một số tiền thuế rất lớn dành cho ngân sách hoạt động nhà nước, còn thặng dư nộp cho công khố Pháp 2,2 triệu francs năm 1876. Sau đó, dân chúng ta thán sưu cao thuế nặng, nên nhà nước giảm thuế điền thổ xuống còn 3 đến 1francs tùy theo loại ruộng tốt xấu và thuế thân là 3 francs mỗi người (Nguyễn Thế Anh, 1970).

Về thuế điền thổ, từ 1897 Toàn quyền Đông Dương đã thay đổi nhiều lần thành 4 hạng điền, 6 hạng thổ (đất). Mức thuế luôn tăng cao, kèm với những khoản phụ thu, nhưng diện tích làm căn bản tính mẫu, sào lại giảm xuống. Ví dụ: Theo quy định từ triều đại Tự Đức (1847-1883), mỗi mẫu là 4 970m2. Năm 1897, ở Bắc kỳ Pháp điều chỉnh mỗi mẫu chỉ có 3 600m2. Vì thế, thuế phải nộp thực tế tăng lên, có khi đến 2-3 lần (Wikipedia).

            Về sau, thuế điền thổ cho ruộng lúa ở Bắc Kỳ được chia ra 3 hạng (Nguyễn Thế Anh, 1970 và Đào Duy Anh, 1938):

1)      Ruộng nhứt đẳng:                    1,50$ mỗi mẫu

2)      Ruộng nhị đẳng:                      1,10$ mỗi mẫu

3)      Ruộng tam đẳng:                      0,80$ mỗi mẫu

Còn đất chia làm 5 hạng (cả đất ở và đất trồng) phải nộp mỗi mẫu từ 0$20 đến 2$30.

Ở Miền Trung, ruộng chia làm bốn hạng phải nộp thuế mỗi mẫu từ 0$78 đến 1$95, còn đất (cả đất ở và đất trồng) chia làm 6 hạng phải nộp thuế mỗi mẫu 0$13 đến 1$95.

Ở Miền Nam, thuế đất ruộng có ba thứ: (1) thuế ruộng lúa, đánh theo sở đắc và giá thuê chia làm 6 hạng mỗi mẫu tây phải nộp từ 0$10 đến 2$00, (2) thuế đất trồng chia làm 5 hạng, mỗi mẫu tây phải nộp từ 0$10 (đất rừng, đồng cỏ) đến 3$00 (đất trồng cau, tiêu, thuốc, trái cây v.v.) và (3) thuế đất nhà cửa đánh theo diện tích và giá thuê, mỗi người chủ ít ra cũng phải nộp 0$10. 

5.   SẢn xuẤt lúa gẠo thỜi pháp THUỘC

Khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc hoàn toàn thuộc lãnh vực tư nhân trong chế độ kinh tế tư do. Do đó, chính phủ đô hộ luôn khuyến khích các nhà đầu tư Pháp đến Việt Nam làm kinh tế. Ban đầu, họ chú trọng đến lãnh vực nông nghiệp, đặc biệt ngành lúa gạo. Họ tịch thu các vùng đất bỏ hoang và phân chia thành từng lô trung bình 1 500 ha và phát không cho những tư nhân muốn khai thác. Ở Bắc Kỳ, từ 1890 đến 1896, có 32 202 ha được đặc nhượng cho tư nhân Pháp; từ 1897 đến 1901 có 155 449 ha. Sau thế chiến thứ nhứt, người Pháp chỉ còn canh tác 30 000 ha trong 1930. Thật ra, từ đầu thế kỷ XX, người Pháp không còn hứng thú đầu tư nhiều trong nông nghiệp, mà họ quan tâm đến khai thác mỏ than, mỏ kẻm, mỏ thiết, khai thác dệt vải, nhà máy điện, kỹ nghệ rượu, kỹ nghệ xây cất… Tuy nhiên, chính phủ cũng thúc đẩy phát triển đồn điền cao su, cà phê, trà ở Miền Đông Nam bộ, Cao nguyên và Miền Trung (Nguyễn Thế Anh, 1970).

            Ở Nam Kỳ, người Pháp tập trung khai thác ĐBSCL trồng lúa để vừa xuất khẩu thu lợi vừa khai thông các tuyến sông ngòi giúp chuyển quân dễ dàng và bảo đảm an ninh trong vùng. Đồng bằng này có nhiều cánh đồng rộng lớn, nhưng quyền sở hữu đất tập trung vào thiểu số đại điền chủ, còn đa số nông dân chỉ giử được số ít ruộng hay làm tá điền với đời sống nghèo khó và bị bóc lột.      

5.1. Phát triển trồng lúa ở Đông Dương

Tại Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên và Lào) cũng như Việt Nam, sản xuất lúa gia tăng nhanh từ thập niên 1860 - 1920, do bành trướng diện tích canh tác ở Nam Kỳ. Sau đó, mức tăng chậm hơn trong thập niên 1930 - 1960. Sản lượng lúa tăng phần lớn do mở rộng diện tích canh tác. Số liệu thống kê của hai thập niên đầu thế kỷ XX phần lớn báo cáo tình trạng sản xuất lúa Đông Dương mà thôi. Trong giai đoạn 1912-1921, diện tích trồng lúa Đông Dương tăng từ 3,05 triệu ha lên 4,80 triệu ha, tăng 59% (Bảng 1). Cho đến 1938, Đông Dương trồng lúa trên 6 triệu ha, tăng gần 100%, trong đó Việt Nam chiếm 80% diện tích và năng suất bình quân là 1,19 t/ha.         

     Bảng 1: Diện tích trồng lúa ở Đông Dương, 1912-1921 

Năm

Diện tích (ha)

1912

3.050.000

1913

3.870.000

1914

4.227.736

1915

3.977.955

1916

4.108.700

1917

4.120.000

1918

4.116.000

1919

4.813.200

1920

4.759.669

1921

4.850.000

            Nguồn: Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (FAO), 1912

 

Cao Miên (Cambodia): Diện tích trồng lúa ở Cao Miên đã tăng từ 623 000 ha trong năm 1927-28 lên 808.000 ha trong 1944-45, với năng suất bình quân 1 t/ha. Năm 2017, Cao Miên sản xuất 8 250 000 tấn lúa trên 3 085 000 ha với năng suất 2,7 t/ha. Trong 7 năm qua, xuất khẩu gạo tăng khá nhanh từ 105 259 tấn trong 2010 tăng lên 635 679 tấn trong 2017 (Thanh Vo, 2017). Hiện nay, ở Đông Nam Á chỉ còn hai nước - Cao Miên và Myanmar - còn có thể bành trướng mạnh diện tích trồng lúa trong tương lai vì còn nhiều đất đai chưa được khai thác.

Theo FAO (2007), xứ này chỉ có độ 14% diện tích canh tác lúa tưới tiêu năm 2003, lúa nước trời 72%, lúa rẫy 1% và lúa nổi 13%. Những vùng trồng lúa chính của Cao Miên gồm có Prey Vieng, Takeo, Kompong Cham, Siem Reap, Svay Rieng, Battambang, Kampot và Kompong Thom. Giống lúa thông dụng ở Cam Bốt là Don, IR 66, IR 72, IR Kesar, Khao tah petch, Kru, Rimke, Santeheap1, Santeheap 2, Santeheap 3, Sita, Tewarda, CAR1, CAR2, CAR3, CAR4, CAR5, CAR6, Banla Phalu, etc. (RICEINFO, 2000).

            Lào:  Lào là một nước trồng lúa đặc biệt nhất trên thế giới với thức ăn căn bản là lúa nếp. Ngoài ra, một số dân Thái Lan, gốc Lào, hiện ở miền đông bắc xứ này cũng dùng gạo nếp làm thức ăn chính. Lúa nếp chiếm đến 95%, có năng suất thấp hơn lúa tẻ vì thiếu sự quan tâm về khảo cứu của thế giới. Năm 2017, Lào sản xuất độ 4,0 triệu tấn lúa trên 956 134 ha, với năng suất 4,2 t/ha (FAO, 2017).

Theo FAO (2007), diện tích tưới tiêu chiếm 24% tổng diện tích trồng lúa, lúa nước trời độ 51% và lúa rẫy độ 25%. Chính phủ Lào đang chú trọng phát triển hệ thống dẫn thủy cấp tiểu và trung để tăng gia diện tích trồng lúa tưới tiêu và đảm bảo sản lượng hàng năm. Những vùng trồng lúa quan trọng gồm có Vientiane, Borikhamxay, Sebang-Faay (Khammouane và Savannakhet), Sebang-Hiang (tỉnh Savannakhet), Sedone (tỉnh Saravane) và Champassak. Các giống nếp hiện đang được trồng: RD10, RD16, SK16, Chao lep nok, Chao phruang deng, Do hak phay, Houb, Leua Nhia, Mak Kham, Me hang, Meto, Nang khao, Palat, Salakham 2-18-3-1-1, Som phu... (RICEINFO, 2000). 

5.2. Tiến triển về diện tích và sản lượng lúa ở Việt Nam     

Diện tích trồng lúa ở Việt Nam được bành trướng mạnh mẽ, không ngừng trong thời kỳ Nam tiến kể từ thế kỷ thứ XI. Công tác khẩn hoang, phát triển hệ thống tưới tiêu, đặc biệt phát triển hệ thống kinh rạch ở ĐBSCL đã làm tăng diện tích đất trồng rất nhanh. 

Cho đến đầu thế kỷ XIX, ruộng đất trong nước chưa có thống kê chính xác. Đến 1836, vua Minh Mạnh ra lệnh cho các địa phương đo đạc ruộng và đất cả nước có 4 063 892 mẫu hoặc 1 463 000ha (1 mẫu có 3600m2). Nếu lúc bấy giờ ruộng trồng lúa chiếm ít nhứt 60% tổng diện tích này, diện tích đất trồng lúa là 878 000 ha. Riêng Nam Kỳ có hơn 630 075 mẫu hay 226 827 ha ruộng và đất (Trần Trọng Kim, 1990). 

Trong thời gian từ 1868-1873, diện tích đất trồng lúa ở Việt Nam ước lượng ít nhứt 815 000 ha[14], trong số đó Bắc Kỳ có khoảng 300 000 ha đất ruộng (Carle, 1927 và Dumont, 1995), Trung Kỳ có độ 300 000 ha và Nam Kỳ có 215 000 ha (Trần Văn Hữu, 1927).

Theo Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (tiền thân của cơ quan FAO), (1927-45), diện tích trồng lúa từ 2,3 triệu ha trong 1912 tăng lên 4,4 triệu ha trong 1927, và cao nhất khoảng 5 triệu ha với sản lượng 6 triệu tấn lúa năm 1942 (Bảng 2); trong đó Nam Kỳ chiếm gần 50% tổng số diện tích cả nước, Bắc Kỳ 27% và An Nam (Trung Kỳ) chiếm 23%.  

Bảng 2: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trong thời tiền Cách Mạng Xanh ở Việt Nam, 1868-1969 

 

Năm

 

 

Diện tích

(x1000 ha)

 

Năng suất

(t/ha)

 

Sản lượng

(x1000 tấn)

1868-1873 a/

>815

1,200

-

1912 b/

2.300

1,200

2.760

1927 1/

4.373

1,217

5.322

1930 1/

4.698

1,009

4.741

1934 1/

4.349

1,099

4.779

1938 1/

4.783

1,247

5.964

1942 1/

4.917

1,203

5.917

1944 1/

4.862

1,053

5.122

1955 2/

4.420

1,439

6.362

1961 3/

4.744

1,897

8.997

1965 3/

4.826

1,941

9.369

1969 3/

4.930

1,788

8.815

 

Nguồn:

a/ Phỏng đoán: 300 000 ha (Bắc Kỳ) + 215 000 ha (Nam Kỳ) +300 000 ha (An Nam)

            b/ Độ 70% diện tích trồng lúa của Đông Dương

1/Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International yearbook of Agricultural statistics), 1927-1941

2/ World Crop and Livestock, 1948-85, FAO

3/ FAOSTAT, 2000 

Nam Kỳ có nhiều tài liệu thống kê hơn, cho thấy diện tích canh tác lúa của vùng tăng rất nhanh qua chương trình khai khẩn đất đai ráo riết nhằm phục vụ di chuyển, củng cố an ninh ở ĐBSCL và xuất khẩu kiếm lợi. Vào năm 1868, diện tích chỉ 215 000 ha, nhưng năm 1890 tăng lên 854 000 ha, 1900 tăng 1 174 000 ha, năm 1924 tăng 1 975 000 ha (Trần Văn Hữu, 1927) và năm 1944 tăng 2 245 000 ha (Bảng 3); nhưng sau đó, do chiến tranh diện tích giảm bớt dần (bảng 5). Trong thời gian 76 năm (1868-1944), diện tích trồng đã tăng nhanh chóng hơn 10 lần, hoặc tăng 12% mỗi năm. Diện tích trồng lúa và nông sản khác theo địa phương (hạt và tỉnh) ở Nam Kỳ năm 1868 được ghi nhận trong Bảng 4 và 5.

Bắc Kỳ: Diện tích đất ruộng khoảng 200 000-300 000 ha năm 1873 (Carle, 1927 và Dumont, 1995), tăng lên 1 340 000 ha năm 1927 và cao nhất là 1 504 000 ha năm 1942 trong thời kỳ thực dân (Viện Nông Nghiệp Quốc Tế, 1927-45). 

An Nam (Trung Kỳ): Diện tích trồng lúa cũng tăng ít thôi, từ 977 000 ha năm 1927 lên cao nhất 1 190 000 ha năm 1944 (Viện Nông Nghiệp Quốc Tế, 1927-45).

       Bảng 3: Diện tích trồng lúa ở Nam Kỳ từ 1836 đến 1924 

 

Năm

 

Diện tích (ha)

1836*

226.827 (gồm cả ruộng và đất)

1860

-

1868

   215.000

1870

   522.000

1890

   854.000

1900

1.174.000

1910

1.528.000

1920

1.939.000

1921

1.955.000

1922

1.845.000

1923

1.906.000

1924

1.975.000

Nguồn: Trần Văn Hữu, 1927

Lưu ý:  * Trần Trọng Kim, 1990

Bảng 4: Diện tích trồng lúa và nông sản khác ở Miền Nam, 1868 

 

LÚA

 

NÔNG          KHÁC

SẢN

TỔNG CỘNG

Tỉnh/hạt

Diện tích (ha)

% so với diện tích chung

Diện tích (ha)

% so với diện tích chung

(ha)

GIA ĐỊNH

 

 

 

 

 

Sài Gòn

6.809,23

93,6

468,25

6,4

7.277

Chợ Lớn

9.548,32

95,4

460,50

4,6

10.008

Cần Giuộc

23.293,00

98,0

481,00

2,0

23.774

Gò Công

24.744,03

97,0

742,01

3,0

25.486

Tân An

18.076,00

99,5

85,00

0,5

18.161

Tây Ninh

39,57

38,3

63,05

61,7

103

Trảng Bàng

632,00

78,1

177,00

21,9

809

ĐỊNH TƯỜNG

 

 

 

 

 

Mỹ Tho

11.798,54

73,5

4.230,89

26,4

16.029

Chợ Gạo

16.382,00

77,2

4.844,00

22,8

21.226

Cai Lậy

9.176,05

72,7

3.411,57

27,3

12.517

Cần Lố

8.055,00

58,9

5.622,25

41,1

13.677

BIÊN HÒA

 

 

 

 

 

Biên Hòa

1.593,27

81,1

371,07

18,9

1.964

Bà Rịa

1.027,00

63,2

597,00

36,8

1.624

Thủ Dầu Một

562,21

53,1

496,19

46,9

1.058

Long Thành

1.469,46

86,0

239,79

14,0

1.709

Thủ Đức

3.141,50

76,9

945,85

23,1

4.087

VĨNH LONG

 

 

 

 

 

Vĩnh Long

26.515,54

89,8

6.306,04

19,2

32.831

Bến Tre

11.673,28

63,1

6.806,45

36,9

18.480

Trà Vinh

4.139,20

80,6

998,15

19,4

5.137

Mỏ Cày

10.721,00

65,1

5.747,00

34,9

16.468

Bắc Trang

4.187,70

78,6

1.141,60

21,4

5.329

AN GIANG

 

 

 

 

 

Châu Đốc

8.348,10

62,2

5.071,45

37,8

13.419

Sa Đéc

 

10.989,74

63,8

6.229,43

36,2

17.219

Sóc Trăng

1.870,70

68,8

848,68

31,2

2.725

Cần Thơ

1.826,00

79,5

2.089,91

20,5

10.216

 Long Xuyên

7.116,00

75,3

2.329,30

24,7

9.445

HÀ TIÊN

 

 

 

 

 

Hà Tiên

224,84

50,0

225,77

50,0

450

Rạch Giá

2.054,00

47,5

2.268,00

52,5

4.322

Nguồn: Annuaire de la Cochinchine francaise pour l’année 1868 (trong Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).

Chú ý: Nông sản khác: Cau, trầu, chuối, cam, quít, bưởi, chanh, long nhãn, vải, mãng cầu, khế, mận, mít, thạch lựu, dừa, măng cụt, bông vải, dâu nuôi tằm, mía, rau đậu…

 Bảng 5: Diện tích trồng lúa tại các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc, 1872-1945

Tỉnh

1872

1881

1908

1921

1930

1946

 

Bạc Liêu

 

 

72.188

170.778

330.000

136.000

Bà Rịa

2.524

5.349

10.928

10.751

17.000

4.000

Biên Hòa

4.200

4.682

26.968

32.500

28.500

11.000

Bến Tre

22.742

61.955

100.488

82.000

120.000

49.000

Cần Thơ

15.162

56.619

171.921

165.000

170.000

164.000

Châu Đốc

832

1.400

34.597

131.000

87.200

48.000

Chợ Lớn

36.370

52.858

84.165

70.702

91.000

74.000

Gia Định

8.591

39.756

54.045

52.865

66.900

32.000

Gò Công

27.789

34.761

45.283

47.173

47.800

47.000

Hà Tiên

114

465

1.414

2.500

2.900

3.000

Long Xuyên

10.443

22.572

69.717

75.000

105.600

82.000

Mỹ Tho

39.000

73.155

130.034

126.000

102.000

99.000

Rạch Giá

1.464

10.664

142.223

200.000

310.000

150.000

Sa Đéc

16.686

36.119

81.062

70.000

71.900

40.000

 Sóc Trăng

3.781

54.109

179.508

183.525

194.300

133.000

Tân An

24.131

38.670

56.003

45.824

70.000

49.000

Tây Ninh

871

6.495

25.439

45.000

48.000

28.000

Thủ Dầu Một

758

1.470

11.931

12.802

11.000

12.000

Trà Vinh

10.068

30.773

136.724

135.963

150.000

100.000

Vĩnh Long

27.154

64.302

89.940

90.000

79.300

67.000

Tổng cộng

252.677

596.182

1.524.590

1.758.383

2.112.500

1.328.000

Nguồn: Trích trong Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987. 

5.3. Áp dụng kỹ thuật trồng lúa mới thời Pháp thuộc

Sau những năm đầu chiếm miền Nam Việt Nam, người Pháp đã muốn khai thác nông nghiệp, nhứt là ngành lúa gạo để xuất khẩu kiếm lợi. Họ đã thành công trong khai khẩn đất hoang tăng diện tích canh tác rất ngoạn mục, nhưng không thành công nhiều trong nâng cao năng suất lúa như mong muốn, mặc dù họ đã tổ chức hệ thống quản lý mới, phát triển giáo dục, thực hiện nhiều nghiên cứu nông nghiệp và đẩy mạnh công tác khuyến nông. Đó là do những nguyên nhân như sau:

1)      Trước hết, có thể những cuộc nghiên cứu các kỹ thuật mới đưa vào Việt Nam chưa được thực hiện đến nơi đến chốn; cho nên không thể đưa ra những kết quả có sức thuyết phục người khác thay đổi lề lối làm việc lâu đời của họ. Một viên thanh tra nông nghiệp đánh giá như sau: “Trong lãnh vực cải thiện các ruộng lúa, chúng ta hoàn toàn thiếu những cuộc học hỏi về chế độ nước lên, nước xuống và sự lưu thông của nước trong các kinh đào. Trong lãnh vực phân hóa học, không có một sự thử nghiệm đúng đắn, đúng cách, không có một công trình toàn diện hoặc từng phần về cách cấu tạo của đất ruộng. Trong lãnh vực lúa giống, thành quả rất giới hạn. Trong lãnh vực tìm hiểu bệnh của lúa và sâu rầy, chúng ta mới chỉ thực hiện được một vài cuộc nghiên cứu không khớp với nhau ở phòng thí nghiệm…” (trong Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).

2)      Nông dân đã quen với lề lối canh tác lúa cổ truyền từ hàng ngàn năm qua, nên rất dè dặt và e ngại trước các thay đổi như dùng các phương pháp trồng trọt tiến bộ, nhứt là những kỹ thuật mới không mang đến lợi ích trước mắt. Hơn nữa, nông dân còn nghèo mà đa số là tá điền nên không có tiền để đầu tư vào phân hóa học, các nông cụ, máy móc tân tiến…

3)      Về lúa giống cải tiến hay tuyển chọn được các trung tâm hạt giống địa phương sản xuất, nhưng nông dân không nhiệt tâm hưởng ứng rộng rãi. Đa số nông dân cho rằng tiền lời do sử dụng giống lúa tuyển chọn không tương xứng với vốn và công bỏ ra. Cho nên, nhà cầm quyền phải ra chỉ thị bắt buộc các ruộng làng hay công điền phải dùng hạt giống do trung tâm sản xuất. Dù thế, chương trình phổ biến lúa giống tuyển chọn cũng đạt nhiều kết quả: năm 1924 phổ biến đến nông dân 140 tấn, 1925: 470 tấn, 1026: 500 tấn, 1936: 700 tấn. Nhờ đó, năng suất lúa tương đối tăng nhanh so với thời kỳ Độc Lập phong kiến. Ngày nay, nông dân Việt Nam đã ý thức sự lợi ích của hạt giống tuyển lựa nên diện tích trồng lúa xác nhận (certified seeds) lên rất cao, trên 50% tổng diện tích canh tác, nhưng có nhiều vùng đạt đến 100%.

4)      Cơ giới hóa nông nghiệp như sử dụng máy cày, bừa, máy bơm nước, máy gặt, máy đập… quá mới lạ đối với nông dân và quá đắt tiền; vã lại khó sử dụng, bảo trì, không kể đến các loại máy móc, nông cụ này có thích hợp lâu dài với khí hậu, đất đai, điều kiện nước ngập địa phương hay không.Có một số thử nghiệm thành công tại các đồn điền lúa, nhưng không được nông dân áp dụng do họ thiếu vốn hoặc kết quả không được phổ biến hữu hiệu. Tuy nhiên, các đồn điền cây kỹ nghệ đã thành công trong cơ giới hóa trồng trọt. Sau thời kỳ thực dân, cơ giới hóa nông nghiệp bắt đầu phổ biến từ miền Bắc đến miền Nam, nhứt là khi cuộc Cách Mạng Xanh bùng phát.

5)      Về kỹ thuật mới như phân hóa học, thuốc sát trùng cũng gặp tình trạng tương tự, người dân không hưởng ứng nhiều vì quá mới lạ lúc bấy giờ, đắt tiền và khó tìm mua. Nhà nước đã phải can thiệp trực tiếp bắt một số chủ điền dùng thử phân trên các ruộng của họ. Có lẽ lý do quan trọng nhứt là các nhà nghiên cứu chưa tìm được giống lúa có phản ứng đạm cao như lúa cao năng ngày nay, nên sử dụng phân hóa học không làm tăng năng suất đáng kể để thu hút sự chú ý của nông dân. Dù thế, năng suất lúa cải tiến khá cao từ 2-4t/ha (lúa truyền thống từ 1-2t/ha) so với lúa hiện đại từ 6-8t/ha. Do đó, đến cuối thập nhiên 1960 (cuộc Cách Mạng Xanh bắt đầu), nông dân mới hăng hái dùng phân hóa học đại trà khi lúa Thần Nông 8 được phổ biến.

6)      Những Đại điền chủ, phú nông không trực tiếp dấn thân vào sản xuất lúa, nên không đầu tư cho các kỹ thuật sản xuất tiến bộ, gồm cơ giới hóa, phân bón, thuốc sát trùng...Trái lại, họ chỉ muốn sống cuộc đời an nhàng hưởng thụ, nên phần lớn cho tá điền mướn ruộng để thu lúa sau khi thu hoạch; cho nên ruộng đất bị phân thành nhiều mảnh nhỏ từ 3-5 ha khó thực hiện cơ giới hóa.

       Dù thế, nhờ tuyển chọn cải tiến giống lúa, phát triển thủy nông và kinh nghiệm dài lâu của nông dân, năng suất lúa tăng khá nhanh, chỉ gần 100 năm từ thập niên 1860 đến cuối thập niên 1950, năng suất bình quân tăng từ 1,2 lên gần 2,0t/ha lúa, và đồng thời nông dân đã bắt đầu làm quen với các kỹ thuật mới cho canh tác lúa: phân hóa học, thuốc sát trùng, nông cơ, nông cụ..., nhưng còn giới hạn.

           Đầu thế kỷ XX, Miền Bắc dẫn đầu về năng suất cả nước với 1,4t/ha, do phát triển hệ thống tưới tiêu, sử dụng giống lúa tuyển chọn, phân hữu cơ, phân lân thiên nhiên và nhứt là dùng nhiều sức lao động. Khuynh hướng này vẫn còn tiếp tục đến gần đây. Tuy nhiên, năng suất lúa Miền Bắc còn kém hơn năng suất lúa Trung Quốc (1,45t/ha) từ thế kỷ XIII cho đến ngày nay (6,9t/ha). Tại sao? Có thể đó là do năng suất cao của lúa Japonica trồng ở miền Bắc Trung Quốc (chiếm độ 30% tổng diện tích lúa) và trồng lúa lai đại trà, làm tăng năng suất bình quân xứ này.

Đến thập niên 1960, nông dân bắt đầu dùng phân hóa học nhiều hơn, nhất là phân lân, phân bồ-tạt và các giống lúa tuyển lựa cao năng hay lúa hiện đại. Do đó, sản lượng lúa tăng thêm nhiều, trung bình cả nước sản xuất khoảng 9 triệu tấn mỗi năm (Bảng 2). Do dân số gia tăng và tình trạng chiến tranh, Việt Nam và ngay cả Miền Nam phải bắt đầu nhập khẩu gạo để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ.

 Tóm lại, thực dân Pháp đã thiết lập nền đô hộ nước ta gần một thế kỷ chỉ nhằm khai thác nhân công rẻ tiền, xuất khẩu tài nguyên gồm cả lúa gạo để trục lợi; nhưng họ cũng làm được một số việc đáng chú ý, ngoài mục tiêu bình định và an ninh nông thôn (Sơn Nam, 2000 và Trần Văn Đạt, 2002):

1.      Phát triển đào vét kinh để dễ dàng thông thương, như chuyên chở lúa gạo và các sản phẩm khác về Sài Gòn ít tốn kém hơn, bên cạnh mở rộng diện tích canh tác và tăng gia sản xuất nông sản. Họ đã thành lập một số tỉnh mới như Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng và làm vùng này trở nên vựa lúa quan trọng của đất nước. Ở Miền Bắc, họ thực hiện bảo vệ đê điều, các công trình tưới tiêu ở Bắc Giang, Vĩnh Yên, Thái Nguyên, Sơn Tây và Thái Bình. Ở Miền Trung, có công trình tu chỉnh đê điều ở Thanh Hóa, Nghệ An; xây đập Bái Thượng, Thuận An, Đa Rang, Phan Rang và Quảng Nam. Nhờ đó, diện tích trồng lúa gia tăng đáng kể.

2.      Khai thác các vùng đất ruộng thấp với lúa sạ, nhờ chọn lựa được các giống lúa chịu đựng mực nước sâu (lúa nổi) vào đầu thế kỷ XX. Do đó, các vùng đất trũng ở Long Xuyên, Châu Đốc và Đồng Tháp Mười được khai thác trồng lúa. Đến 2018, diện tích lúa nổi ở ĐBSCL từ 640 000ha trước năm 1975 nay chỉ còn 200 ha.

3.      Lập các đồn điền cao su, trà và cà phê ở Miền Đông Nam Phần và cao nguyên Trung Phần.

4.      Ngoài ra, họ đã mang vào Việt Nam các tiến bộ kỹ thuật, khoa học và văn hóa.

Nhờ đó, nền nông nghiệp Việt Nam được cải thiện ít nhiều qua luồng gió mới khoa học và kỹ thuật Tây phương, làm tăng hiệu năng sản xuất, dù còn giới hạn. Riêng ngành trồng lúa, năng suất cải tiến đáng kể trong thời gian tương đối ngắn so với hai thời kỳ Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến; trong khi diện tích trồng tăng gấp 5 lần, từ dưới 1 triệu ha lên hơn 5 triệu ha trong thời gian Pháp thuộc. Sau thời kỳ này, ngành trồng lúa Việt Nam mới thực sự tiến bộ nhảy vọt khi cuộc Cách Mạng Xanh xảy ra trong nước từ 1968 và 20 năm sau với chính sách Đổi Mới kinh tế.

Có thể nói thời kỳ sản xuất lúa cải tiến thời Pháp thuộc là giai đoạn giao thời của sự chuyển hóa kỹ thuật nông nghiệp bản xứ từ thời cổ xưa qua hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Angledette, A. 1966. Le riz. Limoges. France, pp 930.

2.      Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2015. 70 năm nông nghiệp Việt Nam. NXB Lao động, 607 trang.

3.      Capus, G. 1918. Les riz d’Indochine. In: Annales de Géographie, Librairie Armand Colin, Paris, 5e, 27: 25-42.

4.      Carle, E. 1927. 1927. Amélioration des riz de Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, 11 pp.

5.      Dumont, R. 1995. La culture du riz dans le delta du Tongkin. Printimg House in Bangkok, Thailand. pp 592.

6.      FAO. 2000, 2010 và 2017. FAOSTAT.

7.      Gourou, P. 1955. The peasants of the Tonkin Delta. Human Relations Area Files, New York.

8.      Huỳnh Lứa, Lê Quang Minh, Lê Văn Năm, Nguyễn Nghị và Đổ Hữu Nghiêm. 1987. Lịch sử khai phá đất Nam Bộ. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 270 trang.

9.      King, R. 1977. Land reform - A world survey. G. Bell & Sons LTD, London, pp 446.

10.  Nguyễn Thế Anh. 1970. Việt Nam thời Pháp đô hộ. Tủ sách Sử-Địa, NXB Lửa Thiêng, 391 trang.

11.  Phạm Cao Dương. 1967. Thực trạng của giới nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. NXB Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 255 trang.

12.  Phạm Kim Vinh. 1976. Japanese presence: short but deadly interlute. In: Viet Nam, a comprehensive history, PM Enterprises Inc., California, p 173-182.

13.  Phạm Văn Sơn. 1960.Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 trang.

14.  RICEINFO. 2000. FAO Rice Information, FAO, Rome,

15.  Sơn Nam. 2000. Lịch sử khẩn hoang Miền Nam. NXB Xuân Thu, California, Hoa Kỳ, 330 trang.

16.  Thanh Vo. 2017. Cambodia Annual Grain and Feed Report. USDA Grain Report (15/5/2017)

(https://gain.fas.usda.gov/Recent%20GAIN%20Publications/Cambodia%20Annual%20Grain%20and%20Feed%20Report_Ho%20Chi%20Minh%20City_Cambodia_5-15-2017.pdf)

17.  Trần Trọng Kim. 1990. Việt Nam sử lược, Quyển I & II. NXB Đại Nam.

18.  Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam - Từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn, 315 trang.

19.  Trần Văn Hữu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, pp 31.

20.  Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1912. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.

21.  Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1939-1941. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.

22.  Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1927-1941. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.

23.  Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1927-1945. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.

24.Wikipedia:(https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p_thu%E1%BB%99c#N%C3%B4ng_nghi%E1%BB%87p).

25.  World Crops and Livestock Statistics. 1948-1985. FAO, Rome.

 

CHƯƠNG 12

 PHÁT TRIỂN

SẢN XUẤT LÚA HIỆN ĐẠI

TỪ 1954 ĐẾN ĐỔI MỚI KINH TẾ

 Các kỹ thuật và kiến thức khoa học du nhập từ thời Pháp thuộc đã giúp nông dân Việt Nam tham gia tích cực vào cuộc Cách Mạng Xanh trong quá trình Đổi Mới kinh tế để tăng gia phát triển nông nghiệp, nhứt là ngành trồng lúa từ giữa thập niên 1960. Từ 1954 đến nay, ngành nông nghiệp lúa Việt Nam đã trải qua bốn giai đoạn thăng trầm rõ rệt: (1) 1954-1975: quốc gia có 2 chế độ khác nhau nên ngành nông nghiệp lúa mang 2 hệ thống sản xuất riêng biệt - hệ tập thể ở Miền Bắc và hệ tư nhân ở Miền Nam, (2) 1976-1987: sản xuất tập thể cả nước, (3) 1988-2012 Đổi Mới kinh tế và (4) từ 2013 đến nay: tái cơ cấu ngành trồng lúa. Trong thời kỳ này, nhiều giống lúa hiện đại (modern rice) nổi tiếng được sáng tạo bởi Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) ở Philippines và phổ biến rộng rãi tại nhiều nước châu Á, gồm cả Việt Nam.

Sau khi xứ sở thống nhứt năm 1975, sản xuất nông nghiệp phục hồi, nhưng phát triển còn chậm chạp không kịp đáp ứng nhu cầu lương thực nội địa, do chính sách “cào bằng” và tập trung sản xuất. Mãi đến thời kỳ Đổi Mới kinh tế từ 1988, ngành nông nghiệp mới khởi sắc, nhứt là trồng lúa, đánh bắt thủy hải sản và một số màu khác lớn mạnh bắt đầu xuất khẩu và tái xuất khẩu hàng năm, mang về đất nước số lượng ngoại tệ đáng kể.

            Nhưng từ thời Đổi Mới, tầm quan trọng kinh tế của nông nghiệp quốc gia giảm dần so với các lãnh vực công nghiệp, dịch vụ và du lịch. Tỉ trọng nông nghiệp đối với GDP giảm từ 40,2% trong 1985 xuống 22,2% trong 2008 và 16,3% trong 2016, mặc dù mức sản xuất tiếp tục tăng trưởng hàng năm (WRI, 2007 và Tổng Cục Thống Kê, 2017). Đó là xu hướng tiến bộ lớn của đất nước sau thời gian dài chiến tranh nhiều gian khổ.

 1.   SƠ LƯỢC TỔ CHỨC QUẢN LÝ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM (1954-2017)

·         Thời kỳ 1954-1975:

Miền Nam thừa kế di sản tổ chức ngành nông nghiệp thời Pháp Thuộc, với một ít thay đổi theo nhu cầu hoạt động. Sự quản lý nông nghiệp được thực thi từ Bộ Canh Nông qua Tổng nha, Nha, Sở và Ty - Trung tâm & Khu địa phương. Tổng nha gồm có Tổng nha Nông nghiệp và Tổng nha Điền địa. Tổng nha Nông nghiệp gồm có Nha Canh Nông, Nha Thủy Lâm, Nha Thú Y, Nha Thủy Nông, Nha Khuyến Nông, Nha Khảo Cứu và Sưu tầm nông lâm súc, Nha Ngư Nghiệp, Nha Nông Cơ, và Hợp Tác Xã & Hiệp Hội Nông Dân. Riêng ngành Khảo cứu đã được phát triển rất sớm từ 1866 trong thời Pháp thuộc. Năm 1968, Viện Khảo cứu nông nghiệp được thành lập từ sáp nhập 3 cơ quan: Nha Khảo Cứu và Sưu tầm nông lâm súc, Thảo cầm viên và Thư viện.

Cơ sở Bộ Canh Nông thời Việt Nam Cộng Hòa nằm góc đường Phan Thanh Giản (nay Điện Biên Phủ) và Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn, thay đổi nhiều tên theo thời cuộc. Trong thời Đệ nhứt Cộng Hòa, Bộ có tên: Bộ Canh Nông, Bộ Cải Tiến Nông thôn; trong Đệ Nhị Cộng Hòa có tên Bộ Canh Nông, Bộ Cải Cách Điền Địa, rồi trở lại Canh Nông, Bộ Cải cách Điền Địa và Phát Triển Nông Ngư Nghiệp, Bộ Cải Cách Canh Nông và Ngư Nghiệp.

Năm 1967, Bộ Cải Cách Điền Địa và Canh Nông gồm có Tổng Nha Nông Nghiệp và Tổng Nha Điền Địa. Dưới Tổng Nha là các Nha có Sở và các Ty, Trung tâm khảo cứu địa phương. Năm 1973, sau khi chương trình Cải cách ruộng đất chấm dứt, Bộ đổi tên Bộ Cải cách Canh nông và Ngư nghiệp. Ngoài ra, ngày 8-12-1973, Chính phủ thành lập Tổng cục thực phẩm quốc gia thay thế Tổng cục tiếp liệu (General supply Agency) trực thuộc Bộ Thương Mại và Kỹ Nghệ đặc trách thu mua, tồn trữ và phân phối gạo và thực phẩm khác ở Miền Nam Việt Nam.

Miền Bắc với thể chế mới sau khi đất nước bị phân chia hai Miền Bắc - Nam năm 1954, ngành nông nghiệp được tổ chức lại cho phù hợp với chế độ nên có nhiều cơ quan liên hệ nông nghiệp mới được thiết lập và hầu hết các cơ quan cũ được thay đổi tên (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2015):

1955: Thành lập Bộ Nông Lâm, Viện Khảo cứu nông lâm, Bộ Thủy lợi, Tổng công ty Lương thực.

1957: Viện Khảo cứu nông lâm trở thành Viện Khảo cứu trồng trọt và Viện Khảo cứu chăn nuôi.

1960: Bộ Nông Lâm được phân chia thành 4 cơ quan: Bộ Nông Nghiệp, Bộ Nông Trường, Tổng Cục Lâm Nghiệp và Tổng Cục Thủy Sản.

1961: Thành lập Bộ Nông Trường, Bộ Thủy lợi và Điện lực, năm 1962 trở thành Bộ Thủy Lợi.

1963: Thành lập Trường Đại Học Nông Nghiệp và Viện Khoa Học Nông Nghiệp thuộc Bộ Nông Nghiệp.

1967: Thành lập Trường Đại Học Nông Nghiệp II (từ Trung học Kỹ thuật trung ương) và Trường Đại Học Nông Nghiệp trở thành Trường Đại Học Nông Nghiệp I.

1969: Thành lập Bộ Lương Thực và Thực Phẩm do hợp nhứt Tổng cục Lương thực và ngành Công nghiệp biến chế thực phẩm từ Bộ Công nghiệp nhẹ. 

·         Thời kỳ 1976-2017 (2):

1976: Thành lập Bộ Nông Nghiệp, Bộ Nông Trường, Bộ Lâm Nghiệp, Bộ Hải Sản, giữ nguyên Bộ Thủy Lợi, Bộ Lương Thực và Thực Phẩm.

1976: Ủy ban nông nghiệp tỉnh, thành phố đổi thành Ty, Sở nông nghiệp tỉnh, thành phố.

1978: Thành lập Ủy ban sông Mê Kông của Việt Nam, Trường Cao Đẳng Lâm Nghiệp Miền Nam (Đồng Nai) thuộc Bộ Lâm Nghiệp.

1980: Thành lập Trường Cao Đẳng Nông-Lâm Nghiệp Huế.

1981: Thành lập Bộ Lương Thực và Bộ Công Nghiệp Thực Phẩm.

1983: Thành lập Viện Nghiên cứu và Nuôi trồng thủy sản I, II và III (2004) trực thuộc Bộ Thủy Sản.

1985: Thành lập Trường Đại học Nông-Lâm thành phố HCM, do Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp quản lý.

1987: Thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm.

          Thành lập Tổng Công ty Lương thực trung ương.

1988: Thành lập Viên Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Lâm Nghiệp.

1993, 1996 và 2000: Thành lập Cục Khuyến nông, Cục Khuyến lâm, Trung tâm Khuyến ngư trung ương.

1995: Thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do hợp nhứt 3 Bộ: Nông Nghiệp, Lâm Nghiệp và Thủy Lợi.

          Thành lập Tổng Công ty lương thực miền Nam và Tổng Công ty lương thực miền Bắc.

2005: Thành lập Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

2007: Bộ Thủy sản sáp nhập vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

2009: Thành lập Tổng cục Thủy lợi, Tổng cục Lâm Nghiệp và Tổng cục Thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.

2014: Thành lập Học viện Nông nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT trên cơ sở tổ chức lại Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

Đối với hệ thống quản lý ngành địa phương, năm 1976, Chính phủ ra quyết định đổi tên Ủy ban Nông nghiệp tỉnh, thành phố thành Ty, Sở Nông nghiệp tỉnh, thành phố. Do đó, tổ chức quản lý nông nghiệp địa phương gồm có:

-          Cấp tỉnh có Ty Nông nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh.

-          Cấp thành phố trực thuộc trung ương có Sở Nông nghiệp.

-          Cấp huyện và đơn vị địa phương có Ban Nông nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân huyện.

2.   CÁC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT LÚA HIỆN ĐẠI (1954-2017)

2.1. Sản xuất lúa từ 1954-1975

Sau tháng 7 năm 1954, chiến tranh chống thực dân chấm dứt và nền nông nghiệp cả nước bắt đầu khôi phục trong thời gian ngắn. Miền Bắc trải qua cuộc cách mạng ruộng đất để từng bước khắc phục những khó khăn do chiến tranh để lại, đã bắt đầu vào tháng 7-1949 và tháng 8-1955. Chính phủ đã tịch thu 810 000 ha ruộng đất của địa chủ, trong đó có 120 000 ha ruộng của thực dân Pháp, đem phân chia cho các gia đình nghèo và giới lao động (Nguyễn Sinh Cúc, 1995 và Angladette, 1966).

Tiếp theo cuộc cải cách ruộng đất, nhà nước cho thành lập các tổ đổi công, tập đoàn sản xuất và thí điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, qui mô nhỏ. Hình thức tổ chức này được đa số nông dân đồng tình, vì khi vào tổ đổi công hoặc hợp tác xã họ vẫn  được quyền sắp xếp lao động và tổ chức sản xuất trên thữa ruộng mình. Họ vẫn còn là chủ ruộng đất nên còn quan tâm đến mùa màng và kết quả thu hoạch. Do đó, sau 3 năm thi hành nền kinh tế nông nghiệp tăng trưởng khá mạnh, nhứt là sản xuất lương thực tăng 57%, lương thực bình quân mỗi đầu người đạt 303 kg/năm, không những thỏa mãn nhu cầu trong nước còn dư thừa để xuất khẩu gạo trong 2 năm 1956-1957 (Bảng 1). 

Bảng 1: Kết quả sản xuất nông nghiệp miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1955-1957 

 

 

 

 

1939

 

 

 

1955

 

 

 

1956

 

 

 

1957

Bình quân 1955-57

Bình quân 55-57 so với 1939 (%)

Diện tích gieo trồng

x 1000ha

2240

2515

2761

2597

2624

123,5

Lương thực quy thóc x1000tấn

2713

3708

4737

4292

4263

157,0

Năng suất (tạ/ha)

13,3

15,9

18,6

18,1

17,7

130,8

Nhân khẩu/năm (kg)

277,0

277,9

337,5

295,5

303,0

143,6

Đàn trâu

x1000con

788

1051

1118,7

1237

1135

144,2

Đàn bò

x1000con

563

689

777

884

782

139

Đàn lợn

x1000con

2250

2445

2729

2915

2706

120

Nguồn: Nguyễn Sinh Cúc, 1995 

Riêng cuộc cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956với những biện pháp mạnh mẽ quá tay đã gây nhiều đau khổ cho dân, sau đó có chiến dịch sửa sai 1956-57, nhưng từ đó không còn thành phần đại điền chủ. Năm 1958, nhà nước bắt đầu hợp tác hóa quyền sở hữu đất ruộng (King,1977). Không cần nói thêm, cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc tương đối thành công san bằng giai cấp xã hội nông thôn, nhưng các biện pháp áp dụng trái với lòng dân, gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Từ 1958-75, nền nông nghiệp miền Bắc chịu ảnh hưởng lớn của tổ chức sản xuất hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) từ bậc thấp lên bậc cao, từ qui mô thôn lên qui mô xã, tập thể hóa ruộng đất và các vật tư sản xuất triệt để và mau chóng. Hầu hết các tổ đổi công, tập đoàn sản xuất được chuyển lên HTX NN bậc thấp rồi lên bậc cao. Đến cuối 1960, miền Bắc đã hoàn thành HTX NN bậc thấp với qui mô thôn chủ yếu, trong đó có 4 346 HTX bậc cao. Tuy nhiên, “nông dân lại thờ ơ với ruộng đất, với hợp tác xã, với kinh tế tập thể và xao lãng công việc đồng áng”. Số lượng hợp tác xã tăng nhanh từ 18 trong năm 1956 lên 45 trong 1957, 4 823 năm 1958, 27 831 năm 1959 và 40 422 năm 1960; nhưng nhiều chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh HTX giảm sút, lại có xu hướng không lành mạnh của kinh tế tập thể xuất hiện, nhứt là ở HTX cấp cao. Do đó, trong 17 năm hợp tác hóa nông nghiệp (1958-1975), kinh tế nông thôn phát triển ngược chiều với sự phát triển của phong trào hợp tác hóa (Nguyễn Sinh Cúc, 1995).

Trong khi đó, nền nông nghiệp Miền Nam còn tiếp nối các truyền thống, tổ chức, hành chánh của thời Pháp thuộc và quan tâm chủ yếu đến các chương trình cải cách điền địa, thành lập Trung tâm Dinh điền, Khu Trù mật và đặc biệt thực hiện cuộc Cách Mạng Xanh (CMX) sau cùng của thế giới. 

2.2.Chương trình cải cách ruộng đất tại Miền Nam (Lâm Thanh Liêm, 1996; King, 1977 và Angladette, 1966):

Từ 1955-1975, Miền Nam thi hành 2 cuộc Cải cách Điền địa:

- Cuộc cải cách điền địa lần thứ nhất và thành lập Dinh điền và khu Trù mật được thực hiện thời Đệ Nhứt Cộng Hòa (1955-1963).

- Cuộc cải cách điền địa lần thứ nhì được thực thi thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975). 

Từ 1955-58, chính sách cải cách điền địa Miền Nam được đề ra với 3 mục tiêu: (i) Phục hồi ruộng đất bị bỏ hoang, (ii) Điều chỉnh liên hệ giữa chủ điền và tá điền đối với vấn đề giá thuê và an ninh cho người thuê mướn, và (iii) Phân phối lại ruộng đất. Để thực hiện chính sách này, có hai chương trình nổi bật là chương trình “Dinh điền” cho di cư 100 000 dân từ miền Trung đông dân lên cao nguyên và dự án định cư 50 000 gia đình di cư từ miền Bắc ở ĐBSCL (King, 1977). 

Sau Hiệp Định Genève được ký kết, do tệ nạn bóc lột tá điền trở nên trầm trọng, nhà nước ban hành Dụ số 2 và Dụ số 7 thiết lập quy chế tá canh gồm các điều khoản chủ yếu như sau:

-          Giá thuê ruộng từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 vụ/ năm;

-          Giá thuê từ 15 đến 25% cho mùa gặt chánh của ruộng 2 vụ/ năm.

-          Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả ruộng và phải báo trước chủ ruộng 6 tháng. Chủ ruộng muốn lấy ruộng lại phải báo trước tá điền 3 năm.

            Một năm sau, ngày 22 tháng 10 năm 1956 Chính phủ ban hành Dụ số 57, luật về thuê ruộng qui định cho chủ điền:

-          Điền chủ có quyền giữ cho mỗi người 100 mẩu đất, phải canh tác 30%, số còn lại cho mướn theo điều kiện luật hợp đồng đã ban hành.

-          Ruộng truất hữu, chủ ruộng được bồi thường theo giá ruộng, 10% bằng tiền mặt, 90% trả bằng trái phiếu với lãi xuất 3%/ năm. Người giữ trái phiếu có quyền sử dụng trong các dịch vụ như trao đổi, kinh doanh, mua bán …

-          Ruộng truất hữu bán lại cho tá điền trả góp trong 12 năm vốn và lãi xuất 3% như đối với điền chủ cũ.

Có lối 1 035 điền chủ bị truất hữu với 430 319 mẫu ruộng truất hữu. Tính thêm 220 813 mẫu của Pháp kiều, tổng số ruộng truất hữu là 651 132 mẫu vào 1958. Số tá điền trở thành điền chủ từ năm 1957-1963 là 123 193 người. Ngoài ra, còn 2 857 người mua trực tiếp từ chủ ruộng, nâng con số điền chủ (mỗi người có tối thiểu 5 mẫu) lên 126 050 người. Và số ruộng mua riêng này là 252 213 mẫu. 

Từ 1967-1970 - Luật Người Cày Có Ruộng: số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay đem cấp phát cho nông dân. Từ 1967 đến 1969, cò thêm 261 874 gia đình được cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số tá điền trở thành chủ điền lên 438 004 người, hay chiếm 48% nông dân nghèo.

            Tiếp theo, Đạo luật số 003/70 ngày 23 tháng 03 năm 1970 - Luật “Người Cày Có Ruộng” được ban hành tại Cần Thơ, áp dụng cho mọi thành phần điền chủ.

-          Điền chủ tự làm ruộng của mình, nhưng số ruộng quá 15 mẫu bị truất hữu. Trong vòng 3 năm, 1970-1973: 51 695 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770 145 mẫu; 12 695 đại điền chủ, với 550 401 mẫu truất hữu.

-          Ruộng bị truất hữu được bồi thường 20% tiền mặt, còn lại 80% trả bằng trái phiếu, lời 10%/ năm trong 8 năm.

-          Tiêu chuẩn cấp phát ruộng truất hữu: 3 mẫu cho Miền Nam, 1 mẫu cho Miền Cao nguyên và Miền Trung.

-          Ruộng hương hỏa và của tôn giáo không bị chi phối bởi Luật Người Cày Có Ruộng.

Trước khi thi hành chính sách hợp tác xã hóa đất đai và sau Cải cách Ruộng đất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp Miền Nam chỉ gồm tiểu điền chủ có từ 0,10 - 5 mẫu và trung điền chủ có trên 5 mẫu ruộng trở lên. Giới đại điền chủ hầu như không còn nữa. Chương trình Cải cách điền địa lần thứ hai khá thành công mặc dù nhiều tốn kém và gặp khó khăn vì tình trạng an ninh; nhưng vẫn còn rất nhiều nông dân không có ruộng canh tác vì thiếu đất phân chia.

 

2.3. Dinh Điền và Khu Trù mật:

Ngoài ra, thời Đệ Nhứt Cộng Hòa còn có chính sách Dinh Diền và Khu Trù mật. Từ 1957-1961, Chính quyền thành lập 169 Trung tâm định cư đồng bào di cư, trong đó có 25 Khu Trù mật, tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dinh Điền phục hồi hoặc khai thác những vùng đất bị bỏ hoang hoặc đất mới khai phá, đem lại cho đồng bào 109 379 mẫu, nuôi sống 50 000 gia đình gồm 250 400 người.

·         Các Trung tâm Dinh Điền là những làng mạc mới dành cho dân di cư và người nghèo miền duyên hải Trung phần. Mỗi khu tiếp nhận từ 1 000 đến 1 500 dân, có chợ trời, một nữ y tá, một cô đở đẻ, một trường tiểu học có 8 lớp. Ở ĐBSCL, người dân được cấp phát không từ 1 đến 3 ha cho mỗi gia đình định cư, 1 ha đất khẩn hoang tại miền Ðông Nam Phần và Cao nguyên Trung Phần. Họ được phép khai khẩn đất hoang đến 5 ha/gia đình. Ngoài ra, họ còn được đảm bảo đời sống với trợ cấp lương thực khoảng 1 năm cho đến khi họ bắt đầu thu hoạch mùa màng đầu tiên. Người dân còn được cấp phát không các nông cụ (cuốc, búa, mác, xẻng, phân hóa học...), hạt giống, con giống (gà, vịt). Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay tiền lãi suất thấp không thế chấp và bảo lãnh, để họ có phương tiện tài chánh canh tác (lãi suất chợ đen từ 30-40% năm).

·         Khu Trù mật là nơi tập trung dân sống hẻo lánh, thiếu phương tiện cần thiết cho đời sống như chợ búa, trường học, trạm xá y tế, điện, nước, …Mỗi Khu Trù mật gồm từ 3 000 đến 3 500 người. Một ngân hàng nông thôn, Quốc Gia nông tín cuộc, đưọc thành lập để yểm trợ Chương trình Dinh Điền và Khu Trù mật bằng cách cho vay với lãi xuất nhẹ. Dần dần một số khu Trù mật trở nên thị trấn, khá sung túc, chẳng hạn khu trù mật Chương Thiện nay là Thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

Thành quả của Cải cách Điền Địa, Dinh Diền và Khu Trù mật còn giới hạn, vì chỉ biến 176 130 gia đình nông dân nghèo (khoảng 20%) trở thành chủ ruộng đất từ ít nhất 1 mẫu trở lên, trong khi 80% dân còn lại chưa được giải quyết thỏa mãn. 

2.4. Cuộc Cách mạng Xanh ở Việt Nam (CMX):

Từ 1968-1975, cuộc CMX xảy ra ở Việt Nam và nhiều nước châu Á. Sản lượng lúa cả nước đã tăng từ 8,8 triệu tấn trong 1967-69 lên 11 triệu tấn trong 1974-75, hoặc tăng 3,5% mỗi năm. Giống lúa IR8 (Hình 1) đã góp phần rất lớn vào tăng sản xuất lúa gạo của hai Miền Bắc Nam lúc bấy giờ. Đây là giống lúa hiện đại sáng tạo bởi Viện Nghiên Cứu Lúa IRRI, Philippines, du nhập vào Miền Nam năm 1966 và tạo ra cuộc CMX sau này. IR8 và các giống IR khác có các đặc tính đáng chú ý: lúa có gen nửa lùn, lá xanh đậm, thẳng đứng, nhiều chồi, không đổ ngã khi lúa chín, và có phản ứng phân đạm cao; nhờ đó năng suất lúa có thể đạt đến 11 tấn/ha, trung bình từ 4-8 t/ha, gấp hai ba lần các giống lúa truyền thống nội địa (Hình 1). Tuy nhiên, cuộc CMX không thể phát huy đúng mức vì tình trạng chiến tranh và chính sách nông nghiệp trong nước. Sau 1975, cường độ Cách Mạng Xanh giảm dần và chỉ tái bùng phát vào thời kỳ Đổi Mới kinh tế.

Tại Miền Nam, lúa IR8 được trồng đại trà lần đầu tiên năm 1967 ở Vỏ Đắt, tỉnh Bình Tuy. Đến vụ lúa 1968-69, giống lúa hiện đại tăng lên 23 373ha, với năng suất bình quân 4t/ha so với lúa truyền thống 2t/ha, mở đầu cuộc Cách Mạng Xanh trong nước. Giống lúa IR8 được đổi tên Thần Nông 8 (TN8)[15]. Sau đó, giống lúa hiện đại được phổ biến mạnh mẽ qua chương trình “Tăng gia sản xuất lúa Thần Nông” do Sở Lúa Gạo, Bộ Canh Nông Miền Nam thực hiện đại qui mô, với mô hình “mini kit” của Philippines: Mỗi nông dân trồng lúa TN (lần đầu tiên) được cung cấp một gói nhỏ (mini kit) gồm lúa giống TN8, phân hóa học và thuốc sát trùng diazinon (Trần Văn Đạt, 2002). 

Hình 1: Giống lúa IR8 và giống lúa cha mẹ: Peta của Indonesia và Dee-geo-woo-gen (DgWg) của Đài Loan (ảnh IRRI) 

Đến vụ 1973-74, diện tích lúa hiện đại (TN8, TN5, TN20, TN22, TN 73-1 và TN 73-2) chiếm độ 32% hay 890.000 ha với năng suất bình quân 4 t/ha và sản lượng của lúa Thần Nông chiếm 53% tổng sản lượng lúa miền Nam. Vào vụ 1974/75, tổng sản lượng lúa gạo miền Nam ước độ trên 7 triệu tấn (Xem thêm Phụ bản 2: Cuộc Cách Mạng Xanh tại Việt Nam).

Trong CMX, Miền Nam đã đạt bốn thành tựu lớn về mặt kỹ thuật: (1) Sử dụng các giống lúa hiện đại trên diện tích rộng lớn, (2) Sử dụng chất hóa học tăng nhanh, đặc biệt phân bón từ 177 000 tấn phân bón năm 1965 lên 460 000 tấn năm 1970 (Nguyễn Văn Ngôn, 1974), (3) Tăng tốc cơ giới hóa trong sản xuất, biến chế trong hậu thu hoạch và vận chuyển, và (4) Cải cách ruộng đất với đa số nông dân trở thành chủ thữa ruộng trồng. Tuy nhiên, cuộc Cách Mạng này cũng gây ra bốn vấn đề tiêu cực: (i) Xói mòn di truyền (các giống lúa truyền thống biến mất dần), (ii) Ô nhiễm môi trường và sâu bệnh nhiều hơn do dùng nhiều chất hóa học, (iii) Đất đai kém phì nhiêu (bị “đào mỏ”) và (iv) Mất cân bằng xã hội giữa nông dân canh tác tưới tiêu (lúa hiện đại) và nông dân trồng lúa không tưới tiêu hay nhờ nước trời (lúa truyền thống).

Ở Miền Bắc, giống lúa IR8 hay Nông Nghiệp 8 (NN8) có lẽ được du nhập từ miền Nam qua ngả Tây Ninh vào cuối vụ mùa 1968-69 để trồng thử nghiệm và có kết quả tốt ở vụ Đông-xuân, tiếp theo chặn đường nhập nội các giống thấp cây từ Trung Quốc như Trân Châu Lùn, Thượng Hải 2 và Thượng Hải 4 (Vũ Tuyến Hoàng, 1986). Sau đó, NN8 được trồng đại trà năm 1989 và CMX phát khởi từ đó, có lúc chiếm đến 50% diện tích gieo trồng Miền này. Mặc dù giống NN8 có thời gian sinh trưởng dài đến 180 ngày do ảnh hưởng nhiệt độ thấp của vụ Đông-xuân và chất lượng thấp, nhưng năng suất rất cao từ 4 đến 8 t/ha nên được nông dân ưa chuộng. Vì thế, giống NN8 có dạo chiếm đến 65% diện tích vụ Đông-xuân và 35% vụ mùa (Võ Tòng Xuân, 1995). Giống NN8 còn được trồng đến gần cuối thập niên 1990. 

Cuộc Cách Mạng Xanh đã giúp Việt Nam không những tự túc được lúa gạo mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo hạng hai hoặc ba trên thế giới và cung cấp cho giới tiêu thụ gạo với giá thấp và khá ổn định. CMX vẫn tiếp diễn trong nước đến đầu thập niên 2010 mới chấm dứt. Trong khi đó CMX trên thế giới, như Indonesia, Philippines, Trung Quốc, Sri Lanka, các xứ châu Mỹ La Tinh, v.v. đã chấm dứt từ giữa thập niên 1990 hoặc sớm hơn; nhưng cuộc Cách Mạng này chưa đến châu Phi, do không có chính sách nông nghiệp thích ứng và thiếu hệ thống tưới tiêu và cung cấp vật tư!

Tuy nhiên, sau hơn nửa thế kỷ từ sự ra đời của giống lúa IR8 có năng suất tiềm thế đến 11 t/ha, chúng ta chưa thấy có giống lúa nào vượt hơn giống lúa cao năng này được trồng đại trà trong điều kiện khí hậu nhiệt đới! 

2.5.  Giai đoạn sản xuất lúa tập thể từ 1976-1987 (Nguyễn Sinh Cúc, 1995)

Trong giai đoạn này, cuộc Cách Mạng Xanh cả nước chậm lại hay ngừng đọng do chính sách tập trung sản xuất và thiếu phân hóa học, chỉ tái phục hồi khi thời Đổi Mới kinh tế bắt đầu.

Từ 1976 đến 1980: Nông nghiệp Việt Nam đã được thống nhứt, tiềm năng và thế mạnh của hai miền Nam - Bắc bổ sung nhau để cùng đưa kinh tế quốc gia phát triển mạnh, nhưng do tác động của hệ sản xuất tập thể, mô hình quản lý và kế hoạch hóa tập trung đã làm tình hình trở nên phức tạp, hiệu quả sản xuất bị trì trệ. Ở nông thôn miền Bắc, nhà nước chuyển toàn bộ HTX qui mô thôn lên qui mô toàn xã, đội sản xuất mở rộng lên qui mô thôn. Đến 1979, toàn miền có 4 154 HTX toàn xã, trong đó có 825 HTX có trên 500ha canh tác, 159 HTX có trên 700ha và một số xã có trên 1 000ha.

Tất cả HTX đều phải tập thể hóa ruộng đất, trâu bò, nông cụ theo mô hình HTX bậc cao bất kể điều kiện kinh tế xã hội như thế nào. Lao động nông dân được tổ chức thành đội chuyên môn hóa: chuyên làm đất, chuyên làm giống, chuyên thủy lợi, chuyên chăn nuôi lợn tập thể…, nhưng thiếu phối hợp nhau. Các đội chuyên áp dụng hình thức khoán việc và nhận điểm theo kết quả, chứ không quan tâm đến kết quả cuối cùng là năng suất, sản lượng. Do đó tình trạng kinh doanh HTX thường có hiệu quả thấp, thua lỗ phổ biến.

Trong khi các hợp tác xã nông nghiệp Miền Bắc đang bi khủng hoảng, nền nông nghiệp miền Nam được tổ chức theo hệ thống tập thể như đã được thực hiện ở Miền này, nhưng trong thực tế lỏng lẻo hơn. Đặc biệt hơn hết là chính sách điều chỉnh ruộng đất theo phương thức “cào bằng”, ảnh hưởng rất nhiều đến thành phần trung nông chiếm đa số ở Miền Nam. Sau thí điểm xây dựng hợp tác xã ở Tân Hội, Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, các tỉnh Nam Bộ nhanh chóng thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp dưới hai hình thức - hợp tác xã (312ha/mỗi đơn vị) và tập đoàn sản xuất (bình quân 40ha và 38 hộ mỗi đơn vị). Đến năm 1980, miền Nam đã có 1 518 hợp tác xã, trong đó có 1 005 hợp tác xã cấp cao và 9 350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% số hộ nông dân toàn Miền (Nguyễn Sinh Cúc, 1995).

Đất đai thuộc nhà nước và tập thể hóa, lực lượng lao động kết hợp từ nông dân trong cơ chế - cấp - phát - giao - nộp. Nhà nước đặt ra quota sản xuất mỗi thời vụ và nông dân được cung cấp phương tiện lúa giống, phân bón, trâu bò để canh tác qua hợp tác xã. Nhà nước thu thuế lúa với giá ấn định của các nông trại quốc doanh qua các hợp tác xã. Nông dân gồm những nhóm lao động được trả lương bằng số giờ làm việc, chứ không bằng sản xuất. Do đó, tình trạng sản xuất lúa trong giai đoạn từ 1976 đến 1980 ngưng đọng (FAO, 1994). Trong giai đoạn này, sản xuất lúa cả nước chỉ độ 11 triệu tấn mà thôi và năng suất bình quân khoảng 2 t/ha.

Từ 1981 đến 1987: Từ năm 1981, nhà nước thi hành chính sách mới gọi là “khoán 100” (Chỉ thị 100 CT-TW của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng), cải tiến hình thức khoán, chuyển từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội đến khoán gia đình. Khoán 100 cho các gia đình nông dân thuê đất ruộng, nhưng hoạt động hợp tác xã vẫn là chủ yếu trong việc phân phối các phương tiện canh tác, thu thuế và thu mua lúa. Mỗi gia đình nông dân được giữ tối đa 5% đất ruộng để làm thí điểm và chỉ làm chủ 3 khâu: gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.

Một hệ thống “giao kèo” với nông dân được thiết lập cho giá lúa thu mua. Tuy nhiên, giá lúa này do Ủy Ban giá cả nhà nước ấn định tùy theo giá thành sản xuất. Nông dân phải bán một số lượng lúa được ấn định trước cho các hợp tác xã và phải trao đổi lúa cho các phương tiện canh tác do nhà nước cung cấp. Chẳng hạn, một kg urê bằng 2,4 kg lúa vào năm 1985-87 và bằng 2 kg lúa trong năm 1988; 1 kg phosphate = 1 kg lúa; 1 lít dầu = 4 kg lúa. Sự thay đổi này đã làm sản xuất trong nước tăng hơn, mỗi năm 3,1%, nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu cả nước nên vẫn còn phải nhập khẩu gạo (FAO, 1994). 

2.6.   Giai đoạn Đổi Mới kinh tế từ 1988 đến 2017

Vào tháng 4 năm 1988, nhà nước thi hành Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, trong đó hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Nghị quyết 10 thừa nhận quyền sở hữu máy móc, trâu bò, nông cụ, v.v. của hộ xã viên và đảm bảo hài hòa giữa 3 lợi ích: nhà nước, tập thể và người lao động. Người lao động được hưởng 40% sản lượng khoán và chỉ có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp theo luật định. 

Sau đó, Nghị quyết 5 được ban hành vào tháng 6-1993, với mục đích nhằm phát triển kinh tế và xã hội nông thôn, đặc biệt nới rộng quyền của người sử dụng đất như quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất, làm cho nông dân yên tâm đầu tư khai hoang, phục hóa, tăng vụ, cải tạo đất. Nhà nước cũng khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân ở nông thôn. Ngoài ra, còn có các Nghị định về hộ nông dân vay vốn sản xuất, về công tác khuyến nông, phân hạng đất, tính thuế sử dụng đất nông nghiệp.

 Qua chính sách Đổi Mới kinh tế nêu trên, một loạt các biện pháp được thi hành làm thay đổi hẳn tình trạng sản xuất nông nghiệp trong nước. Nông dân được thuê đất đến 20 năm cho cây hàng niên và 50 năm cho cây đa niên. Họ được tự do quyết định trên sản xuất của họ và mua các phương tiện canh tác tùy ý, không phải qua hợp tác xã nữa (Lê Hồng Nhu, 1999). Nhờ chính sách Đổi Mới, một năm sau sản lượng lúa tăng hơn 1 triệu tấn và Việt Nam đã chuyển từ nước nhập khẩu thành nước xuất khẩu lúa gạo. Số lượng lúa quốc gia tăng từ 17 triệu tấn trong 1988 lên 43,2 triệu tấn năm 2016, hay hơn 5,5% mỗi năm; diện tích thu hoạch tăng từ 5,7 triệu ha lên 7,7 triệu ha, hay 35%; và năng suất tăng từ 3,0 t/ha lên 5,6 t/ha, hay 33% (Bảng 2) (Tổng Cục Thống Kê, 2017). Thành quả lớn lao này trong những năm đầu của Đổi Mới kinh tế phần lớn do thay đổi chính sách hơn là do cải thiện kỹ thuật, nhưng về sau phát triển kỹ thuật gồm công trình thủy lợi và sử dụng phân hóa học đóng vai trò quan trọng hơn; từ đó cuộc Cuộc Mách Xanh tái tục đến đầu thập niên 2010.

            Về các vùng sinh thái, diện tích, năng suất và sản lượng trong 2016 được báo cáo trong Bảng 2. Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất lúa lớn nhứt nước với 23,8 triệu tấn lúa, chiếm gần 55% sản lượng cả nước; đồng bằng sông Hồng 6,5 triệu tấn hay 15,2%; Trung du phía Bắc 3,4 triệu tấn hay 8%; vùng Bắc và duyên hải Trung Bộ độ 6,8 triệu tấn hay độ 15,9%; Tây Nguyên 1,17 triệu tấn hay 2,7%; và Miền Đông Nam Bộ 1,37 triệu tấn hay 3,2% (Bảng 3).

Về năng suất, đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có năng suất cao nhứt 6,0t/ha, kế đến ĐBSCL 5,6 t/ha, Bắc Trung bộ và Duyên hải 5,6 t/ha, Tây nguyên và miền Đông Nam bộ có năng suất thấp nhứt 5,0 t/ha (Bảng 3). Tỉnh sản xuất lúa lớn nhứt là Kiên Giang kế đến An Giang và Đồng Tháp, với sản lượng 4,2, 4,0 và 3,4 triệu tấn lúa, theo thứ tự. (Xem thêm chi tiết ở Phụ Bản 4: Diện tích, năng suất và sản lượng theo địa phương, 1961-2017)

Tóm lại, trong quá trình CMX và thời kỳ Đổi Mới kinh tế, cơ cấu trồng lúa của nước có sự chuyển dịch đặc biệt quan trọng như sau:

(i)  Chuyển cơ cấu trồng lúa cấy qua lúa gieo thẳng, hiện chiếm hơn 95% diện tích trồng lúa Miền Nam. Chiều hướng nầy đang tiếp tục bành trướng ra Miền Trung và Miền Bắc do tiết kiệm nước, nhân công đắt đỏ và sự hiện diện thuốc diệt cỏ với giá phải chăng. Tại ĐBSCL, dịch chuyển cơ cấu vụ được thể hiện qua giảm sút diện tích lúa Mùa, tăng diện tích gieo sạ Đông-xuân và Hè-thu. Nông dân còn chuyển đổi cơ cấu trồng lúa sang trồng cây ăn quả hoặc rau hoa do lợi tức cao; do đó, khuynh hướng này cần được khuyến khích ở những vùng sản xuất lúa dư thừa như ĐBSCL để cải thiện đời sống nông dân và nông thôn.

(ii) Ở đồng bằng Bắc bộ, vụ lúa Chiêm hay Đông-xuân giảm dần và được thay thế bằng vụ Xuân ngày càng tăng. Trái lại, diện tích vụ lúa Đông-xuân Miền Nam tăng rất nhiều.

(iii) Trong cả nước, diện tích vụ Đông-xuân tăng từ 1,8 triệu ha năm 1985 lên 3,1 triệu ha năm 2016 (phần lớn từ ĐBSCL). Trong cùng thời kỳ, vụ Hè-thu tăng từ 994 300 ha lên 2,9 triệu ha, nhưng vụ lúa Mùa giảm từ 2,9 triệu ha xuống 1,7 triệu ha, chủ yếu ở Miền Nam (Bảng 2).

(iv) Sử dụng các giống lúa ngắn ngày (90-100 ngày) để vừa tăng vụ mùa vừa tránh lũ lụt hoặc hạn mặn ở giữa và cuối vụ; nhưng khuyến khích trồng 3 vụ lúa mỗi năm tăng cao ở Miền Trung và ĐBSCL không cần thiết do gây thêm nhiều sâu bệnh, ô nhiễm môi trường trong một nước xuất khẩu gạo lớn.

(v) Phát triển trồng lúa có chất lượng tốt để nâng cao giá trị trồng trọt, nhằm cải tiến khả năng cạnh tranh thị trường trong nước cũng như thế giới. Gạo xuất khẩu chưa có thương hiệu nổi tiếng.

(vi) Cơ giới hóa sản xuất lúa phát triển khá mạnh, nhứt là khâu làm đất, tưới tiêu, thu hoạch và biến chế bảo quản; tuy nhiên cần khuyến khích tích tụ ruộng đất nhiều hơn hoặc bải bỏ hạn điền để thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp.

(vii) Miền Bắc nỗ lực thực hiện chương trình sản xuất lúa lai từ 1991, dùng hạt giống F1 phần lớn nhập nội từ Trung Quốc. Nhưng chương trình này cần giảm bớt dần rồi chấm dứt vì quá tốn kém cho nhập lúa lai giống mỗi năm và nhu cầu cấp bách của ĐBSH không còn nữa.

Trong thời Đổi Mới, nhà nước có những lo lắng không cần thiết khi nông dân có khuynh hướng biến đổi ruộng thành vườn ở ĐBSCL hoặc dùng ruộng lúa cho những nhu cầu khác như nuôi tôm cá, công nghiệp hóa, đô thị hóa, v.v., có lợi tức cao hơn; trong khi Việt Nam sản xuất dư thừa lúa gạo, nông dân trồng lúa bị thiệt thòi vì giá thấp. Vấn đề hiện nay là cần có chính sách hướng dẫn nông dân chuyển đổi ruộng đất gò cao và xấu qua các sử dụng khác thích hợp hơn để cải thiện đời sống nông thôn. Theo kinh nghiệm thế giới, vấn đề an ninh lương thực quốc gia không chỉ do trách nhiệm của khâu sản xuất lúa, mà còn tùy thuộc có tính cách quyết định vào quản lý tồn trữ và phân phối địa phương trong một nước sản xuất dư thừa.

 Bảng 2: Diện tích và sản lượng trồng lúa theo vụ, 1968-2016 

 

Diện tích (x 1000 ha)

 

 

Tổng số

Chia ra

 

 

Lúa
đông xuân

Lúa
hè thu

Lúa mùa

 

  1968

          4893,8

 

 

 

 

1988

5726,4                                                                                                                                                                                     

 

1882,1

 

994,3

 

2850,0

 

1990

6042,8

2073,6

1215,7

2753,5

 

1991

6302,8

2160,6

1382,1

2760,1

 

1992

6475,3

2279,0

1448,6

2747,7

 

1993

6559,4

2323,6

1549,1

2686,7

 

1994

6598,6

2381,4

1586,1

2631,1

 

1995

6765,6

2421,3

1742,4

2601,9

 

1996

7003,8

2541,1

1984,2

2478,5

 

1997

7099,7

2682,7

1885,2

2531,8

 

1998

7362,7

2783,3

2140,6

2438,8

 

1999

7653,6

2888,9

2341,2

2423,5

 

2000

7666,3

3013,2

2292,8

2360,3

 

2001

7492,7

3056,9

2210,8

2225,0

 

2002

7504,3

3033,0

2293,7

2177,6

 

2003

7452,2

3022,9

2320,0

2109,3

 

2004

7445,3

2978,5

2366,2

2100,6

 

2005

7329,2

2942,1

2349,3

2037,8

 

2006

7324,8

2995,5

2317,4

2011,9

 

2007

7207,4

2988,4

2203,5

2015,5

 

2008

7400,2

3013,1

2368,7

2018,4

 

2009

7437,2

3060,9

2358,4

2027,9

 

2010

7489,4

3085,9   

2436,0

1967,5

 

2011

7655,4

3096,8

2589,5

1969,1

 

2012

7761,2

3124,3

2659,1

1977,8

 

2013

7902,5

3105,6

2810,8

1986,1

 

2014

7816,2

3116,5

2734,1

1955,6

 

2015

7828,0

3168,0

2869,1

1790,9

 

2016

7737,1

3128,9

2872,9

1735,3

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sản lượng (x 1000 tấn)

 

 

Tổng số

Chia ra

 

Lúa
đông xuân

Lúa
hè thu

Lúa mùa

 

  1968

  8366,2

 

 

 

 

1988

17000,0

 

 

 

 

1990

19225,1

7865,6

4090,5

7269,0

 

1991

19621,9

6788,3

4715,8

8117,8

 

1992

21590,4

9156,3

4907,2

7526,9

 

1993

22836,5

9035,6

5633,1

8167,8

 

1994

23528,2

10508,5

5679,4

7340,3

 

1995

24963,7

10736,6

6500,8

7726,3

 

1996

26396,7

12209,5

6878,5

7308,7

 

1997

27523,9

13310,3

6637,8

7575,8

 

1998

29145,5

13559,5

7522,6

8063,4

 

1999

31393,8

14103,0

8758,3

8532,5

 

2000

32529,5

15571,2

8625,0

8333,3

 

2001

32108,4

15474,4

8328,4

8305,6

 

2002

34447,2

16719,6

9188,7

8538,9

 

2003

34568,8

16822,7

9400,8

8345,3

 

2004

36148,9

17078,0

10430,9

8640,0

 

2005

35832,9

17331,6

10436,2

8065,1

 

2006

35849,5

17588,2

9693,9

8567,4

 

2007

35942,7

17024,1

10140,8

8777,8

 

2008

38729,8

18326,9

11395,7

9007,2

 

2009

38950,2

18695,8

11212,2

9042,2

 

2010

40005,6

19216,8

11686,1

9102,7

 

2011

42398,5

19778,3

13402,9

9217,3

 

2012

43737,8

20291,9

13958,0

9487,9

 

2013

44039,1

20069,7

14623,4

9346,0

 

2014

44974,6

20850,5

14479,2

9644,9

 

2015

45091,0

21091,7

15341,3

8658,0

 

2016

43165,1

19646,6

15232,1

8286,4

 

                   

 

 _________________________________________

   Nguồn: Tổng Cục Thống Kê (GSO), 2017

      Sản lượng 1968 và 1988 do thông tin từ FAOSTAT

      (www.fao.org), 2010

 

Bảng 3: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa theo vùng sinh thái, 2016

 

 

Vùng sinh thái 

Diện tích

(ha)

Năng suất

(t/ha)

Sản lượng

(tấn)

Cả nước

7.737.100

5,58

43.165.100

Đồng bằng sông Hồng

1.094.400

5,98

6.545.000

Trung du và miền núi phía Bắc

682.600

4,99

3.405.500

Bắc Trung Bộvà Duyên hải Miền Trung

1.215.300

5,63

6.842.200

Tây Nguyên

233.300

5,03

1.174.000

Đông Nam Bộ

270.400

5,06

1.367.400

Đồng bằng sông Cửu Long

4.241.100

5,62

23.831.000

______________________________________________________

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, 2017

 

3.      TRÌNH ĐỘ NÔNG DÂN VÀ ĐẶC TÍNH NÔNG HỘ TRỒNG LÚA HIỆN ĐẠI

Sự phát triển trình độ canh tác lúa của nông dân có thể được đánh giá theo mức độ chấp nhận các giống lúa hiện đại, kỹ thuật trồng lúa tiên tiến và diễn biến năng suất lúa theo thời gian. Theo nghiên cứu của Trần Thị Út và Hossain (2000), diện tích trồng lúa cao năng hay lúa hiện đại tăng từ zero trong 1966 lên 300 ha năm 1967, độ gần 1 triệu ha năm 1980 và 6,6 triệu ha năm 1998 hay gần 90% tổng diện tích gieo trồng. Tổng quát, lúa gạo đóng góp 37% vào lợi tức của gia đình nông dân trong khu vực khảo sát. Lúa tưới tiêu đem về 41,5% (587,42 Mỹ kim) so sánh với lúa không tưới tiêu chỉ 18,2% (90,30 Mỹ kim).

            Từ 1968-2009, năng suất lúa bình quân tăng từ 1,8 t/ha lên 5,2 t/ha, hay 4,3% mỗi năm. Có thể nói kiến thức của nông dân về trồng lúa từ Bắc chí Nam đã mở mang rất nhanh chóng trong thời CMX và Đổi Mới kinh tế, khi các kỹ thuật tân tiến và phương tiện truyền thông được mở rộng đến nông thôn. Nông dân Việt Nam rất thông minh, bén nhạy và mau hấp thụ các kỹ thuật tiến bộ và mới mẻ. Hiện nay đa số không còn mang bản chất bảo thủ đối với các kỹ thuật hiện đại nhập nội từ thế giới bên ngoài, như đã thấy trong thời Pháp thuộc. Họ sẵn sàng chấp nhận các kỹ thuật mới lạ, miễn mang đến lợi ích thiết thực. Trình độ kỹ thuật của nông dân đã biến chuyển khá rõ rệt từ thời đại phong kiến, thực dân đến cuộc CMX liên quan đến vụ mùa, làm đất, phương pháp canh tác, chăm sóc, bảo vệ mùa màng, thu hoạch, biến chế và tồn trữ (Bảng 4).

Dù vậy, ngành trồng lúa hiện nay còn mang tính chất chậm tiến so với các nước phát triển với những nét đặc thù nổi bật như sau: 

1)      Năng suất bình quân cả nước còn tương đối thấp, chỉ 5,6 t/ha trên 7,7 triệu ha (2016) so với Trung Quốc 6,9 t/ha trên 31 triệu ha lúa (2017);

2)      Chất lượng lúa và gạo còn kém ở thị trường nội địa và thế giới, chưa có thương hiệu nổi tiếng;

3)      Sử dụng quá nhiều nhân công, đặc biệt ở Miền Bắc;

4)      Ruộng đất phân chia quá nhỏ; 

5)      Phương tiện canh tác còn dùng nhiều sức lao động;

6)      Công nghệ bảo quản biến chế còn kém, nhứt là thiếu kho vựa hiện đại;

7)      Thiếu thông tin nông nghiệp chính xác, kịp thời; 

8)      Thiếu tổ chức thị trường hữu hiệu có lợi cho nông dân;

9)      Thanh niên nông thôn di chuyển ra thành thị và nơi có công nghiệp;

10)  Đời sống nông dân trồng lúa và nông thôn còn thấp; 

11)  Chính sách hỗ trợ nông dân chưa đủ;

12)  Biến đổi khí hậu toàn cầu, nhứt là mực nước biển dâng cao và xâm nhập vào sông rạch hàng năm.

13)  Khâu xuất khẩu gạo còn do nhà nước chủ đạo. 

Đây là các lãnh vực cần được cải thiện để nâng cao khả năng cạnh tranh kinh tế, cải tiến đời sống nông dân và nông thôn với các chính sách, quy hoạch và quản lý nông nghiệp thích đáng. Có lẽ chính sách hạn điền là “vòng kim cô” ràng buộc công cuộc hiện đại hóa và sự phát triển của ngành sản xuất lúa gạo trong nước thời gian qua.

Bảng 4: So sánh kỹ thuật canh tác lúa truyền thống (đến 1967) và lúa hiện đại (từ 1968 đến nay) 

 

       Canh tác lúa truyền thống           

 

 

          Canh tác lúa hiện đại

 

1)      Miền Nam, có 3 loại lúa: lúa Sớm (3-4 tháng), lúa Lỡ (51/2-61/2 tháng) và lúa Muộn hay Mùa (7-8 tháng). Miền Bắc có vụ lúa Chiêm và vụ lúa Mùa. Lúa Mùa quan trọng nhất;



 

2)      Có khoảng 640 000 ha lúa nổi (nước sâu) ở Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, với năng suất thấp độ 2 t/ha;

3)      100% giống lúa truyền thống, thân cao, lá dài và cong, bị quang cảm, ít phản ứng đạm, dễ ngã, với năng suất độ 1-3 t/ha;

4)      Chọn lựa giống lúa ở ngay ngoài ruộng; 23-40 kg/ha (Trần Văn Hữu, 1927);



 

5)      Dùng tuổi mạ già (45-60 ngày) (Mạ vàng cấy lúa chóng xanh);

6)      Cấy lúa 2 lần ở những nơi nước sâu (50-60 cm);

7)      Cấy 5-10 cây mạ/bụi (cấy bằng nọc cây);

8)      Cấy thưa với khoảng cách 30x30, 40x40 cm; hoặc 70x70 cm ở một vài nơi ruộng sâu;

9)      Ít hoặc không dùng phân hóa học với công thức khuyến cáo 60-30-30, nhưng nhiều P thiên nhiên, phân hữu cơ, phân xanh ở Miền Bắc và Miền Trung;

 

10)  Ít hoặc không dùng đến thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ;

 

11)  Ít được tưới tiêu;

12)  Ít được cơ giới hóa, sử dụng nhiều sức lao động từ dọn đất đến thu hoạch và biến chế;

13)  Hạt lúa dễ rụng nên gặt sớm hơn (Xanh nhà hơn già đồng);

14)  Nông dân thường “đi mót” lúa (gié lúa rơi)

15)  Quãng canh và độc canh; 

 

 

 

 

 

16)   Hiệu năng trồng lúa

      kém.

  1. Miền Nam, lúa Mùa ngày càng giảm bớt quan trọng do giống lúa ngắn ngày có năng suất cao; lúa Đông-xuân và Hè-thu trở nên quan trọng hơn. Miền Bắc, lúa Xuân thay thế phần lớn vụ lúa Chiêm và hệ thống canh tác có thêm vụ màu mùa đông sau vụ Mùa;
  2. Chỉ còn ít hơn 200 ha lúa nổi; diện tích còn lại đã biến đổi từ một vụ thành 2 vụ lúa cao năng;

 

  1. Hơn 95% giống lúa cao năng hiện đại, thân ngắn, lá xanh đậm và thẳng, ít hoặc không có quang cảm, phản ứng đạm cao, năng suất bình quân 6-8 t/ha;
  2. Nông dân mua hạt giống cải tiến, nhưng vẫn còn trao đổi giống với nhau, 20-40 kg/ha hạt giống cho lúa cấy, 70-100 kg/ha cho lúa gieo thẳng;
  3. Mạ non từ 20-30 ngày (trên 30 ngày do nhiệt độ thấp ở Miền Bắc);
  4. Cấy một lần vì nhiều nơi mực nước có thể được điều chỉnh;
  5. Cấy 2-3 tép/bụi; Lúa sạ thẳng gia tăng;
  6. Cấy dày (hẹp): 20x20 cm, 20x25 cm, 15x20 cm; 10x15 cm;

  7. Dùng nhiều phân hóa học, N, P và K với công thức 120-60-40, ít phân hữu cơ hơn; bón phân cơ bản (1/2N-P-K) và rước đòng vời urê (1/2N).

 

  1. Dùng nhiều thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ và IPM (Integrated pest management);
  2. Phần lớn ruộng được tưới tiêu (> 95%);
  3. Một phần được cơ giới, đặc biệt khâu làm đất, tưới tiêu, thu hoạch và biến chế;
  4. Hạt lúa ít rụng hơn;

 

  1. Không còn đi mót lúa;

 

  1. Thâm canh hơn nhưng vẫn còn độc canh nhiều lúa, vài nơi ở Miền Trung và Miền Nam làm 3 vụ lúa (trên 500.000 ha);
  2. Hiệu năng trồng lúa được cải tiến, nhưng còn thấp.

 

             Trong năm 2000, một nghiên cứu của IRRI về so sánh các nôi sản xuất lúa tại một số nước Châu Á, gồm Việt Nam (liên lạc với Dr. David Dawe, IRRI) cho biết bình quân mỗi gia đình nông hộ trồng lúa có 6 người, có trình độ học vấn tương đương với nhau khoảng 7 năm, vào lứa tuổi 47-48 tại một số nôi trồng lúa châu Á, như cánh đồng Trung bộ của Thái Lan; Trung bộ Luzon, Philippines; Tây Java, Indonesia; Zhejiang, Trung Quốc và đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long ở Việt Nam. Ngoại trừ trình độ học vấn cao hơn hết ở vùng Tamil Nadu, Ấn Độ.

Diện tích trồng lúa của nông dân Việt Nam và ngay cả đồng bằng sông Cửu Long quá nhỏ khi so sánh với các nước khác trong khu vực. Thật vậy, diện tích trồng lúa bình quân của mỗi hộ ở ĐBSCL là 0,97ha và ĐBSH là 0,31ha, trong khi ở Tamil Nadu, Ấn Độ 4,30ha, Trung bộ Thái Lan 4ha, Trung bộ Luzon của Philippines 2,18ha, Tây Java của Indonesia 0,69ha và Zhejiang của Trung Quốc 1,18ha. Điều này cho thấy nông dân trồng lúa Việt Nam nghèo hơn nông dân các vùng nghiên cứu nêu trên.

Tóm lại, ngành trồng lúa Việt Nam đã bành trướng liên tục trong hơn 6 000 năm lịch sử của đất nước, với óc sáng tạo và quyết tâm của dân tộc cũng như khả năng hòa hợp và sàng lọc các kinh nghiệm, kiến thức được tích lũy từ chính mình, các nước láng giềng và những kẻ xâm lược. Do đó, trình độ trồng lúa nước ta luôn bắt kịp các nước Trung Quốc, Thái Lan, Philippines, Indonesia, v.v., nếu không muốn nói có lúc vượt hơn các nước này. Thành tựu đó được phản ánh qua cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng của nhân loại đã phát khởi từ giữa thập niên 1960 tại Việt Nam, và thời Đổi Mới kinh tế từ 1988. Dù muộn hơn nhiều quốc gia khác, ngành sản xuất lúa bản xứ vẫn phát triển mạnh mẽ với các nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào; nhờ đó Việt Nam đã chiếm lĩnh ngôi vị thứ hai hoặc ba các nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới trong hơn thập niên qua; nhưng chất lượng còn kém, chưa có thương hiệu quốc gia nổi tiếng và đang phải đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Hiện nay, trình độ kỹ thuật trồng lúa của nông dân Việt Nam không thua kém các nước láng giềng tiến bộ. Sự hiểu biết của nông dân về canh tác lúa để làm thức ăn căn bản cho gia đình đã chuyển hướng tích cực từ tuyển chọn các giống lúa có năng suất cao đến lề lối canh tác thâm canh hơn trong ruộng nước, rẫy, ruộng đất mặn, ruộng chua, than bùn; nhằm bảo đảm an ninh lương thực cho gia đình và xã hội. Nông dân đã và đang chuyển đổi sử dụng cuốc, cày, bừa, trâu bò, gặt hái, xa quạt lúa và kho vựa lúa gia đình qua sử dụng máy cày, máy kéo, máy bơm nước, máy gặt và hệ thống chế biến, tồn trữ tối tân dù mức độ còn chậm. Tiến trình lịch sử trồng lúa của từng Miền, từng vùng sinh thái và cả nước đáng được làm đề tài nghiên cứu cho những nghiên cứu sinh Đại Học trong nước sau này. 

4.   THỜI KỲ tái cơ cẤu nông nghiỆp LÚA tỪ 2013

Trong thời Đổi Mới kinh tế, nhà nước nỗ lực tăng sản xuất lúa gạo trước hết nhằm đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực quốc gia và đồng thời có tham vọng trở thành một nước xuất khẩu hàng đầu thế giới, ngay cả muốn thay thế vị trí số một của Thái Lan. Tuy nhiên, đất nước không nhất thiết nỗ lực sản xuất và xuất khẩu nhiều lúa gạo như vậy để có danh vị nổi tiếng, trong khi người sản xuất vẫn còn nghèo khó sau 30 năm Đổi Mới kinh tế. Trái lại, cần sản xuất ít hơn, vừa phải nhưng có chất lượng cao với tư duy mới chủ trương giúp nông dân có thu nhập cao hơn, nông thôn thịnh vượng hơn; đồng thời để dành đất đai cho phát triển công nghiệp, đô thị, hoa màu lợi tức lớn, đặc biệt ưu tiên lúc này cho ngành sản xuất thức ăn gia súc và rau quả để tiết kiệm ngoại tệ. Còn vấn đề an ninh lương thực của một nước xuất khẩu lớn như Việt Nam không phải chỉ sản xuất thật nhiều mà cải tiến sự hữu hiệu quản lý tồn trữ và hệ thống phân phối trong nước.

Đến nay, thị trường lúa gạo quốc tế ngày càng trở nên phức tạp khó khăn, giá cả luôn dao động do thời tiết mỗi năm, chi phí đầu vào tăng cao, đầu ra khó kiếm, phải cạnh tranh ráo riết với các nước xuất khẩu lâu năm khác, và cuối cùng chỉ làm cho người sản xuất chịu thiệt thòi, chưa kể các doanh nghiệp và giới trung gian luôn lạm dụng, thao túng thị trường nội địa bất lợi cho nông dân!

Đất nước đã hội nhập thế giới và dấn thân vào nền kinh tế thị trường nên cần phải thay đổi tư duy quản lý, cơ chế kinh tế để không bị tụt hậu và có thể cạnh tranh với các quốc gia khác. Vấn đề hạn điền hiện nay là một lực cản lớn cho phát triển nông nghiệp, nhứt là khâu sản xuất lúa, làm giá thành phẩm cao, kém năng lực cạnh tranh trong khi các hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém. Đa số người sản xuất là những nông dân nhỏ trồng trọt manh mún không có lợi thế so với các nông trại lớn, và khó có thể xây dựng thương hiệu gạo Việt trên thị trường quốc tế (Xem thêm Phụ bản 3: Xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam).

Do đó, ngày 10-6-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”. Đề án này phải được thực hiện hướng đến ba mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường và đặc biệt chú ý đến 6 lãnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, sản xuất muối và phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn.

Riêng về ngành trồng trọt theo Đề án: “Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, miền; Cơ cấu lại hệ thống tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh nghiệp liên kết, ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân; phát triển các nhóm nông dân hợp tác tự nguyện, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; hỗ trợ tập huấn, khuyến nông và các dịch vụ tư vấn nhằm nâng cao kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cho nông dân v.v...”

Khi thực hiện Dự án, ưu tiên đầu tư phát triển dành cho “công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị kết hợp với các biện pháp về tổ chức sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia tăng nông, lâm, thủy sản; phấn đấu mỗi ngành hàng có mức tăng ít nhất 20% giá trị gia tăng trong vòng 10 năm; gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với hoạt động dịch vụ du lịch và bảo tồn phát triển văn hóa truyền thống; yêu cầu các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản và ngành nghề nông thôn phải đầu tư đồng bộ hệ thống xử lý nước thải, chất thải, khí thải, bảo vệ môi trường” (Phong Lâm, 2013).

Đối với Đề án “Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) phê duyệt. Theo đó, mục tiêu tổng quát được đề ra cho tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam là: “Nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh lúa gạo làm cơ sở đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng lúa, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an toàn thực phẩm, chất lượng dinh dưỡng, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững và tham gia hiệu quả vào thị trường toàn cầu. Phấn đấu đến năm 2030, lợi nhuận cho người trồng lúa hàng hóa bảo đảm trên 30% tổng thu; vùng ĐBSCL có tỷ lệ sử dụng giống lúa xác nhận 100%; giảm tổn thất sau thu hoạch còn 6%; giảm 20% lượng phát thải khí nhà kính so với hiện nay; 50% lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu gạo Việt Nam, 30% gạo xuất khẩu là gạo thơm và gạo đặc sản” (IPSARD, 2016).

            Từ 2013, dự án tái cơ cấu trồng lúa được thi hành từng bước, nhưng tiến bộ còn chậm chạp. Nhà nước đã thực hiện một số biện pháp nhằm cải tiến hệ sản xuất và thị trường lúa gạo nội địa, cũng như đời sống người canh tác để họ có cuộc sống gia đình tốt hơn, chẳng hạn, trong bối cảnh tái cơ cấu nông nghiệp: Giảm lúa tăng màu; cho phép tích tụ ruộng đất trên quy mô lớn; tái cơ cấu lúa gạo VN bằng chất lượng, tìm đầu ra; tái cơ cấu bảo quản và biến chế...

Sau 5 năm thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, trong đó tái cơ cấu sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL có những dấu hiệu thay đổi, chủ yếu về cơ cấu giống lúa, hình thành vùng nguyên liệu của doanh nghiệp và sản xuất bền vững. Theo báo cáo của Bộ NNPTNT (2018), cơ cấu nhóm giống lúa đã có thay đổi đáng chú ý. Nhóm giống lúa phẩm cấp trung bình và thấp (IR 50404, OM 576…) vẫn giữ tỷ lệ diện tích từ 18-22%, trong khi nhóm giống lúa chất lượng cao và nhóm lúa thơm, đặc sản có sự thay đổi rõ rệt. Trước đây, nhóm giống lúa chất lượng cao từng chiếm tỷ lệ diện tích tới 60%, còn nhóm lúa thơm, đặc sản chưa tới 10%; nhưng nay 2 nhóm giống lúa này cùng chiếm tỷ lệ bằng nhau, khoảng 30% diện tích. Diện tích vốn sản xuất lúa chất lượng cao đã được chuyển sang trồng lúa thơm, đặc sản, đặc biệt vụ Đông-xuân 2017-2018 ở ĐBSCL.

Thật vậy, trong vụ Đông-xuân này, ĐBSCL trồng tổng cộng 1,6 triệu ha, trong đó, nhóm giống lúa thơm, đặc sản được chiếm 501 850ha (chiếm 31,34%), nhóm lúa chất lượng cao với 13 552 ha (32,07%), nhóm lúa thường 275 516ha (17,2%). Trong vòng 5 năm trở lại đây, các giống lúa thơm có nhiều tiềm năng thị trường như Đài Thơm, Tài Nguyên, Nàng Hoa 9, Nàng Lài, OM 4900… đã tăng nhanh diện tích trồng. Ngoài ra, lúa nếp tăng mnh từ 3% lên 9-10% hiện nay. Nông dân sử dụng nhiều hơn hạt giống xác nhận (Certified seeds) vì hạt giống thuần, ít sâu bệnh và năng suất cao; do đó kỹ nghệ lúa giống bành trướng khắp nơi từ làng xã đến huyện tỉnh, diện tích gieo giống xác nhận nay đạt trên 50% tổng diện tích trồng lúa ĐBSCL. Khi đi thăm ruộng nhìn những cánh đồng lúa xanh phẳng, mát mắt, không còn thấy những cây lúa lổm chổm với nhiều cỏ dại như trước đây!

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tham gia ngày càng nhiều vào xây dựng vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu cho các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Úc... Chương trình VnSAT (Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam), đang được thực hiện ở 8 tỉnh, Thành phố trồng lúa thuộc ĐBSCL, trong đó việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như “1 phải, 5 giảm”..., cùng với cơ giới hóa sản xuất (máy kéo, máy bôm nước, máy gặt đập liên hợp...) giúp cho việc sản xuất lúa được hiệu năng cao và bền vững; bên cạnh lịch thời vụ được bố trí hợp lý hơn, nhằm giảm thiểu rủi ro do thiên tai (ngập lũ, hạn mặn...), chương trình giảm lượng giống gieo sạ ...; nhưng đời sống người trồng lúa và sự thu nhập gia đình không thấy đề cập tới!

Rõ ràng đây là làn gió mới chợt đến trong ngành nông nghiệp lúa VN dù hơi muộn, mà nông dân và giới quan tâm đã chờ đợi từ lâu, đặc biệt về việc tích tụ ruộng đất và tư duy mới về cơ cấu sản xuất lúa gạo để giúp thay đổi cuộc sống của đa số nông dân đáng được hưởng tương xứng với sức lao động khổ cực của họ. Trong khi đó khâu xuất khẩu gạo vẫn chưa được tư nhân hóa để nâng cao hiệu năng, có thể cạnh tranh với các nước trong vùng mà không gây thiệt hại cho người trồng lúa nội địa.

 

5.   MỘt sỐ CÔNG NGHỆ tiẾn bỘ nỔi bẬt THỜI HIỆN ĐẠI (Trần Văn Đạt, 2005:280-347)

Trong hơn nửa thế kỷ qua, tiếp theo giai đoạn du nhập các kiến thức khoa học và kỹ thuật mới từ phương Tây trong thời Pháp thuộc, Việt Nam lại đón nhận thêm những tiến bộ mới, chủ yếu trong công nghệ sinh học và công nghệ tin học, được áp dụng trong nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói nói riêng, với mục đích cải tiến hiệu năng sản xuất, năng suất, lợi tức nông dân và bảo vệ môi trường. Công nghệ tin học giúp người sản xuất thực hiện các kỹ thuật nông nghiệp chính xác và quản lý nông trại hữu hiệu trong mọi lãnh vực.

            Ngành công nghệ sinh học tiến bộ rất nhanh vào hậu bán thế kỷ XX, được áp dụng trong nông nghiệp nhứt là khâu lai tạo di truyền hữu hiệu và chính xác, so với các kỹ thuật cổ truyền trong thời thực dân. Chẳng hạn, các tiến bộ trong mô học, kỹ thuật gen, nghiên cứu DNA, tái bản (cloning), đánh dấu phân tử, QTL (Quantitative trait loci), genomics, tạo giống nhờ đánh dấu gen, thông tin sinh học, toán học hiện đại, mô hình hóa, phân tích khoa học... góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề kỹ thuật khó khăn mà các phương pháp truyền thống không làm được, như vấn đề hạn hán, ngập lut, đất đai có vấn đề (phèn, mặn), kháng sâu bệnh, phân đạm sinh học... Năm 2000, loại gạo vàng được sáng chế từ công nghệ sinh học, có tiềm năng lớn cứu giúp hàng triệu trẻ em khỏi bị mù lòa, chết sớm vì thiếu vitamin A trong các nước đang phát triển. Việc hoàn thành bảng đồ Bộ gen (Genome) cây lúa năm 2002 đã mở ra cánh cửa mới cho ngành tạo giống (siêu lúa, lúa Bt, cây lúa nước sâu, cây lúa vô tính, cây lúa C4...), và đa dạng hóa sinh học. 

Cũng trong thời gian này, các kỹ thuật canh tác lúa mới xuất hiện, đặc biệt phương pháp bảo vệ vụ lúa tổng hợp IPM, nông nghiệp chính xác (Precision agriculture), kiểm tra lúa (Rice checks), thu hẹp khoảng cách năng suất (Yield gap closing), sản xuất lúa lai (Hybrid rice), siêu lúa (Xem thêm Chương 15: Tiến hóa kỹ thuật sản xuất lúa), lúa GAP, lúa hữu cơ hay lúa xanh (Xem thêm Chương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa).

 

Nhìn tổng thể lịch sử trồng lúa Việt Nam trải dài hàng ngàn năm, với sự xuất hiện các nền văn hóa qua từng thời đại. Rõ ràng cây lúa có sự tương quan chặt chẽ với tiến hóa lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc. Qua nhiều thiên kỷ, cây lúa hoang trở thành cây lúa cao năng sản xuất đến 8-11 t/ha, trong khi nền văn minh đất nước tiến bộ không ngừng dù chậm chạp, từ đời sống hoang dã cổ sơ bước vào cuộc sống hiện đại hôm nay. Cư dân Hòa Bình sở hữu nền nông nghiệp sơ khai, đã thuần hóa cây lúa hoang cách nay khoảng 8 000-7 000 năm đồng thời với một số dân tộc khác ở Đông Nam Á. Sau đó, cây lúa phát triển dần theo thời gian với óc sáng tạo và kinh nghiệm con người. Các bộ lạc trồng lúa rẫy đã xuất hiện khắp nơi cách nay khoảng 6 000 năm trong nền văn hóa Bắc Sơn và Cầu Sắt-Suối Linh, đã tạo ra nền văn minh lúa khô sơ cổ, mang đến đời sống phần nào ổn định cho cư dân Việt cổ và tạo nên yếu tố cơ bản cho tiến bộ văn minh dân tộc sau này. Vào thời Cổ Đại, người Lạc Việt đã tích tụ một số kinh nghiệm và hiểu biết về ngành trồng lúa, chủ yếu trồng lúa nước. Thời kỳ này đã tạo nên một nền văn minh Việt cổ nổi tiếng, còn gọi là văn minh lúa nước với nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, mở đầu kỷ nguyên mới cũng như thời kỳ dân tộc trưởng thành trong quá trình xây dựng đất nước.

Tiếp theo là thời kỳ Bắc thuộc rồi Độc Lập phong kiến, sự tiến bộ nhứt định của ngành trồng lúa do phần nào tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Đông Sơn và Hán Tộc, nhưng bị trì trệ lâu dài do ảnh hưởng sâu đậm Nho học thiếu tinh thần khoa học và kỹ thuật của Bắc phương. Trong thời gian này, sản xuất lúa truyền thống chỉ bành trướng mạnh từ các công cuộc khai khẩn đất mới và mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Khi đất nước rơi vào vòng Pháp Thuộc, nhờ tiếp cận văn minh Tây Âu, ngành nông nghiệp lúa cải tiến bắt đầu khởi sắc, thấm nhuần kiến thức khoa học và tân tiến, đưa đời sống dân tộc đến ngưỡng cửa văn minh hiện đại để chuẩn bị cho cuộc Cách Mạng Xanh sau này, bên cạnh những hậu quả tiêu cực của cuộc xâm lăng thô bạo. Tại Việt Nam, cuộc Cách Mạng Xanh bùng phát từ 1968 kéo dài đến đầu thập niên 2010, do ảnh hưởng chiến tranh và các chính sách kinh tế sai lầm làm trì hoãn bước tiến hóa dân tộc cho đến thời Đổi Mới kinh tế bắt đầu. Đây là thời kỳ phát triển cực mạnh của ngành sản xuất lúa hiện đại; nhưng các khó khăn nội tại và quốc tế đã thúc đẩy Việt Nam phải thực hiện tái cơ cấu ngành này từ 2013. Năm 2017, Việt Nam xuất khẩu 5,89 triệu tấn gạo trị giá 2,66 tỷ Mỹ kim, đứng hàng thứ ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ; tuy nhiên, đời sống người trồng lúa vẫn còn cơ cực, nông thôn vùng sâu vùng xa còn kém văn minh do phát triển kinh tế không đồng đều và thiếu chính sách nâng đỡ nông dân tương xứng trong nhiều năm qua.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2015. 70 năm nông nghiệp Việt Nam. NXB Lao động, 607 trang.

2.      Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2018. Tái cơ cấu lúa gạo ở ĐBSCL đi đúng hướng

(https://www.mard.gov.vn/Pages/tai-co-cau-lua-gao-o-dbscl-di-dung-huong.aspx).

3.      FAO. 1994. Rice policy in Viet Nam. Prepared by the Inter-governmental Group on Rice, 37th session, Bangkok, Thailand, 28/11 - 2/12/1994, FAO, Rome, pp 22.

4.      FAOSTAT. 2017.

5.       IPSARD. 2016. Tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững
  1. King, R. 1977. Land reform – A world survey. G Bell & Sons LTD, London, 446 pp.

7.      Lâm Nguyên. 2017. Phấn đấu vào năm 2030 xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo

8.      Lâm Thanh Liêm. 1996. Chánh sách ruộng đất ở Việt nam 1954-1995. Đường Mới, Paris, Pháp Quốc.

  1. Lê Hồng Nhu. 1999. Rice production in Viet Nam and the policies to promote its development. In Proceedings of the 19th Session of the IRC, Cairo, Egypt, 7-9 September 1998. FAO, Rome, p 162-165.
  2. Nguyễn Sinh Cúc. 1995. Nông Nghiệp Việt Nam (1945-1995). NXB Thống Kê, Hà Nội, 64 tr.
  3. Nguyễn Văn Ngôn. 1974. Kinh tế Việt Nam. Đại học Vạn Hạnh, Tủ sách giáo khoa, tr 36.

12.  Phong Lâm. 2013. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng (http://business.gov.vn/).

  1. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2008. Tài sản quốc gia 2008. GSO 2008.
  2. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2017. Nông, lâm nghiệp và thủy sản 2017. .
  3. Trần Thị Út and Hossain, M. 2000. Effects of improved technologies on rice production and impact distribution and poverty alleviation: Case study of Viet Nam. Paper presented at the International Rice Research Conference, 31-3 to 3-4-2000. IRRI, Los Banos.
  4. Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam - Từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn, 315 tr.
  5. Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo trên thế giới: Hiện trạng và khuynh hướng phát triển trong thế kỷ 21. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, p 280-347.
  6. Trần Văn Hữu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, pp 31.
  7. Võ Tòng Xuân. 1995. History of Vietnam-IRRI cooperation.  Vietnam and IRRI: A Partnership in rice research, IRRI and Ministry of Agriculture and Food Industry, IRRI, Philippines, p. 21-29.
  8. Vũ Tuyến Hoàng. 1986. La riziculture au Viet Nam. Bulletin de la Commision internationale du riz. FAO, Rome, 35 (2): 8-17.
  9. WRI (World Resources Institute). 2007. GDP: Percent GDP from agriculture. Earth Trends: Economics, Business, and the Environment,

 

PHẦN III:

TIẾN HÓA

SẢN XUẤT VÀ

THỊ TRƯỜNG

LÚA GẠO

 

CHƯƠNG 13

CÁC HỆ SINH THÁI

TRỒNG LÚA

VÀ TIẾN HÓA 

 

Cây lúa hiện nay đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài tại Việt Nam cách nay ít nhứt khoảng 8-10 thiên kỷ. Trong thời gian đó, con người và cây lúa phải sống thích ứng với các môi trường thiên nhiên để cùng tiến hóa và sinh tồn. Nông nghiệp lúa xuất hiện giúp cư dân bớt di chuyển kiếm ăn và có đời sống xã hội ổn định. Ngành trồng lúa rẫy trở nên phổ biến và chiếm ưu thế buổi đầu, kéo dài cho đến lúc biển thoái cách nay 4 000-3 500 năm. Từ đó, cư dân xuống lập nghiệp ở các thung lũng, gò đất cao theo chân nước rút để có nơi cư trú và sinh hoạt dễ dàng. Họ bắt đầu làm quen với nước ngập trong mùa mưa và thủy triều lên xuống từ các sông rạch. Họ quen sống với nghề “lúa nước trời” mà người Tàu gọi là ruộng lạc và gọi nhóm cư dân này là “dân Lạc”.

Ruộng lạc cho nhiều thóc gạo hơn nương rẫy và tương đối ít gặp rủi ro về thời tiết, vì yếu tố nước được khống chế phần nào. Lúc ban sơ, họ làm ruộng lạc theo lề lối trồng lúa nổi, nghĩa là cày xới đất gieo hạt vào đầu mùa mưa, cây lúa sống và vượt theo mực nước dâng lên, trổ bông, hạt chín lúc mùa nước xuống. Sau nhiều năm kinh nghiệm với lúa nước, họ bắt đầu be bờ đắp đập để giữ nước trong ruộng, hoặc dẫn và thoát nước khi cần. Người Lạc Việt có ý niệm về dẫn thủy nhập điền từ đó, kiểm soát phần nào mực nước trong ruộng để cây lúa vươn lên tươi tốt và cho nhiều hạt lúa cách nay khoảng 3 000-2 200 năm vào thời đại Hùng Vương-An Dương Vương, kế thừa kinh nghiệm tích lũy từ các nền văn hóa Phùng Nguyên, Cầu Sắt-Suối Linh, Đồng Đậu và Gò Mun. Từ trồng lúa gieo sạ thẳng, cư dân biết làm mạ cấy lúa với mục đích làm cho cây lúa lớn mạnh hơn để chống chịu mực nước ngày càng cao trong ruộng vào mùa mưa. Vì vậy, nghề trồng lúa đã trải qua thời gian rất dài để trưởng thành, từ hệ sinh thái trồng lúa rẫy đến lúa nước trời và cuối cùng lúa tưới tiêu để có năng suất cao. Chính bản thân của mỗi hệ trồng lúa này cũng có những bước tiến hóa dài lâu để đến giai đoạn mà chúng ta chứng kiến hiện nay.

1.   NGÀNH TRỒNG LÚA RẪY VÀ TIẾN HÓA

Lúa rẫy (Hình 1) còn gọi lúa nương, lúa cạn hoặc lúa khô, là một hệ trồng lúa cổ xưa nhứt, được trồng trên đất dễ thoát nước, không bị ngập, không có bờ bao và nhờ vào nước trời. Lúa rẫy chỉ chiếm độ 6% diện tích trồng lúa cả nước, có tầm ảnh hưởng kinh tế thấp, nhưng là nhu yếu phẩm quan trọng đối với hàng vạn người sống ở vùng thượng du Miền Bắc và cao nguyên Trung Phần, đặc biệt các nhóm dân tộc thiểu số. Lúa rẫy cũng được trồng trên thế giới: châu Á, châu Mỹ La Tinh và Caribbean và châu Phi. Diện tích lúa rẫy thế giới ước lượng gần 14 triệu ha hay 9% tổng số diện tích trồng lúa thế giới (Trần Văn Đạt, 2005). Mặc dù sản xuất lúa rẫy tương đối ít, nhưng có tầm ảnh hưởng quan trọng ở nhiều nước, vì rất nhiều nông dân vẫn còn sống với loại lúa này ở các vùng sâu vùng xa.

Lúa rẫy Việt Nam được trồng trên khoảng 450 000 ha bởi 54 sắc tộc, làm ảnh hưởng đến 8 triệu ha đất nơi có hơn 3 triệu người thiểu số sinh sống (Arradeau and Vo-tong, 1995). Lúa được trồng trên các triền đồi núi từ tháng 5-6 đến 11-12. Hệ lúa rẫy du canh đã gây tai hại trầm trọng đến môi trường do thời gian hưu canh ngắn, tệ nạn đốn phá rừng bừa bãi; làm xói mòn đất đai và gây lũ lụt cho các vùng thung lũng và đồng bằng. Miền Thượng du Bắc Việt có những đồi núi chập chùng và Tây Nguyên đa số là đồi trọc hoặc che phủ bởi các bụi rậm. Ở các tỉnh thượng du Miền Bắc, dân tộc thiểu số canh tác khoảng 100 000 – 120 000 ha lúa rẫy mỗi năm trên các triền dốc.    

1.1.      Phân loại và vấn đề lúa rẫy

Các thông tin về diện tích và sản lượng lúa rẫy nước ta và thế giới không được chính xác lắm vì phần lớn lúa rẫy được trồng tại các vùng đồi núi xa xôi, hẻo lánh, và còn thường xuyên thay đổi nơi canh tác. Môi trường trồng lúa rẫy được xếp thành 4 loại:

1)      Lúa rẫy thuận lợi với mùa trồng dài;

2)      Lúa rẫy thuận lợi với mùa trồng ngắn;

3)      Lúa rẫy không thuận lợi với mùa trồng dài;

4)      Lúa rẫy không thuận lợi với mùa trồng ngắn.

 Hình 1: Thu hoạch lúa rẫy ở xã Tân Trạch và Thượng Trạch (Bố Trạch - Quảng Bình)

(http://phunuvietnam.vn/o-noi-thu-hoach-lua-theo-hinh-thuc-co-xua-nhat-post16461.html)

Trong 4 thập niên qua, nhiều đầu tư được thực hiện cho khảo cứu và phát triển loại lúa này trong nước và thế giới, nhưng các thành quả chưa đáp ứng tương xứng và diện tích trồng lúa rẫy giảm dần. Điều này có nghĩa là các kỹ thuật tạo ra từ các cuộc nghiên cứu chưa thích ứng với các môi trường dị biệt của ngành trồng lúa rẫy và không phù hợp với tình trạng kinh tế-xã hội của nông dân địa phương. Đặc tính nổi bật của hệ thống trồng lúa rẫy gồm có:

1)      Lúa rẫy hoàn toàn tùy thuộc nước trời, đất đai kém phì nhiêu và thường có vấn đề; nên có nhiều rủi ro và kết quả thu hoạch không bảo đảm;

2)      Tình trạng kinh tế của nông dân trồng lúa rẫy rất thấp. Họ không thể đầu tư nhiều vào lúa nước trời không ổn định;

3)      Các giống lúa rẫy cải tiến chỉ cho năng suất cao khi dùng phân hóa học; nhưng đa số nông dân trồng lúa rẫy nghèo không có khả năng mua hoặc họ không muốn sử dụng phân vì nhiều rủi ro;

4)      Lúa rẫy là loại lúa du canh, ít được chăm sóc kỹ lưỡng, nhất là công tác làm đất và làm cỏ. Lúa rẫy trên đồi núi thường được canh tác bởi dân tộc thiểu số thiếu thông tin về các kỹ thuật tiến bộ.

5)      Hệ du canh đang gây nguy hại đến môi trường chung quanh vì thời kỳ hưu canh ngày càng bị rút ngắn còn 4-5 năm hoặc ít hơn thay vì 10-15 năm dưới áp lực gia tăng dân số.

Cho nên, các khó khăn lớn cho phát triển lúa rẫy trong nước bao gồm diện kinh tế, xã hội, kỹ thuật và môi trường. Chỉ giải quyết các thử thách này bằng phương pháp kỹ thuật do các nhà nghiên cứu nông nghiệp sáng tạo sẽ không thể đạt đến kết quả mong muốn; cho nên cần phải chú ý đến cả đời sống kinh tế, tập quán của người trồng. Trong thời đại toàn cầu hóa, phát triển lúa rẫy không có nhiều tương lai. Do đó, cần phải có chính sách và qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất loại lúa này, nhằm tạo phúc lợi cho các nông dân nghèo ở miền đồi núi và vùng xa. 

Sách lược đa loại hóa nhằm phối hợp với chăn nuôi, lâm nghiệp và các loại cây đa niên có giá trị kinh tế cao, đồng thời phát triển hệ thống giao thông, hạ tầng cơ sở và dịch vụ xã hội đáng được chú ý đến, tùy theo điều kiện khí hậu, đất đai, xã hội, văn hóa và kinh tế từng vùng.

1.2.      Hệ du canh tiến hóa

Du canh là bước đầu tiên của quá trình tiến hóa và phát triển nông nghiệp, ngay từ thời đại Đá Mới với sự xuất hiện các bộ lạc trồng lúa. Ngành lúa rẫy du canh tiến hóa dần theo thời gian và kinh nghiệm, thay đổi thứ tự qua 4 giai đoạn (Greenland, 1974): 

Giai đoạn 1: du canh đơn thuần: Vào buổi đầu, các cư dân làm lúa rẫy ngay nơi cư trú trong ba bốn năm. Khi thấy đất đai không còn màu mỡ, cỏ dại mọc đầy, họ di chuyển tìm nơi khác thích hợp để làm lại từ đầu (nơi trú ở và đất canh tác cùng di chuyển với nhau). Cư dân trong nền văn hóa Bắc Sơn liên tục di chuyển nơi cư trú và đất canh tác.

Giai đoạn 2: Ít di chuyển: Sau một thời gian dài các bộ tộc phải di chuyển để trồng lúa kiếm ăn, họ bắt đầu đời sống với nơi cư trú ít di chuyển hơn, nhưng họ phải đi xa hơn để kiếm đất mới trồng lúa, hoặc sau nhiều năm (độ 10-15 năm) họ trở lại tái canh tác các mảnh đất đã trồng (đất canh tác di chuyển thường xuyên hơn nơi trú ngụ). Cư dân cuối thời kỳ văn hóa Bắc Sơn và Đa Bút/Quỳnh Văn/Cầu Sắt-Suối Linh có lẽ ít di chuyển, nhưng họ đi xa để tìm đất mới canh tác. Nhiều dân tộc thiểu số ngày nay ở Thượng du Bắc Việt và Cao Nguyên Trung Phần còn sinh sống trong giai đoạn 2 này.

Giai đoạn 3: tái canh tác liên tục: Họ tái canh tác trên các mảnh đất được trồng liên tục; và phải luân canh với các màu khác như đậu, bắp, rau cải… Một số bộ tộc đã tiến đến giai đoạn này khi làn sóng văn minh tiến về thôn bản.

Giai đoại 4: canh tác thường trực: Họ tiến đến giai đoạn trồng lúa rẫy thường trực cùng trên mảnh đất với bón phân hữu cơ và phân hóa học. Lề lối canh tác này thường thực hiện trên vùng đất bằng phẳng hoặc có độ dốc ít.

Theo tập quán, con người thích lối sống định cư hơn sống lang thang. Cho nên, loại du canh trên thế giới là dấu hiệu của những nơi có vấn đề kinh tế và xã hội ở những vùng xa xôi, đồi núi hoặc những nơi còn chậm tiến.

Du canh là một hình thức canh tác sơ khai. Nông dân chặt cắt, phơi khô, đốt rừng, chọc lỗ, gieo hạt, lấp đất tránh chim chuột ăn, thỉnh thoảng chăm sóc bảo vệ ruộng lúa và 5-6 tháng sau trở lại thu hoạch. Họ khai khẩn những mảnh đất hoang để trồng một vụ lúa đơn thuần hay trồng lẫn lộn với các loại màu khác như bắp, khoai, đậu, sắn, v.v. Nông dân tiếp tục trồng từ 3 đến 4 năm cho đến khi mức độ phì nhiêu của đất giảm xuống rõ rệt, cỏ dại xâm lấn và sâu bệnh lan tràn. Họ bỏ đất ruộng hoang từ 10 đến 15 năm đi tìm đất mới khai thác, sau đó trở lại thửa ruộng bỏ hoang để tái dùng vì mức độ phì nhiêu phục hồi.

Thời gian hưu canh để phục hồi dinh duỡng đất đai, tùy thuộc vào áp lực dân số và loại đất. Trong các rừng nhiệt đới, mức độ chất hữu cơ phân hóa hay mùn hóa rất nhanh, từ 50-500% mỗi năm (McGinnis et al., 1967). Mức độ bình quân của phục hồi chất dinh dưỡng từ chất hữu cơ cho mỗi hecta ở 3 địa điểm thí nghiệm trong rừng châu Phi là 184 kgN, 73 kgK, 142 kgCa, 47 kgMg, và 12,5 tấn chất khô (Nye and Greenland,1960). Sau khi hưu canh, mức độ chất dinh dưỡng sẵn sàng cho mùa tới tùy thuộc vào chất hữu cơ, khối lượng cây lá và sự đốt cháy hữu hiệu hay không. Chất đạm và lưu huỳnh bị mất khi bị đốt; các yếu tố khác còn giữ lại trong tro (Norman et al., 1984).

Về mặt tích cực, du canh làm cho cấu trúc đất đai không bị xáo trộn, khôi phục chất dinh dưỡng đất một cách thiên nhiên và nhanh chóng, bảo tồn chất dinh dưỡng, và quản lý cỏ dại ít tốn kém, nếu được thực hiện tốt. Tuy nhiên, hệ canh tác này cho năng suất thấp vì không được tưới nước khi khô hạn, kỹ thuật tiến bộ không được dùng đến và khả năng khai thác đất đai bị giới hạn. Đất để trống, không được che phủ trong những năm đầu của thời gian hưu canh có thể gây ra hiện tượng xói mòn và làm thoái hóa đất đai trầm trọng.

1.3.      Lúa rẫy tiền phong

Lúa là một loại thảo mộc có thể thích ứng với nhiều vùng sinh thái khác nhau, nên có ưu thế hơn các màu khác khi khai khẩn đất mới. Vì thế, lúa rẫy được nhiều nhà đầu tư nông nghiệp dùng làm màu đầu tiên ở những vùng đất mới sau khi cây rừng được dọn sạch sẽ. Sau vụ lúa rẫy đầu tiên, nông dân tiếp tục trồng lúa, nhưng với mức độ ít hơn trong 2-3 năm, xen kẻ các cây đa niên như cây cà phê, cây ăn quả, cây rừng. Khi cây lớn bóng mát lan rộng, lúa ít được chú ý đến. Lúa rẫy tiên phong rất phổ biến ở châu Mỹ La Tinh, chủ yếu Brazil và Colombia, nhưng còn giới hạn ở châu Á và châu Phi. Sau vụ lúa rẫy, họ trồng các đồng cỏ để phục vụ ngành chăn nuôi bò.

1.4.      Vấn đề khảo cứu và phát triển lúa rẫy

Trước hết, cần biết ngành sản xuất lúa rẫy bị chi phối bởi điều kiện kinh tế xã hội nhiều hơn kỹ thuật. Cho nên, cải tiến ngành canh tác lúa rẫy không chỉ đơn thuần dựa vào kỹ thuật để giải quyết có kết quả. Trái lại, sự phối hợp cả hai diện kể trên rất cần thiết để động viên các cố gắng đa phương ủng hộ và tìm giải pháp cho các vấn đề khó khăn. Rất tiếc các nghiên cứu và phát triển lúa rẫy cho đến nay vẫn chỉ tập trung vào phổ biến kỹ thuật, như các giống lúa tốt, cải tiến đất đai, hệ thống canh tác thích ứng. Thật quá đơn giản cho vấn đề phức tạp! Vì vậy, năng suất bình quân lúa rẫy thế giới vẫn không thay đổi, khoảng 1 t/ha trong hơn 50 năm qua.

Hệ thống trồng lúa rẫy ngày nay tượng trưng cho nền nông nghiệp sơ khai của một số sắc tộc chậm tiến. Ở Việt Nam, lúa rẫy hiện nay là sự tiếp nối lâu dài hàng ngàn năm, ít nhứt từ nền văn hóa Bắc Sơn, cách nay khoảng 6 000 năm. Với sức ép dân số ngày càng mạnh, ngành canh tác này trở thành đối tượng cho các chỉ trích, là nguyên nhân đốt phá rừng xanh và gây nên lụt lội cho đồng bằng phụ cận. Chính phủ không có đủ khả năng để giúp đỡ thành phần nông dân nghèo này, nên lúa rẫy vẫn còn tiếp tục hiện diện đến ngày nay và tương lai. Nếu không có kỳ tích xuất hiện trong lãnh vực nghiên cứu lúa rẫy, ngành sản xuất này không có nhiều triển vọng phát triển. Cho nên, trong khi chờ đợi các kỹ thuật tân tiến xuất hiện, ngành canh tác lúa rẫy cần được ổn định để tránh gây ảnh hưởng đến các môi trường xung quanh, và cần có nỗ lực lớn để biến đổi các hệ du canh thành canh tác thường trực có kinh tế cao. Cần quan tâm đến tình trạng văn hóa, kinh tế và xã hội của nông dân trồng lúa rẫy, vì họ đã từng bị con người bỏ quên nhiều thập niên và có nơi hàng nghìn năm trong quá trình lịch sử tiến hóa nhân loại. 

2.   NGÀNH TRỒNG LÚA NƯỚC TRỜI

Vào thời đại Đá Mới giữa, cư dân nước Việt đã sống thành những bộ lạc chuyên canh lúa rẫy để sản xuất thực phẩm. Khi thời kỳ biển thoái bắt đầu, họ lần lượt xuống chiếm lĩnh các thung lũng, đồng bằng, ven sông rạch và ven biển để sinh sống. Nghề trồng lúa nước xuất hiện từ đó dù còn giới hạn. Do thói quen trồng lúa rẫy du canh lâu đời, tại một số nơi cư dân vẫn còn tiếp tục trồng lúa nước du canh, như hiện nay còn thấy ở một số nước Tây Phi Châu. Sau nhiều năm quen sống với lũ, ngập lụt hàng năm họ trồng lúa ổn định theo thủy triều lên xuống. Do đó, vào đầu Công Nguyên, người Hán gọi ruộng lúa nước ta là ruộng lạc.

            Khi dân số ngày càng đông, không còn đất tốt để khai khẩn trồng trọt, người Việt tiến đến khai thác các khu rừng ở đầm lầy, ven sông biển chịu ảnh hưởng của nước mặn và đất phèn. Sau nhiều năm khai thác, ruộng đất trở nên thuần thục, phì nhiêu. Vào thời nhà Nguyễn, Nguyễn Công Trứ đưa dân đến khai thác rừng, lấn biển ở Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình vào đầu thế kỷ XIX. Cũng vậy, trong cuộc khẩn hoang đồng bằng sông Cửu Long, trước hết di dân chiếm lĩnh các vùng đất cao trong lục địa và bành trướng khai thác đến các vùng đất mặn gần biển Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau... 

Cho đến thế kỷ XIX, đa số diện tích trồng lúa tùy thuộc vào nước trời. Đến nay, nhờ phát triển hệ thống thủy nông Việt Nam chỉ còn ít hơn 5% là diện tích trồng lúa không tưới tiêu. Năng suất lúa nước trời bình quân 2-3t/ha và thường gặp nhiều khó khăn lớn về lũ lụt, hạn hán bất thường và nước mặn xâm nhập vào mùa khô. Vì thế, năng suất lúa nước trời rất khó cải tiến, nhưng các tiến bộ trong ngành công nghệ sinh học có thể đóng vai trò quan trọng trong tương lai. Cây lúa có thể chịu đựng ngập nước hoàn toàn từ 4 đến 12 ngày tùy loại giống. Dù thế, có nơi nông dân làm hai vụ lúa trong mùa mưa với các giống lúa sớm và áp dụng gieo thẳng vào vụ đầu (tháng 5-8).

Nền nông nghiệp không tưới tiêu hay canh tác nước trời luôn không ổn định và nhiều rủi ro. Tình trạng này kéo dài qua nhiều năm tháng do thiếu phát triển hệ thống thủy lợi, khiến nông dân vùng sâu vùng xa ngày càng nghèo khó, mức độ thất học gia tăng, môi trường thoái hóa, xa cách nền văn minh hiện đại và luôn phải đối diện với khắc nghiệt thiên nhiên để sinh tồn.

Lúa nước trời là loại lúa được trồng trong ruộng ngập nước, có bờ bao hoặc không, không được tưới tiêu và có mực nước tùy thuộc hoàn toàn vào điều kiện đất đai, địa hình, khí hậu và thủy triều. Cho nên, loại lúa này chỉ trồng một vụ mỗi năm vào mùa mưa và một màu ngắn ngày vào mùa nắng nếu có đủ ẩm độ trong đất. Năng suất lúa không ổn định, thay đổi từ 1 đến 4 tấn/ha. Hàng vạn nông dân trồng loại lúa này, mà đa số là những người nghèo, thiếu vốn liếng để canh tác. Cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng đã bỏ quên các nông dân trồng lúa không tưới tiêu, nhứt là nông dân trồng lúa nước sâu, lúa nổi và lúa thủy triều.

Các vùng trồng lúa nước trời có tiềm năng sản xuất rất lớn nếu có kỹ thuật khai thác thích ứng và quy hoạch lâu dài. Hệ trồng lúa này đang mở rộng cánh cửa cho các sáng kiến về thay đổi cơ cấu trồng trọt hoặc tưới tiêu, nhằm cải tiến hiệu năng sản xuất của nông dân. Các hệ nông nghiệp hỗn hợp, kết hợp trồng lúa với các ngành chăn nuôi gia súc, nuôi tôm cá, canh tác các hoa màu khác, hoặc cây sản xuất gỗ và năng lượng... có thể giúp nông dân cải thiện lợi tức gia đình. Các công trình máy bơm nước, đào giếng với sự yễm trợ tích cực nhà nước có thể giúp nông dân tăng sản xuất gấp hai, ba lần mức độ hiện nay. Các chính sách về nguồn nước rất thích hợp cho thế kỷ 21, cần được khuyến khích để tăng hiệu năng sử dụng nước không những cho các màu tưới tiêu mà ngay cả các màu tùy thuộc nước trời, như lúa nước trời.     

Như đã nói trên, cư dân Việt Nam đã trồng lúa nước trong nền văn hóa Phùng Nguyên, cách nay khoảng 4 000-3 000 năm, ngoài nghề lúa rẫy chính. Dĩ nhiên họ bắt đầu trồng lúa từ những nơi có đất cao không bị ngập nước sâu để dễ quản lý, rồi tiến dần xuống vùng trũng thấp. Nhờ sớm biết kỹ thuật cấy lúa, theo thời gian họ khai thác những vùng nước sâu hơn, qua phương pháp cấy lúa một lần hoặc 2, 3 lần để cây lúa lớn mạnh và chịu đựng nước sâu. Môi trường trồng lúa sau cùng là vùng lúa nổi ở Long Xuyên và Châu Đốc, được khai thác vào đầu thế kỷ XX sau khi tìm được các giống lúa thích hợp.  

Căn cứ vào môi trường và thực tế, lúa nước trời được phân chia làm 3 hệ canh tác đáng lưu ý: Lúa nước cạn, lúa nước sâu và lúa thủy triều (phèn-mặn). Các chuyên gia lúa gạo thế giới nhóm họp ở IRRI, Philippines vào 1984, đồng chấp thuận định nghĩa và phân loại lúa nước trời như sau (IRRI, 1984):

-          Lúa nước cạn: Gồm có lúa ruộng cạn (5-25cm), ruộng vừa (25-50cm), thường bị khô hạn hoặc ngập nước.

-          Lúa nước sâu: Gồm có lúa ruộng vừa (25-50cm), ruộng sâu (50-100cm) và thật sâu hay lúa nổi (>100cm).

-          Lúa thủy triều: Gồm lúa nước ngọt, mặn, phèn và than bùn có thủy triều lên xuống.

Đây chỉ là cách phân loại tương đối để dùng trong các cuộc nghiên cứu và thảo luận. Ruộng thủy triều cũng có nơi cạn và sâu tùy theo địa hình. Lúa nước sâu cũng có phèn mặn ở một số vùng. Trong thực tế, lúa nước thật sâu hay lúa nổi thường bị nhiễm nhiều mặn và phèn hơn hết. Trong chương này, các loại lúa nước trời: lúa nước cạn, lúa nước sâu, lúa thủy triều, ruộng đất phèn mặn và đất than bùn được đề cập tóm lược.

2.1.   Lúa nước cạn

Lúa nước cạn có mực nước sâu từ 5 đến 50 cm, được nông dân khai thác triệt để vào mùa mưa, mặc dù có nhiều rủi ro do khô hạn hoặc lũ lụt trong suốt thời gian canh tác. Nông dân biết áp dụng các phương pháp canh tác cải tiến cho lúa nước cạn, gần giống với lúa tưới tiêu: làm đất kỹ lưỡng, dùng giống lúa cao năng, phân hóa học dù không đầy đủ, thuốc sát trùng... Cho nên, ở nhiều nơi, giống lúa cao năng chiếm đến 70-80% diện tích trồng loại lúa này. Do các điều kiện trên, năng suất lúa thay đổi rất lớn, từ dưới 1t/ha đến 4-5t/ha tùy theo điều kiện khí hậu, đất đai và giống lúa. Cuộc Cách Mạng Xanh cũng mang ít nhiều phúc lợi cho nông dân trồng lúa nước cạn và một phần lúa nước sâu, nhưng không ảnh hưởng đáng kể đối với nông dân trồng lúa nổi hoặc lúa thủy triều. 

Lúa nước cạn được trồng từ tháng 5-6 và thu hoạch vào tháng 11-12. Ở một số vùng, trong mùa mưa nông dân có thể trồng 2 vụ lúa mỗi năm, bằng cách dùng giống lúa sớm khoảng 90-100 ngày và gieo thẳng trong vụ lúa thứ nhứt, tiếp theo với vụ lúa cấy. Ngoài hệ thống trồng lúa-lúa, nông dân còn trồng lúa-màu khác. Ở Việt Nam, trước khi chương trình ngọt hóa được hoàn tất, nông dân trồng hai vụ lúa nước trời trong một mùa mưa ở các vùng đất như Long An, Tiền Giang, v.v.

Khó khăn lớn nhứt cho sản xuất lúa nước cạn là vấn đề quản lý thủy lợi. Cho nên, trong khi chờ đợi các công trình phát triển hệ thống tưới tiêu, nông dân chỉ biết lựa chọn các giống lúa có thể chống chịu phần nào vấn đề khô hạn và ngập lụt nhanh mà thôi.

2.2.   Lúa nước sâu

Lúa được trồng ở vùng có mực nước từ 50 đến 100 cm, tùy theo đất đai và vũ lượng hàng năm. Những vùng đất này thường bị ảnh hưởng ngập lụt bất thường trong nhiều ngày sau những trận mưa lớn ở địa phương hoặc từ các nơi xa, giúp thữa ruộng có thêm phù sa; nhưng lá lúa bị ngập dính đầy bùn dơ, khó phát triển mạnh. Do đó, cây lúa có thể sinh tồn và sản xuất tùy theo tuổi lúa lúc bắt đầu lũ lụt, mực nước dâng lên và thời gian bị lụt. Hầu hết các giống lúa có thể sinh tồn khi bị ngập lụt trong 3-4 ngày và các giống chịu nước sâu có thể sống đến 12 ngày. Lúa nước sâu có thể được gieo thẳng hoặc cấy, vượt lóng 2-3cm mỗi ngày khi bị ngập nước và có thể thích ứng với mực nước sâu tối đa 100cm. Thời gian ngập lụt xảy ra vào mùa mưa từ tháng 5 đến 11. Lúa nước sâu có năng suất cao hơn lúa nổi và có thể đạt đến 4t/ha với thời tiết thuận hòa. Quản lý thủy lợi là vấn đề khó khăn lớn nhứt cho canh tác loại lúa này. 

Sau vụ lúa nước sâu, nông dân trồng nhiều loại màu khác nhau như đậu phụng, đậu xanh, hạt mè, lúa miến và bắp với chu kỳ sinh trưởng ngắn để có thêm lợi tức.

Năng suất tiềm thế của lúa nước sâu và lúa nước cạn còn rất lớn, nhưng chưa được khai thác đúng mức vì thiếu quan tâm của giới nghiên cứu cho hai loại lúa này. Năng suất có thể cải tiến nhiều hơn nữa khi các giống lúa ngập nước được lai tạo cải tiến để làm cho cây lúa chịu đựng nhiều hơn các vấn đề ngập lụt, khô hạn và một số đất có vấn đề. Với đà tiến bộ hiện nay, nhứt là việc hoàn tất bản đồ genome lúa trong năm 2002, công nghệ sinh học mang nhiều hy vọng cho các cuộc nghiên cứu trong lãnh vực này. Thật vậy,

gạo vàng, lúa nước sâu cao năng, lúa Bt chống sâu đục thân đã được tạo ra từ công nghệ này. Các giống lúa nước sâu cao năng, còn gọi “lúa tàu ngầm”, được phổ biến đại trà ở vùng Bengal, Ấn Độ, Bangladesh…

2.3.   Lúa nổi

Lúa nổi được trồng ở những ruộng thấp trũng không bờ và mực nước dâng lên chậm từ các dòng sông lớn. Ruộng lúa bị ngập lụt kéo dài 5-6 tháng. Cây lúa nổi thích ứng với mực nước bằng cách vượt lóng theo mực nước dâng cao, có lúc đến 20cm mỗi ngày. Do đó, cây lúa nổi có thể cao đến 4-5m. Sự vượt lóng này là do tác động của chất kích thích tố Gibberallic acid tạo ra khi cây lúa bị ngập lụt. 

Ở Miền Nam, vùng đất trũng sâu như Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên mới được khai thác vào đầu thế kỷ XX. Trước năm 1975, diện tích lúa nổi ở Miền Nam chiếm khoảng 640 000 ha, nhưng công tác thủy lợi đã làm thay đổi hẳn cơ cấu trồng lúa vùng này - biến đổi từ một vụ lúa nổi với năng suất thấp (2-3 t/ha) thành 2 vụ lúa cao năng (5-8 t/ha/vụ) mỗi năm. Tuy nhiên, sản xuất lúa vùng này bị lũ lụt phá hại thường xuyên hơn những thập niên trước, do nhiều đê đập được xây dựng đầu nguồn. Đến 2018, diện tích lúa nổi còn gọi lúa ma (Oryza rufipogon) của ĐBSCL chỉ còn 200 ha được lưu giữ và bảo tồn tại Vườn Quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp) (Liên lạc với TS. Nguyễn Văn Kiền 12-01-2019) (Hình 2).

Lúa nổi thường được sạ thẳng vào ruộng đất được cày xới sau vài trận mưa đầu mùa, nên còn được gọi là lúa sạ. Những trận mưa kế tiếp làm tăng ẩm độ đất và hạt giống mọc mầm, cây lúa lớn dần theo mực nước trong ruộng. Thời gian đầu mùa là thời kỳ tối quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến năng suất lúa nổi sau này. Nếu thời tiết không tốt như mưa không đều, hạt giống không nẩy mầm kịp lúc hoặc bị chim chuột phá hại, nông dân phải gieo lại đợt hai hoặc ba để có đủ quần thể ngoài ruộng, vì lúa nổi đâm chồi rất kém. Do đó, nông dân phải dùng mật độ hạt giống cao, có khi hơn 200kg lúa/ha (thay vì 100kg/ha). Nông dân chỉ áp dụng phân hóa học vào lúc làm đất mà thôi. Năng suất lúa nổi rất thấp, từ 1-3t/ha. Lúc lúa chín, cây ngã đổ trên mặt đất ở vùng đất cao gần bờ sông, hoặc nằm trên mặt nước ở vùng ruộng sâu còn ngập nước, nên nông dân phải dùng xuồng ba lá đi gặt lúa. Cũng giống như lúa nước sâu, sau vụ lúa nổi, nông dân gieo hạt trên rơm rạ với đậu xanh hoặc lúa miến, bắp, bù tạt, đậu đen, v.v. để có thêm thu nhập.

Hình 2: Thu hoạch lúa ma ở Vườn quốc gia Tràm Chim, Tam Nông, Đồng Tháp (ảnh báo Nhân Dân)

Năng suất lúa nổi rất khó cải thiện vì vấn đề sinh lý của cây lúa liên hệ đến sự sinh tồn khi bị ngập lụt quá sâu và quá lâu; cho nên, nghiên cứu về di truyền để cải tiến giống lúa này có lẽ không thực tế lắm. Tuy nhiên, cần chú ý nhiều hơn đến chất lượng hạt vì lề lối sạ thẳng giúp cho các loài lúa hoang hay lúa đỏ phát triển đồng bộ với lúa trồng; cho nên cần quan tâm nhiều hơn đến cách quản lý nước và hạt giống trong vùng lúa nổi. Nông dân đã chuyển đổi cơ cấu trồng trọt của vùng sinh thái này bằng công tác quản lý thủy lợi trước và sau thời kỳ ngập lụt. Từ cuối thập niên 1960, khi cuộc Cách Mạng Xanh bắt đầu với giống lúa Thần Nông họ xây dựng thêm các đê đập, kinh rạch và sử dụng máy bơm nước để biến đổi từ một vụ lúa nổi thành hai vụ lúa tưới tiêu hoặc một vụ lúa tưới tiêu và vụ màu khác có trị giá cao (Hình 3). Nhờ giống lúa cao năng ngắn ngày và ít có quang cảm, nông dân có thể canh tác bất cứ lúc nào với máy bơm dẫn nước từ sông Cửu Long và các sông ngòi khác để tưới ruộng lúa dọc theo hai bên bờ trong mùa nắng.

Việt Nam là nước tiền phong trong chuyển đổi cơ cấu trồng lúa nổi trên thế giới.

Hình 3: Gặt lúa trong mùa lũ ở Long An (Internet)

2.4.   Lúa thủy triều

Vùng ven bờ biển có thủy triều một hoặc hai lần trong ngày với nước mặn và có nhiều rừng bần và đước, còn được gọi rừng mắm. Nước thủy triều có ảnh hưởng đến các sông rạch trong vùng. Hạ lưu sông Cửu Long bị ảnh hưởng thủy triều cả mùa mưa và nắng. Vùng xa trong lục địa thường có nước ngọt hơn, nhưng nước bị nhiễm ít nhiều chất phèn.

Lúa thủy triều có khả năng chịu đựng nước ngập và thủy triều. Loại lúa này cũng chịu được nước mặn ở những vùng có nước biển xâm nhập và chịu được phèn ở những vùng đất có độ acid cao. Lúa thủy triều thường được trồng bằng lề lối cấy lúa. Vào đầu mùa mưa, nông dân cuốc đất đắp thành những mô (hay liếp đất) để nước mưa rửa bớt chất muối mặn diệt cỏ và hai ba tháng sau mô đất được phá vỡ để chuẩn bị cho công tác cấy mạ khá già (độ 45-60 ngày). Đất đai của loại lúa này rất khác nhau và phức tạp, tùy theo lịch sử cấu tạo đất, đặc biệt ở các đồng bằng thuộc lưu vực các sông lớn. Nhiều đất phù sa còn quá trẻ, đang ở trong quá trình thành lập đất. Cấu trúc đất thay đổi từ trung bình đến mịn và đất ở gần bờ sông thô hơn các nơi trũng thấp bên trong. Mặc dù đất đai rất phì nhiêu do phù sa bồi đắp hàng năm, một số đất có nhiều vấn đề như có phèn và mặn hiện diện, đặc biệt ở gần bờ biển. Vào mùa nắng, loại đất này quá khô và có khi bị chất phèn dâng lên qua các hệ tế khổng đất, nên ít khi được khai thác. Nhiều vùng ven biển đang khai thác nuôi trồng thủy sản, phổ thông nhứt nuôi tôm sú, hoặc khai thác mô hình lúa tôm ở Cà Mau.

Hiện nay, nước mặn xâm nhập vào lục địa là nỗi lo lắng lớn nhứt của nông dân ĐBSCL vào mùa nắng. Năm 2016, nước mặn vào sớm hơn 2 tháng đe dọa ruộng lúa và hoa màu ở các tỉnh ven biển: Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Trên sông Tiền, sông Hậu độ mặn trên 4g/l có thể xâm nhập sâu khoảng 50 - 70km tính từ cửa sông, có lúc trên 70km ở Long An độ mặn lên đến 10-12g/l. Đây là đợt thiên tai nghiêm trọng trong 100 năm qua, hàng trăm nghìn ha lúa và hoa màu bị ảnh hưởng (Hình 4) (Ngọc Trinh, 2016).

Hình 4: Lúa bị nhiễm mặn ở Miền Tây, 2016

(Ngọc Trinh, 2016)

Đất phèn mặn: Lúa nước trời, nhứt là loại lúa thủy triều có tiềm năng cao vì còn nhiều vùng đất trên thế giới chưa được khai thác; tuy nhiên loại đất này có nhiều vấn đề (phèn, mặn, nhiều hữu cơ), rất khó trồng trọt. Ngoài ra, lúa thủy triều thường ở gần bờ biển nên công trình khai thác có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường xung quanh nếu không điều nghiên kỹ lưỡng. Loại lúa này chịu ảnh hưởng nước mặn do nước biển xâm nhập, và cũng được trồng trên đất phù sa mới thành lập, nên bị chi phối thêm bởi các loại đất phèn.

Lúa trồng trên các cánh đồng phù sa được tạo nên bởi các sông lớn và không chịu ảnh hưởng xâm nhập nước biển, nhưng bị chi phối thường trực đất phèn (Thionic Fluvisols) (Hình 5). Đó là trường hợp Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên có độ acid trung bình và thấp trên lớp đất mặt với pH 3,5-4. Việt Nam có độ 1,45 triệu ha bị ảnh hưởng phèn, trong đó có khoảng 500 000 ha acid cao, 500 000 ha acid trung bình và 450 000 acid thấp. Về đất mặn, đồng bằng sông Hồng có khoảng 350 000 ha và đồng bằng sông Cửu Long có độ 650 000 ha nằm dọc theo bờ Biển Đông, không kể một số đất mặn ít hơn ở duyên hải Trung Phần (FAO, 1988).      

Hình 5: Sulfat nhôm mao dẫn lên mặt đất vào mùa khô

 trong vùng đất phèn Đồng Tháp Mười (ảnh Lê Phát Quới, 2005)

Lúa phèn mặn cho năng suất thấp độ 1-3 t/ha, do khí hậu bất thường, tích lũy độc chất Al, Fe, Mn và Na trong đất và nước, kết hợp với hiện tượng thiếu chất vi lượng P, K, Ca, Mg và Co. Sự xáo trộn chất dinh dưỡng này làm cho cây lúa trồng trên đất phèn mặn dễ bị nhiễm sâu, bệnh và dễ bị ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu bất thường.

 Nông dân quản lý loại đất này bằng cách bơm nước ngọt từ sông Cửu Long qua các kinh rạch nhỏ để rửa chất phèn độc hại trong ruộng đầu mùa mưa. Đối với những nơi mới bắt đầu khai thác, trồng lúa vụ đầu tiên không thu hoạch tốt. Nông dân thường lên liếp hoặc mô để trồng thơm dứa hoặc khoai mỡ và đồng thời cũng để rửa phèn trong vài ba năm trước khi trồng lúa. Những nơi khai thác nhiều năm, nông dân đã trồng hai vụ lúa với giống cao năng để thay thế một vụ lúa nổi truyền thống: vụ Đông-xuân và Xuân-hè. Vùng ruộng sâu bỏ trống khi mùa lũ lụt đạt đỉnh cao. Hiện nay, hơn 95% Đồng Tháp Mười đã được nông dân khai thác thâm canh.

Đất than bùn: Việt Nam có độ 270 000 ha đất than bùn nhiệt đới, trong đó 100 000 ha đất úng thủy ở đồng bằng sông Hồng và 170 000 ha ở đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có acid cao với pH 3-5, chất carbon hữu cơ dư thừa (12-60%) và bách phân N khá cao (0,5-2,5%); nhưng thiếu chất P, K, Cu và Zn (Andriesse, 1988). Than bùn chứa chất lưu huỳnh cao dạng pyrite (FeS2) xuất hiện rừng U Minh của ĐBSCL. Đặc tính và hợp chất hữu cơ đất than bùn là do quần thể thảo mộc ngày trước đã bị phân hóa tạo ra những hợp chất như chất bán mộc, mộc, lignin, hỗn hợp đạm, nước và hỗn hợp hòa tan ether/alcohol. Một đặc tính nổi bật của đất than bùn là khả năng co dãn tùy theo hấp thụ và lưu giữ nước của đất. Do đó, thoát nước quá độ sẽ làm cho đất than bùn khô lún xuống vĩnh viển.

Những đòi hỏi cho sự khai thác đất than bùn gần giống trường hợp khai thác đầm lầy; đó là phát hoang cỏ, lát sậy, bụi rậm, đốt cháy giới hạn, nhổ gốc cây, đo đạc đất, làm bằng phẳng cùng với quản lý thoát nước cẩn thận. Sự thoát nước làm phân hóa đất than bùn, gây ra hiện tượng đất lún xuống từ vài phân đến một thước mỗi năm. Cho nên, điều chỉnh hệ thoát thủy rất cần thiết sau nhiều năm khai thác loại đất này. Bảo quản mực thủy cấp trong đất và chọn các màu thích hợp làm giảm bớt hiện tượng đất lún. Sau ít năm canh tác, tình trạng đất lún giảm bớt vì chất hữu cơ mới từ các chất dư thừa trong canh tác. Ngoài ra, cần chú ý đến tệ nạn cháy rừng thường xảy ra trên loại đất hữu cơ này.

Cây lúa là một màu đa năng, thích ứng với đất có vấn đề; nên có thể sống trên đất than bùn và có lợi tức kinh tế cao. Cây lúa được trồng trong điều kiện nước ngập, nên làm bớt phân hóa và mức lún của đất than bùn. Những giống lúa chịu đựng than bùn có thể sản xuất 3-4 t/ha mà không cần áp dụng phân bón. Hệ thống canh tác lấy lúa làm căn bản giúp cho các loại đất than bùn giảm bớt mức độ lún hơn là canh tác liên tục các màu đất khô. Khai thác hoa màu được khuyến cáo cho loại đất than bùn bị phân hóa chậm và trên mặt có phủ một lớp đất sét, nhưng không nên trồng trên những loại đất hữu cơ chưa bị phân hóa (Pons, 1988).

Hình 6: U Minh Thượng

(http://en.skydoor.net/photo/U_Minh_Thuong_Forest_1/707)

Mục tiêu của khai thác đất than bùn nhằm vừa làm tăng lợi tức nông dân vừa bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Do đó, cần quy hoạch phát triển ổn định sản xuất nông, lâm và ngư nghiệp có hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, rừng U Minh (Hình 6) được phân chia ra 3 vùng để khai thác tối đa ưu thế của từng loại đất và nước:

-          Vùng nước ngọt: trồng 2 vụ lúa và kết hợp nuôi cá đồng, cây ăn quả; luân canh lúa, vụ tôm và nuôi tôm sinh thái;

-          Vùng rừng tràm làm khu rừng kinh tế, du lịch, phòng hộ và bảo vệ môi trường, trong đó sản xuất lâm-ngư và lâm-nông kết hợp;

-          Vùng ven biển: phát triển rừng phòng hộ ven biển, khai thác thủy hải sản. 

Tóm lại, trải qua nhiều năm ngành sản xuất lúa trên đất phèn sulphate, đất mặn thủy triều và đất than bùn đã phát triển chậm chạp, do thiếu tiến bộ ngoạn mục trong khoa học nông nghiệp và kỹ thuật khai thác những loại đất khó khăn này. Trong tương lai không xa lắm, nhờ tiến bộ trong công nghiệp, ngành lai tạo và công nghệ sinh học, các loại đất phèn, mặn và than bùn cũng như vùng lúa nước trời có thể trở thành những nơi có tiềm năng sản xuất lớn. Sản xuất lúa nước trời trên các loại đất biên tế đang là một mục tiêu của nhiều quốc gia để hoàn thành kế hoạch tự túc cho một số màu tối quan trọng. Nhiều nông dân và nhiều nhà kinh doanh khai thác đầm lầy đã học được nhiều kinh nghiệm quý giá trong công tác quản lý và trồng trọt. Những hướng dẫn và các chương trình có quy hoạch kỹ lưỡng của nhà nước có thể giúp cho nông dân nghèo tránh được các rủi ro và thất bại không cần thiết khi khai thác các loại đất này. Cuối cùng, cần có những cố gắng rõ rệt trong nghiên cứu lúa chiến lược, nhất là trong lãnh vực công nghệ sinh học, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và cần có các sáng kiến mới để cải tiến khai thác và khả năng sản xuất của các loại đất có vấn đề. 

3.   LÚA TƯỚI TIÊU VÀ THÁCH THỨC

Vào buổi đầu dựng nước, dân Lạc Việt đã thay đổi lề lối canh tác, từ trồng lúa rẫy du canh qua lúa nước theo thủy triều lên xuống, vì dân số ngày thêm đông đảo họ phải sản xuất lúa gạo nhiều hơn để thỏa mãn nhu cầu. Họ vừa khai khẩn đất đai để trồng thêm lúa vừa cố gắng cải tiến lề lối canh tác để sản xuất hiệu quả trên một đơn vị diện tích đất; với sáng kiến đắp đê ngăn lũ để không làm nguy hại nhà cửa, ruộng vườn và đắp bờ bao để lưu giữ nước trời cày cấy. Họ tích tụ kinh nghiệm quản lý nước canh tác để đảm bảo sản xuất đến cuối vụ. Từ đó, hệ thống thủy lợi được dân tộc phát triển liên tục cho đến ngày nay.

Trong thời gian từ 1968 đến 2005, diện tích đất tưới nước tăng từ 1,1 triệu lên hơn 4,6 triệu ha, nhanh nhứt vào thập niên 1980-90 với chương trình thủy lợi (FAO, 2005). Ruộng tưới tiêu được trồng hầu hết với các giống lúa cao năng hiện đại và chiếm hơn 95% diện tích thu hoạch. Năng suất bình quân độ 5-8t/ha có thể tăng lên 9-10t/ha nếu dùng phân hóa học đầy đủ và quản lý mùa màng hữu hiệu. Những nơi có nhiều nước vào mùa nắng, nông dân thâm canh 2 hoặc 3 vụ mỗi năm.

Hiện nay, Việt Nam có ba mô hình dẫn thoát thủy thường gặp trên thế giới: hệ dẫn nước cổ truyền, hệ tưới chảy tràn và hệ tưới gián đoạn; nhưng hệ tưới cổ truyền và chảy tràn phổ biến hơn hết. Hệ tưới gián đoạn tuy còn giới hạn, nhưng có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai khi nguồn cung cấp nước trở nên khan hiếm, bị cạnh tranh bởi các lãnh vực khác và các sức ép môi trường (thoát khí methane). Hệ tưới tiêu này có thể giúp cho ngành khuyến nông thực hiện khẩu hiệu “3 Giảm 3 Tăng”, và gần đây “1 Phải 5 Giảm[16], trong đó có “Giảm nước”.  Ngoài ra, trên thế giới còn có “hệ tưới mưa phùn” quá tốn kém, chỉ sử dụng ở những nơi khan hiếm nguồn nước phục vụ cho các màu có giá trị cao trong các nước phát triển. Về trồng lúa, hệ thống tưới mưa phùn được áp dụng ở vùng Cerritos xứ Brazil và miền bắc Trung Quốc.

3.1. Hệ dẫn nước cổ truyền

Nông dân thế giới đã biết dẫn nước vào ruộng để trồng trọt cách nay khoảng 5 000 năm. Nước được đưa từ sông rạch hoặc thác lũ vào ruộng để canh tác bằng trọng lực thiên nhiên hoặc sức lao động con người và sức kéo động vật. Nông dân sử dụng các loại gàu sòng, gàu dai, xa quạt nước để đưa nước từ nguồn vào ruộng canh tác từ đầu Công Nguyên. Ở những đầm lầy, nước đọng quanh năm, nông dân đào kênh thoát thủy để trồng trọt. Ở các vùng bờ biển, họ xây đê đắp đập để khai thác nông nghiệp.

Ở Miền Bắc, người dân đắp đê trên sông Hồng hàng ngàn năm để ngăn ngừa lũ lụt, đồng thời kiểm soát nước trong khi canh tác và ổn định đời sống người dân tại các vùng phụ cận. Ở ĐBSCL, đắp bờ bao, đê bao gần đây chỉ làm dâng mực nước lên không đáng kể theo các nghiên cứu mô hình thủy văn, thủy lực. Đê bao, bờ bao ở đồng bằng này không thể giống như đồng bằng sông Hồng vì lũ lên từ từ, nhưng cần có công trình kiểm soát lũ để lấy phù sa, thủy sản và vệ sinh đồng ruộng. Công tác này phải bảo đảm sản xuất lương thực bền vững hàng năm, đời sống người dân được an toàn hơn trong các cụm tuyến dân cư. Tuy nhiên, do hiện tượng biến đổi khí hậu hiện nay cần phải theo dõi thường xuyên khả năng chống lũ lâu dài của các đê bao này (Tô Văn trường, 2011). 

Tại những vùng đồi núi, nông dân xây dựng ruộng bậc thang xoắn ốc từ cao xuống thấp vừa để tránh nước lũ xói mòn vừa giữ nước để canh tác trong mùa mưa. Ruộng bậc thang nay trở thành thắng cảnh ngoạn mục trên thế giới như ở Sapa, Yên Bái, miền Thượng du Bắc Việt; Banaue của Philippines; Nepal, Ấn Độ, Indonesia, Madagascar, v.v., là do sức lao động con người xây dựng hàng trăm năm trước.

3.2. Hệ tưới chảy tràn

Hình 7: Hệ thống tưới tiêu ở Hà Nam

Hệ thống tưới chảy tràn, còn gọi là tưới mặt bằng, là lề lối dẫn nước phổ biến hơn hết trên thế giới, đặc biệt sử dụng ở những nơi có nguồn nước dồi dào, đất sâu và không có độ dốc cao. Nước được dẫn từ nguồn đến ruộng nhờ vào trọng lực hoặc máy bơm nước, và giữ nước liên tục trong ruộng nhằm khống chế cỏ dại, tạo điều kiện an toàn, và chống khô hạn khi trồng lúa. Tại một thửa ruộng, nước chảy từ một vị trí cao xuống thấp nhất. Trong một khu vực, nuớc được đưa từ ruộng thượng điền xuống hạ điền. Do đó, nước không được phân phối đồng bộ cho cùng môt khu đất hoặc ngay cả một vuông đất ruộng nếu mặt đất không bằng phẳng; gây ra úng thủy vùng đất thấp hơn ở hạ điền. 

Hệ tưới nước chảy tràn gồm có một hệ kênh chính và phụ. Khoảng cách các kênh này tùy thuộc cách phân phối ruộng đất, cấu trúc và độ sâu đất đai, dòng nước và bản chất vụ mùa. Thông thường gồm một kênh chính lớn dẫn nước từ nguồn đến một vùng canh tác, nơi cao nhứt, sau đó nước được phân phối đến các ruộng qua hệ thống kênh phụ cấp một, từ kênh cấp một đến kênh cấp hai, sau cùng đến kênh cấp ba, nơi có đất ruộng thấp nhứt của vùng (Hình 7). Một hệ thống tưới nước tốt đòi hỏi các yếu tố sau đây:

-          Nước luôn luôn cung cấp đầy đủ và đúng lúc cho vụ mùa;

-          Nước phải được phân phối đồng đều trong thửa ruộng;

-          Đất ít bị xói mòn;

-          Làm tối thiểu nước chảy tràn ra khỏi thửa ruộng canh tác và tái sử dụng nước;

-          Dùng ít nhu cầu lao động cho tưới nước;

-          Dành rất ít diện tích đất cho các kênh dẫn và thoát nước;

-          Tạo dễ dàng cho các công tác đồng áng khác như làm đất bằng cơ giới, quản lý trồng trọt và thu hoạch.

             Thường hệ thoát thủy thiên nhiên không thể tải được hết nước dư thừa sau khi tưới. Hoặc ở nhiều nơi như thung lũng, tưới nước làm cho mực thủy cấp ngày càng lên cao - “úng thủy”, có thể làm cho đất trở nên kém sản xuất trong dài hạn. Vì thế, trong bất cứ hệ tưới tiêu nào, các kênh mương thoát thủy cần được thiết lập song song với hệ thống dẫn thủy để tránh gây ngập lụt ở các vùng đất quá thấp và làm tăng hiệu năng sản xuất lúa. Nước sau khi sử dụng xong được dẫn vào các kênh rạch chảy vào sông ra biển hoặc tái dùng.

3.3.      Hệ tưới gián đoạn

Hệ thống tưới nước gián đoạn được áp dụng nhằm tiết kiệm nước cũng như làm tăng hiệu năng sản xuất. Nước được dẫn vào ruộng như tưới chảy tràn, nhưng không lưu giữ một cách liên tục trong suốt vụ trồng, xen kẽ với những lần thoát nước cho đến mức bảo hòa đất ruộng (trên 20% ẩm độ nước sẵn sàng trong đất), với mục đích tiết kiệm nước và cung cấp không khí cho hệ thống rễ lúa, đồng thời làm tăng hoạt động vi sinh vật trong đất. Số lần tưới nước xen kẽ tùy thuộc vào loại đất đai có chất sét và chất hữu cơ nhiều hay ít để lưu giữ nước, mực nước trong đất, giai đoạn sinh trưởng của cây lúa và khí hậu.

Nghiên cứu cho biết giữ nước trong đất luôn được bảo hòa nhưng không ngập, có thể tiết kiệm nước đến 40% không làm suy giảm năng suất (Tabbal et al., 1992). Phương pháp tưới gián đoạn có thể làm tăng năng suất lúa nếu áp dụng tốt, nhưng cũng tạo điều kiện cho các loài cỏ dại phát triển nhanh và làm thất thoát nhiều chất dinh dưỡng đất. Nhiều quốc gia đã dùng đến hệ thống tưới gián đoạn trong nông nghiệp. Ở Trung Quốc, mô hình dẫn thủy này được áp dụng nhiều ở miền bắc, nơi thường thiếu nước cho canh tác. Trong hệ thống này, một lớp nước mỏng từ 2-6cm được giữ trong ruộng vào thời kỳ mạ và đâm chồi, sau đó ruộng để khô. Tùy vào thời tiết, đất đai và giai đoạn sinh trưởng, tưới nước xen kẽ từ 5-7cm mỗi 7-9 ngày một lần (lúc 80-85% khả năng giữ ẩm độ của đất), hoặc từ 3-5cm mỗi 4-6 ngày một lần (lúc 90-95% khả năng giữ ẩm độ của đất) (Klemm, 1999).

Lúa tưới tiêu đã từng đóng góp to lớn vào thành công của cuộc Cách Mạng Xanh và còn tiếp tục giữ vai trò quan trọng làm tăng sản xuất lương thực tương lai; nhưng nước ta sẽ đối diện với tình trạng thiếu nước cho nhu cầu nông nghiệp, đặc biệt vào mùa khô ở ĐBSCL. Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp phải cạnh tranh ráo riết với các khu vực khác. Thêm vào đó, ngành trồng lúa còn bị chỉ trích về sử dụng nước quá nhiều so với các màu khác, trong khi số lượng nước cho mỗi đầu người giảm dần với dân số gia tăng không ngừng. Giá lúa gạo thế giới tiếp tục giảm, gây khó khăn cho nông dân, người làm chính sách nhà nước và các cơ quan viện trợ/cho vay quốc tế trong các quy hoạch chương trình tăng sản xuất lúa gạo quốc gia dựa vào nguồn thủy lợi. 

Cho nên, ưu tiên cao là bảo tồn nguồn nước, phát triển hệ tưới tiêu trong khả năng của mỗi quốc gia, phục hồi các hệ thủy lợi kém hiện hữu, và nâng cao trình độ quản lý khai thác nguồn nước và kỹ thuật canh tác chính xác; nhằm tăng sản xuất lúa và cải thiện hiệu năng sử dụng nước và năng suất nước.  

 

Nhìn chung, cây lúa và cư dân đất Việt đã cùng phát triển từ nền nông nghiệp sơ khai đến nông nghiệp hiện đại có định hướng kinh tế trong thời hội nhập thế giới. Cư dân gồm nhiều sắc tộc hiện đang sống ở đô thị, đồng bằng, miền thượng du, cao nguyên, vùng sâu vùng xa kém văn minh. Cây lúa cũng đang được con người trồng trên các nương rẫy cao, vùng trũng thấp, thung lũng, ven biển và đồng bằng, nhờ nước trời, được tưới tiêu, chăm sóc kỹ lưỡng.

            Con người có đời sống tự nhiên đơn giản từ thời tiền sử đến xã hội phức tạp, cộng đồng văn minh và thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Cây lúa cũng thay hình đổi dạng từ loài thảo mộc sống muôn đời hoang dã đã trở thành loại Hòa thảo có cuộc sống ngắn ngủi, hàng niên để ngày nay cưu mang nhiều vấn đề không đơn giản, phải phấn đấu với các dịch bệnh sâu rầy, vấn đề vô sinh, môi trường khắc nghiệt, chất lượng tiêu thụ, kinh tế thị trường. Đối với ngành trồng lúa, may mắn thay trong những năm gần đây khoa học tiến bộ mau lẹ, chủ yếu công nghệ sinh học và tin học phát triển vượt bực, như kỹ thuật biến đổi gen, bản đồ genome lúa, sáng tạo gạo vàng có nhiều tiền vitamin A, đang khám phá cây lúa C4... Nông dân đang áp dụng các kỹ thuật hướng về môi trường và bền vững như: IPM, GAP, kỹ thuật kiểm tra lúa, nông nghiệp chính xác… sẽ làm cho cây lương thực có nhiều cơ hội cải tiến thêm, đáp ứng đòi hỏi con người dù ở bất cứ nơi đâu. Bức tranh sáng sủa đầy triển vọng đó của cây lúa có thể nhận diện được trong thế kỷ XXI này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Andriesse, J. P. 1988. Nature and management of tropical peat soils, FAO Soil Bulletin 59, FAO, Rome, pp 165.
  2. Arradeau, M.A. and Vo Tong Xuan. 1995. Opportunities for upland rice research in Vietnam. Vietnam and IRRI: A Partnership in rice research. IRRI and Ministry of Agricultuture and Food Industry, p 191-198.
  3. FAO. 1988. Report of the mission on Agricultural Sector Review. FAO, Rome.
  4. Greenland, D.J. 1974. Evolution and development of different types of shifting cultivation. In Shifting cultivation and soil conservation in Africa. Food and Agriculture Organization, Rome, 24:5-13.
  5. IRRI. 1984. Technology for rice growing environments. IRRI, Los Banos, Philippines, pp 35.
  6. Klemm, W. 1999. Saving water in rice cultivation. Proceedings of the 19th session of the IRC, Cairo, 7-9 September 1998, FAO, Rome, p 110-117.
  7. McGinnis, J.T., and Golley, F.B. 1967. Atlantic-Pacific interocean canal. Phase I. Bio-enviromental and radiological safety feasibility studies. Batelle Memorial Institute, Columbus, Ohio.

8.       Ngc Trinh. 2016. Đồng rung nứt toác, nước nhim mn  miền Tây  (https://news.zing.vn/dong-ruong-nut-toac-nuoc-nhiem-man-o-mien-tay-post627677.html).

  1. Norman, M.J.T., Pearson, C.J. and Searle, P.G.E. 1984. Tropical cropping systems. In The ecology of tropical crops. Cambridge University Press, Cambridge, p 3-18.
  2. Nye, P.H., and Greenland, D.J. 1960. The soil under shifting cultivation. Farnham Royal,  Commowealth Agriculture Bureau, p. 156.
  3. Pons, I.J. 1988. Évaluation des sols des marais de la province de Karuzi (République du Burundi) pour les cultures vivrières. Rapport de Mission. Novembre-Decembre 1988, FAO, Rome, Italy, pp 73.
  4. Tabbal, D., Lampayan, R. and Bhuiyan, S.I. 1992. Water-saving irrigation technique for rice.  Paper presented at the International Workshop on Soil and Water Engineering for Paddy Field Management. Agricultural Land and Water Development Program. Asian Institute of Technology, Bangkok, Thailand, 28-30 January 1992.

13.   Tô Văn Trường. 2011. Đê bao, bờ bao ở đồng bằng sông Cửu Long. Hội đập lớn và Phát triển nguồn nước VN

CHƯƠNG 14

TIẾN HÓA QUY TRÌNH

SẢN XUẤT LÚA

Quá trình lịch sử sản xuất lúa gạo trên đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời đại và các nền văn hóa từ nguyên thủy đến hiện đại. Các cư dân nguyên thủy phải trải qua nhiều thử thách lớn, tranh đấu từng ngày, lâu dài với môi trường thiên nhiên để sinh tồn và tiến bộ. Họ phát triển đời sống của mình và cộng đồng dựa trên óc sáng tạo, sức chịu đựng và kinh nghiệm làm việc hàng ngày. Nghề nông đã giúp họ đạt đến cộng đồng ổn định có tổ chức, tiến bộ lâu dài, truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tiếp nối không ngừng từ 8 000 đến 10 000 năm qua. Hệ thống quản lý trồng lúa tiến bộ hôm nay là do trí tuệ sáng suốt, lòng kiên nhẫn và sức phấn đấu gian khổ con người trên bước đường tiến hóa khó khăn và thăng trầm đất nước.

Các tư liệu, thống kê liên hệ đến nông nghiệp rất hiếm hoi từ thời đại Hùng Vương đến giữa thế kỷ XIX. Các thông tin nêu ra dưới đây căn cứ vào các sử liệu hiện có, trong đó nhiều dữ kiện dựa vào các truyền thuyết dân gian, ca dao, tục ngữ hoặc sách sử thư tịch Việt Nam và Trung Quốc. Từ thời Pháp thuộc trở về sau, tài liệu, thông tin tương đối súc tích hơn (Xem thêm Chương 5-10). Trong Chương này, sự tiến hóa của quy trình sản xuất lúa từ vụ mùa đến giống, vấn đề thủy nông, công cụ sản xuất, công tác chăm sóc, và lề lối canh tác lần lượt được đề cập qua các thời đại. 

1.   VỤ LÚA QUA CÁC THỜI ĐẠI

Do ảnh hưởng gió mùa, cư dân trồng chỉ một vụ lúa rẫy hoặc lúa nước vào mùa mưa từ thời tiền sử. Các bộ lạc trồng lúa trên đất Việt cổ trong nền văn hóa Bắc Sơn (6 000 năm trước) chỉ trồng một vụ lúa rẫy mỗi năm trên diện tích đất không giới hạn vừa đủ nuôi sống gia đình. Đến nền văn hóa Phùng Nguyên-Đồng Đậu (cách nay 4 000-3 500 năm) cư dân sống tập trung ở những buôn bản, thôn làng. Khi biển thoái họ trồng lúa nước ở các gò cao, thung lũng hoặc lưu vực sông ngòi để sản xuất ổn định và thành lập cộng đồng lâu dài. Chiều hướng trồng loại lúa này tiếp tục phát triển ngày càng sung túc cho đến cuối thời đại Hùng Vương và An Dương Vương; từ đó nền văn minh lúa nước ra đời và được người sau thường nhắc đến. Vào trước CN, nhờ các giống lúa sớm và sau CN có thêm giống lúa Chiêm ít quang cảm và ngắn ngày, người Việt có thể phối hợp giống với dẫn thoát thủy để trồng hai vụ mỗi năm hầu đáp ứng nhu cầu lúa gạo gia tăng. Từ đó, miền Bắc có thêm vụ lúa Chiêm, còn gọi vụ Đông-xuân trồng từ tháng 11 đến tháng 5 và vụ lúa Mùa từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch. 

      Hệ thống canh tác lúa Chiêm và lúa Mùa đã kéo dài hai ngàn năm ở Miền Bắc. Miền Trung cũng trồng 2 vụ lúa mỗi năm từ lúc nước Chiêm Thành được thành lập năm 192. Ở Nam Bộ, lúa hai mùa chỉ xuất hiện giữa thời kỳ Pháp thuộc khi công tác thủy nông được thực hiện qui mô để đem nước tưới ruộng vào mùa nắng. Cho đến 1975, miền này chỉ có khoảng 300 000 ha đất ruộng được tưới nước vào mùa khô với máy bơm nước (Xem thêm Chương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa).

      Đến cuộc Cách Mạng Xanh (CMX) xảy ra từ 1968, cơ cấu trồng lúa trong nước đã thay đổi rất quan trọng:

      - Miền Bắc: Vụ Chiêm lần lượt giảm bớt và chuyển qua vụ Xuân, hoặc Xuân muộn. Ngoài ra, nhiều nơi còn trồng thêm vụ màu mùa đông như bắp, đậu tương, khoai tây… sau vụ Mùa.

      - Miền Nam: Vụ lúa Mùa giảm sút đáng kể và chuyển qua vụ Đông-xuân và Hè-thu (Xem thêm Chương 10:Phát triển sản xuất lúa hiện đại từ 1954 đến Đổi mới kinh tế).

      - Miền Trung và Miền Nam: Trong thời kỳ Đổi Mới, nhiều nông dân trồng đến 3 vụ lúa mỗi năm ở những vùng thiếu đất và điều kiện thủy lợi cho phép. Trong 2012, ĐBSCL có đến hơn 500 000 ha được trồng 3 vụ lúa, nhứt là tại những vùng có đê bao vững chắc (Dương Văn Chín, 2014). Về mặt kỹ thuật, hệ canh tác này không bền vững vì có thể gây ra nhiều dịch hại sâu bệnh trầm trọng và phì nhiêu đất đai suy thoái mau lẹ. Cho nên, cần thay thế vụ 3 bằng một màu phụ khác hoặc nuôi trồng thủy sản có lợi tức cao hơn. 

2.   CÁC GIỐNG LÚA TỪ VĂN HÓA BẮC SƠN ĐẾN NAY 

Xin nhắc lại trong khoảng thời gian 7 000-8 000 năm qua, cây lúa đã trải qua quá trình tiến hóa từ loài cây hoang được thuần hóa đến tuyển chọn và lai tạo để phát triển liên tục và trở nên cây lúa hiện đại ngày nay (Xem thêm Chương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa). Một số đặc tính chủ yếu của cây lúa biến đổi từ lúa hoang qua lúa trồng như sau:

- Một số lúa hoang đa niên trở thành lúa hoang hàng niên và cây lúa trồng hàng niên, qua đột biến hoặc tuyển lựa,

- Thân cao trở thành thấp giàn: nửa lùn,

- Ít chồi trở nên nhiều chồi hữu hiệu,

- Lá lúa cong oằn, xanh lợt trở nên lá thẳng và xanh đậm,

- Lá lúa xoè ra trở thành gom lại,

- Bông lúa ít hạt, dễ rụng trở nên nhiều hạt và ít rụng,

- Hạt lúa có đuôi trở nên không đuôi,

- Thời gian hạt chín kéo dài trở nên chín đồng đều trong thời gian ngắn,

- Hạt lúa màu nâu tím trở nên vàng lúc chín,

- Hạt lúa hưu miên kéo dài trở nên ít,

- Năng suất tăng từ thấp (độ 540 kg/ha vào đầu CN) lên cao (10-11 t/ha).

Chính sự biến đổi này sinh ra nhiều giống lúa khác nhau theo thời gian ở mỗi địa phương. Cho đến khi các bộ lạc trồng lúa xuất hiện, cây lúa đã được thuần dưỡng hàng trăm, ngàn năm và đã trở thành những cây lúa hàng niên, nhưng diện mạo còn giống như cây lúa hoang nên năng suất rất thấp. Thời bấy giờ, chắc chắn đã có nhiều giống lúa được trồng bởi nhiều bộ lạc khác nhau trên khắp nước, nhứt là từ khi cư dân biết trồng lúa rẫy, lúa na (thung lũng) và lúa nước phù sa. Các giống lúa của 3 hệ thống này khác xa nhau do điều kiện sinh thái khác nhau: vùng đất cao, thung lũng và đồng bằng phù sa. Hơn nữa, các giống lúa được trồng ở nhiều địa phương khác nhau, nên tiến hóa theo thời gian và môi trường. Cần lưu ý rằng các “giống” lúa tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ học từ thời sơ cổ đến trước thời Bắc thuộc chưa được định danh rõ ràng, ngoại trừ nhận diện hai loại gạo nếp và gạo tẻ, và các hạt gạo có hình dạng khác nhau. Sau đây là một số báo cáo về các loại, giống lúa đã biết đến:

  • Lúa nếp và lúa tẻ: Trong nền văn hóa Bắc Sơn, các bộ lạc phần lớn trồng lúa nếp (có hạt bầu tròn) ở nương rẫy trên các đồi núi hay đất cao. Hiện nay, nếp vẫn còn là lương thực quan trọng của dân tộc Thái, Tài, Mường.... Dân tộc Lào, và người Thái vùng Đông Bắc vẫn còn ăn cơm nếp ba lần mỗi ngày. Tục lệ cúng bánh chưng và bánh dày vào dip Tết; làm xôi, nấu rượu cúng Ông Bà trong ngày giỗ kỵ và dùng trong các lễ hội vẫn còn tiếp nối từ thời đại Hùng Vương đến nay. Trong thời đại này, lúa tẻ có hình dáng thon dài, được các nhà khảo cổ tìm thấy trong các hạt gạo cháy tại di chỉ văn hóa Đồng Đậu cách nay 3 000 năm; cho nên, giả thuyết lúa tẻ Việt Nam do nhập nội từ Trung Quốc chưa hẳn đúng.

Trong các thế kỷ sau CN, lúa tẻ được trồng ngày càng nhiều và thay thế dần lúa nếp ở ruộng nước, do năng suất cao và gạo tẻ cho cơm nhiều hơn gạo nếp. Lúa tẻ được biết vào thời Hai Bà Trưng (40-43 năm sau CN), vì trong lễ cúng Hai Bà có cả bánh dầy và bánh cuốn làm bằng gạo. Lúa tẻ trở nên phổ biến muộn nhứt từ thế kỷ XVII (Bùi Huy Đáp, 1980 và 1999).

Cũng cần biết lúa tẻ và lúa nếp khác nhau chủ yếu về hàm lượng tinh bột (amylose) trong hạt gạo. Gạo tẻ có nhiều chất tinh bột (20-28%), còn gạo nếp chỉ có 0-10% chất amylose. Khi nấu cơm, gạo tẻ nở nhiều gấp 2 lần gạo nếp. Vì thế, lúa tẻ đã bành trướng mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu dân số gia tăng trong các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới.

·         Ở di chỉ An Sơn (Long An), một dòng lúa nước thuần được phát hiện với công nghệ MicroCT qua một mảnh gốm chứa vỏ trấu có niên đại Đá Mới cách nay 4 000 năm (Barron và cộng sự viên, 2017). Các khám phá này cho biết có hai hệ thống trồng lúa rẫy trên đất cao và lúa nước dưới đất thấp, dĩ nhiên mỗi loại lúa có nhiều giống được trồng ở các địa phương khác nhau.

·         Trong di chỉ khảo cổ Đồng Đậu (cách nay 3 500-3 000 năm), các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hạt gạo cháy có hình dáng kích thước khác nhau, cho biết nông dân đã dùng nhiều giống lúa để trồng. Theo mô tả của Ông Đào Thế Tuấn (1988), có ít nhứt 6 giống lúa tìm thấy tại di chỉ Đồng Đậu; đó là những giống có hạt thon dài, thon ngắn (tẻ), bầu dài, bầu ngắn, tròn dài, tròn ngắn (nếp). Ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng), họ còn phát hiện nhiều phấn hoa của một giống lúa nước, có niên đại 3 405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Nhiều hạt lúa có hình dạng khác nhau được phát hiện ở di chỉ Gò Mun có niên đại C14 là 3 120 ± 100 năm (Sakurai, 1987). Hình dạng khác nhau của hạt lúa cho biết đó là những giống lúa khác nhau được trồng trên đất cao, thung lũng và ruộng nước thấp.

·         Từ thế kỷ VII đến II trước CN, trong Triều đại Hùng Vương, lúa nếp còn chiếm vị thế quan trọng, với truyền thuyết bánh chưng và bánh dày. Ngoài ra, còn có các giống lúa rẫy, lúa ruộng nước theo thủy triều (lúa nổi), các giống lúa thung lũng (lúa nà), các giống lúa ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu và sông Cả; các giống lúa ở miền Đông và Tây Nam Bộ và các giống lúa sớm, lỡ và muộn do ảnh hưởng quang cảm.

·         Thế kỷ II sau CN, có các giống lúa Chiêm, lúa Mùa, lúa nếp hạt tròn, lúa tẻ, lúa nước, lúa rẫy, lúa na. Theo sách Di vật chí : “Lúa Giao chỉ mỗi năm trồng hai lần, về mùa hạ và mùa đông”. Ở miền Bắc, lúc bấy giờ vụ lúa Chiêm (tháng 11-5) bắt đầu xuất hiện với những giống lúa không có quang cảm tại nhiều địa phương, như lúa chiêm Di, chiêm Vàng, Tép, Cúc.... Vụ lúa Mùa (tháng 6-11) là vụ lúa chính nhờ nước trời mưa và thủy triều lên xuống với các giống lúa có quang cảm ở các địa phương. Sách Di Vật Chí ghi rằng: “Ở Giao Chỉ có loại nếp hương, mỗi năm trồng hai vụ”. Nông dân đã biết trồng các giống lúa tùy theo từng vụ:

Vụ Chiêm em cấy lúa Di

Vụ Mùa lúa Dé, sớm thì Ba giăng (Ba trăng).

·         Thế kỷ III sau CN, xứ Giao Châu (gồm cả Giao Chỉ) “có lúa Hổ chướng (bàn tay hổ), lúa Tử mang (râu tía), lúa Xích khoáng (lúa lụa đỏ). Phương Nam có lúa Thiền minh (lúa chín vào vụ ve kêu), lúa Thất nguyệt thục (chín tháng 7). Có lúa Cái hạ bạch trồng về tháng 1, tháng 5 gặt; sau gốc lại mọc, tháng 9 lại có lúa chín. Lúa Thanh vu lại chín về tháng 6. Lúa Lũy tử, lúa Bạch mạc đều chín về tháng 7. Ba giống lúa này vừa to, vừa dài, nhánh lúa dài một tấc rưỡi, có ở Ích châu. Lúa Cánh có các loại Ô cánh, Hắc khoáng, Thanh ảnh, Hạ bạch” (Sách Quảng chí theo Lê Quí Đôn, 2003). 

  • Thế kỷ X và XI, có giống lúa (Đạo) còn gọi là lúa Tiên hay lúa Chiêm. Lê Quí Đôn (thế kỷ XVIII) viết: “...còn lúa Cái hạ bạch thì mãi đến đời Chân Tông (998-1022) nhà Tống mới sai sứ sang Chiêm Thành lấy 3 vạn hộc lúa đạo đem về phân phát cho các đạo (các tỉnh) nên mới có giống lúa ấy. Giống lúa này gọi là Tiên (thứ lúa 8 cánh, chín sớm)”. Lúa Chiêm có nhiều loại giống: Lúa Tiên tử hay còn gọi là Hồng liên có hạt thóc to, lòng đỏ, trấu cũng đỏ. Gạo hạt nhỏ, trắng, cấy tháng 4 gặt tháng 6 gọi giống lúa “60 ngày”. Gạo đỏ chín muộn hơn gọi là lúa “80 ngày”. Lại có giống muộn hơn nữa gọi là lúa “100 ngày” (Ho, 1969 và theo Bùi Huy Đáp, 1980). Dĩ nhiên, các giống lúa Chiêm này có mặt ở Miền Trung (có thể ở cả Miền Bắc), tuy nhiên chúng khác với các giống lúa Chiêm đã du nhập vào đồng bằng sông Hồng trước đó 9-10 thế kỷ.
  • Giữa thế kỷ XVII, “Ở Lĩnh Nam có nhiều thóc tẻ, mà ở Giao Chỉ nhiều nhất. Còn thóc nếp ở An Nam có nếp trắng, nếp vàng; có đến hơn 10 giống; họ dùng gạo tẻ nấu cơm ăn và gạo nếp nấu rượu.” (Sách Quảng Đông tân ngữ theo Bùi Huy Đáp, 1980 và Lê Quí Đôn, 2003).
  • Cuối thế kỷ XVIII, Lê Quí Đôn đã quan sát và phân loại 70 giống lúa ra làm: 27 giống lúa mùa, 14 giống lúa Chiêm và 29 giống lúa nếp. Cho đến 1980, hơn 200 năm sau, một số giống lúa kể trên vẫn còn được trồng, như Tám xoan ở Hà Bắc; lúa Thông ở Nam Ninh, Thanh Hóa; Tám râu ở Hải Phòng; Bát ngoạt ở Nghệ Tỉnh; Chiêm bầu ở Vĩnh Phú, Hải Hưng,...(Bùi Huy Đáp, 1980). Lê Quí Đôn (2003) đã mô tả chi tiết về một số giống lúa như sau:

Miền Bắc:

-          Lúa Thông: cây nhỏ, yếu,

-          Lúa Tám canh hay Tá quảng: cây cao, quả sai,

-          Lúa Hiên: cây cao bông dài,

-          Lúa Chiêm hom có 3 giống: một giống hạt nhỏ dài, đỏ, có râu; một giống hạt mỏng không râu; một giống hạt to đỏ có râu,

-          Lúa Sài đường, Chiêm di: cây nhỏ, yếu, dễ đổ,

-          Lúa Tám trâu, Bồ lo, Thạch, Mang hai, lúa Bột: cây cứng thẳng

-          Lúa Chiêm vàng và lúa Đăng sơn: cây cứng bị mưa gió không đổ.

-          Lúa Mân sơn, lúa Câu, lúa Ba trăng, Sài đường, Mận đẻ, lúa Lốc: chín sớm

-          Lúa Thạch: chín muộn,

-          Lúa Chiêm dự, lúa Hoa giềng: bông thưa,

-          Lúa Nàng hai, lúa Bột: hạt chi chít, đông đặc;

-          Lúa Nghệ: hạt cực đỏ,

-          Lúa Nấm: Hạt tròn to, có râu, nhẵn,

-          Lúa Tám trâu: hạt vừa vàng vừa đen,

-          Lúa nếp đen: hoa lá đều có hương,

-          Lúa Vươn cổ, lúa Hùng: bông vượt ra khỏi lá, lúa trổ khoe bông,

-          Lúa nếp lùn: bông lúa không ra khỏi ngoài lá hay lúa trổ dấu bông,

-          Lúa Cái hạ bạch: khả năng đẻ chét,

-          Lúa Chiêm di, lúa Gié nước, lúa Hom: chịu đựng nước sâu,

-          Lúa Tám hom, lúa Câu: cần ruộng cao,

-          Lúa Tám sinh, lúa Mít, Lúa Hoa giềng, lúa Lốc: nẩy chồi nhanh,...”

Miền Trung, Lê Quý Đôn đã ghi nhận trong Phủ Biên Tạp Lục:

-          Ở Triệu Phong có nếp Kỳ lân, nếp Suất, nếp Hạt cau, nếp Hương bầu, nếp Ông lão, nếp Trâu (cấy tháng 11 gặt tháng 4). Lúa tẻ gồm có lúa Sú, lúa Chiêm, lúa Hẻo, lúa Xung, lúa Tám, lúa Viên, lúa vụ 8...

-          Ở Huyện Minh Linh có nếp Bò, nếp Mít, nếp Râu. Lúa tẻ có Ba bả, lúa Chiêm chịu nước mặn, lúa Chăm bọc, lúa Chăm xa, lúa Hẻo.

-          Ở Huyện Lệ Thủy có nếp Măng, nếp Nhựa, nếp Hạt cau,...Lúa tẻ có Bát ngoạt, giống Chăm hót, lúa Hẻo.”

  Đầu thế kỷ XIX, ở Gia Định (Phan Huy Chú, 1821):

-          Lúa tẻ Mắc cửi: hạt gạo nhỏ và dài, trắng như bông, rất thơm,

-          Lúa nếp Mướp: hạt lớn, dài, trắng thơm và dẻo,

-          Nếp Mây: hạt gạo dài, lớn, mềm dẻo,

-          Nếp Than: hạt nhỏ đen và mềm dẻo,

-          Nếp Tre: hạt nhỏ như hoa tre,

-          Nếp Sáp.

Các giống này đến tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt đến tháng 1 mới xong, tháng 2 làm thóc”.

            Trong triều đại Gia Long (1802-1820), Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức (2005) đã ghi: “Gia Định đất tốt lại rộng, thổ sản như: lúa gạo, cá muối, cây gỗ, chim muông. Lúa có nhiều loại, đại khái có 2 loại: lúa Canhlúa Thuật, trong đó có xen lúa dẻo. Lúa Canh là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ, cơm mềm, mùi rất thơm, là thứ lúa có cái mang (đuôi ở đầu hạt lúa); lúa Thuật là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn. Lúa có tên riêng như lúa Tàu, lúa Móng tay, lúa Móng chim, lúa Mô cải, lúa Càn đông, lúa Cà nhe, lúa Tràng nhất, lúa Chàng co, tên gọi khác nhau, và có sớm, muộn, dẻo và không dẻo khác nhau, nhưng thứ ngon đệ nhất là giống lúa Tàu, thứ nhì là giống lúa Cà nhe.

Nếp có nếp Hương, nếp Sáp lại có thứ nếp Đen, có tên nữa là nếp Than, sắc tím, nước cốt đen, dùng nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín, nhơn khi còn nóng rưới mỡ heo, lá hành và muối trắng, trộn cho đều, mùi vị rất ngọt và giòn.”

            Vào giữa thế kỷ XIX, đã có rất nhiều giống lúa tẻ và nếp được tìm thấy ở tỉnh Gia Định và Định Tường (Đại Nam Nhất Thống Chí, tr 241). Có rất nhiều giống lúa của Miền Bắc hoặc Miền Trung được đem vào Miền Nam, như lúa Thơm, lúa Chiêm, lúa Móng chim, lúa Man, lúa Hẻo trắng (Hẻo rằn), lúa Cánh, lúa Ba trăng, lúa Bát ngoạt, lúa Trắng, lúa Dung, lúa Đen, lúa Chày chày; hoặc các loại nếp như nếp Voi, nếp Cau, nếp Bò, nếp Vằn, nếp Bụt, nếp Kỳ lân, nếp Hương bầu, nếp Cút, nếp Cò, nếp Cái, nếp Than, nếp Lụa, nếp Sáp, nếp Trứng (Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).                                                                                              

·  Đầu thế kỷ XX (thập niên 1920-30), Việt Nam có độ 1 200-2 000 giống lúa, trong đó Miền Nam có ít nhất 800 giống (Carle, 1927) và miền Bắc có 300 giống (Dumont, 1995) (Hình 1). Ở miền Bắc, trong hơn 300 giống lúa trên có độ 100 giống lúa tháng Năm, 200 giống lúa tháng Mười, độ hơn mười giống lúa “Ba trăng” và một số lúa nếp (Dumont, 1995). Theo khảo cứu trong thời gian này, lúa tháng Năm (vụ Chiêm) được chia làm 3 nhóm tùy theo sự phân nhánh cấp 1 và cấp 2 của gié lúa:

·Nhánh rất ít: những giống lúa Tép, Sài đường và Chanh

·Nhánh ít : những giống lúa Bầu

·Nhánh nhiều: những giống lúa Hom và Cút

Lúa tháng Năm hay lúa Chiêm: Thời gian sinh trưởng thay đổi tùy theo ngày gieo mạ vì ảnh hưởng của nhiệt độ thấp vào mùa đông, nên có từ 180 đến 230 ngày, năng suất bình quân 2 - 3 t/ha, gồm các giống được ưa thích như Chanh, Tép, Cút và vài loại nếp ở Hải Dương. Lúa Cút và nếp chống ngã. Ở miền Bắc, vụ Đông-xuân với giống lúa sớm (hay “lúa Chiêm”) đã có hơn 2 000 năm nay, bắt đầu vào mùa lạnh khô và chấm dứt vào đầu mùa mưa. Vụ lúa Chiêm ở miền Bắc có thể đã bắt nguồn từ giống lúa sớm được đưa từ miền Nam lâu đời (Bùi Huy Đáp, 1980), nhưng nay phần lớn vụ Chiêm được thay thế bởi vụ Xuân có năng suất cao hơn. Trong Lịch Triều Hiến Chương, Ông Phan Huy Chú ghi rằng phủ Triệu Bình ở khoảng giữa địa hạt Thuận Hóa, phía nam giáp Quảng Nam, có ít ruộng mùa, nhiều ruộng Chiêm. Vụ Chiêm là mùa chính còn vụ mùa là trái mùa. Ở Quảng Nam, hiện nay còn trồng lúa Chiêm gọi là lúa Champa, gốc Chiêm Thành, được gieo mạ vào tháng 5 âm lịch và là vụ mùa phụ giữa hai vụ mùa chính (Trần Gia Phụng, 2000).

 

LSLVN-LUA NEP

LSLVN-LUA TE 003

LSLVN-LUA NUI

Hình 1: Hình họa cây lúa nếp, lúa tẻ và lúa rẫy vào đầu thế kỷ XX (Brenier, 1917)

Lúa Tháng Mười hay lúa Mùa: Lúa này ngắn ngày hơn lúa tháng Năm do ảnh hưởng quang cảm, có 130 đến 180 ngày, gồm có (Dumond, 1995):

-          nhóm lúa Tám: Tám lùn, Tám canh, Tám xoan;

-          nhóm lúa Dé: Dé bun hay Dé muộn; 

-          nhóm nếp con: nếp Vân, nếp Thông, nếp Danh, nếp Ruồi.

-          Những giống sớm tốt như nhóm Dé, nhóm Tám (Tám canh), Sớm trăng hoặc Hông; Sớm giai hoặc Trúc. 

-          Một số lúa muộn có năng suất cao và phản ứng phân tốt như: lúa Hon, râu trắng, râu đen. lúa Nghệ. 

-          Những loại nếp cũng có năng suất cao, có khi đến 3 t/ha như: Hin đỏ, Hin trắng, Dé đen, Dé đỏ, nếp Thầu dầu, nếp Cái dộc. Ở Sơn Tây có Dé sớm, Dé đỏ và Tám lùn.

Lúa Chiêm thì cấy cho sâu

lúa Mùa thì gãy cành dâu là vừa.

 

Lúa Chiêm đào sâu chôn chặt

lúa Mùa vừa đặt vừa ăn.

 

              Trong thập niên 1920, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa đầu tiên của xứ ở Cần Thơ đã tuyển chọn nhiều giống địa phương để trồng đại trà (Bảng 1) (Trần văn Hữu, 1927): 

Bảng 1: Các giống lúa địa phương tuyển chọn vào thập niên     1920

 

     GIỐNG LÚA

 

 

    GIỐNG LÚA

Ba trăng                      

Bông dừa                    

Bông dâu                    

Cà đung          

Cà đung đá                 

Cà đung bông dâu

Cà đung bông chanh

Đung tiên

Huê kỳ

Lúa ngà

Lúa hon

Móng tay                    

Nàng Gồng

Nàng Gồng trắng

Nàng huớt trắng

Nàng bè

Nàng ngọc chùm

Phụng tiên

Rạ mày

Rạ niêu

Rạ chùm

Tàu chén

Trăng lớn

Trăng nhỏ

 


  Vào thập niên 1950 và 60
: Năm 1952, Việt Nam (Cục Túc Mễ Đông Dương) đã tham gia vào chương trình Catalogue Thế Giới về Nguồn Gen được tổ chức bởi Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế International Rice Commission - IRC) thuộc Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO), Rome, qua cung cấp tài liệu chi tiết về 78 đặc tính của 51 giống lúa cải thiện (gồm nguồn gốc, mô tả cây và hạt lúa, phản ứng sâu bệnh, thiên nhiên và xếp loại chất lượng và năng suất) (FAO, 1952).  Mỗi đặc tính được đánh giá từ 0-2 hoặc từ 0-9 (Bảng 2).

 Bảng 2: Các giống lúa địa phương tuyển chọn của Việt Nam trong Catalogue thế giới 

 

       GIỐNG LÚA

 

 

        GIỐNG LÚA

 

    GIỐNG LÚA

Ba bo ti S7

Hồng xôi B R 31

Nếp hoa vàng 830

Ba Monh ti S6

Họp V A

Nếp trứng vịt G5

Bàu 157

Lúa  uoi R 87

Prey keo E 53

Bông sen đen 2R10

Móng chiêm R 58

Puang ngeon E 49

Cà đung Gò công 111 R22

Móng tay trung B2R1i

Rạ vàng 2R5

Cà đung kết R26

Nàng co trắng R 10

Ru X 11 C

Cà đung phèn R29

Nàng ếch 2R6

Sa mo R 78

Cau 264

Nàng ếch R73

Sóc đỏ R 90

Chiêm chanh 198A

Nàng keo R138

Sóc nâu R 42

Đốc phụng R 37

Nàng phệt muộn R18

Tám đen 516 A

Đốc phụng lùn A R16

Nàng quớt R 59

Tàu bắc R 80

Gi

Nàng quớt R 79

Tàu binh C F18

Giàu cao 89 B

Nàng rừng F6

Tàu chệt cục  R 53

Dé nổi 33 B

Nàng tây nhỏ C  F15

Tép Sài gòn 229

Giồng chiêm 351

Neang Veng 339 E 23

Tiêu bé R 3

Hin trắng

Nếp Cả cương 728

Tunsart R 96

Hồng xôi R 88

Nếp co G7

Vé vàng R 96

 Xin nhắc lại Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế được thành lập từ tháng giêng năm 1949 và hiện có 62 quốc gia trồng lúa quan trọng trên thế giới tham dự với tư cách hội viên, văn phòng Thư Ký Điều Hành[17] hiện đặt tại Tổ chức FAO, Rome. Việt Nam là một hội viên của Ủy Ban. Đa số các giống lúa được nông dân trồng cho đến giữa thời kỳ Cách Mạng Xanh (thập niên 1970 và 80) và được ghi trong Bảng 2.

Riêng tỉnh Tiền Giang có các giống lúa địa phương tiêu biểu cho Nam Bộ vào thời kỳ trước CMX như sau (Huỳnh Minh, 2000):

-          Lúa sớm: Puang-ngeon, Sa-mo rằn, Sa-mo trắng, Lúa xiêm, Nàng cóc, Cà- đung sớm, Lúa tiêu, Lúa nhum, Cà-đung kết.

-          Lúa lỡ: Nàng quớt, Ba xuyên, Chim nghệ, Cà lây, Lúa nối, Nàng lai, Nanh chồn, Móng chim, Nàng mâu, Nàng vu, Nàng co lỡ, Đốc vàng.

-          Lúa mùa: Nàng rà, Nàng phiệt, Nàng gồng, Nàng co mùa, Sóc nâu, Trắng nhỏ, Tàu hương, lúa Chùm, lúa Soi, lúa Móng chùm, Lúa nhỏ, Chùm mai, Chùm mùa, Bông sen, Cà đung.

-     Lúa muộn: Lúa Sa vút, Vé vàng, Nàng thơm, Tàu chén. 

  Từ thập niên 1970 đến nay: Các giống lúa địa phương giảm bớt dần, được thay thế bằng các giống lúa cao năng, nhập nội. Các giống sau này ngày càng chiếm ưu thế trong nền nông nghiệp thâm canh toàn quốc. 

(i) Miền Bắc: một số giống lúa chính được trồng gồm có:

- Giống lúa tưới tiêu và lúa nước trời: 79-1, A, CR01, CR02, CR203, DH60, DONG 256, Xuân số 4, N28, C70, C71, C180, V1814, V18, DT10, IR17494, Tám thơm, Khang Dân, Q5... 

- Giống lúa lai: Vào năm 1991, nông dân bắt đầu trồng lúa lai đầu tiên trên 100 ha dọc theo biên giới Việt-Trung, chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh. Nhận thấy tiềm năng cao của lúa lai, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã thiết lập kế hoạch phát triển trồng loại lúa với giống nhập nội từ Trung Quốc, được hỗ trợ đặc biệt của cơ quan FAO qua liên tiếp hai dự án lúa lai vào năm 1992-93 và 1996-98. Diện tích lúa lai tăng nhanh từ 11 137 ha trong 1992 lên hơn nửa triệu ha trong năm 2008, tập trung ở Miền Bắc và Miền Trung. Việt Nam là nước đầu tiên trồng lúa lai đại trà ngoài Trung Quốc, kế đến Ấn Độ, Bangladesh, Philippines và Indonesia; nhưng nước ta còn lệ thuộc quá nhiều vào nguồn hạt giống F1 của Trung Quốc! 

      Các giống lúa lai đang phổ biến ở Miền Bắc và Miền Trung gồm có:

-          Giống nhập nội: Nhóm giống 3 dòng: Giống Sán ưu 63, Sán ưu 93, Sán ưu quế 99, Boyou 64, Nhị ưu 63, Nhị ưu 838, Bác ưu 63, Bác ưu 903, Sán ưu quảng 12, Đặc ưu 63, Trúc long, Bio 404… Nhóm giống 2 dòng: Bồi tạp Sơn thanh, Bồi tạp 49...

-          Giống lai tạo trong nước: HYT 56, HYT57, HYT82, HYT84, HYT100, VN01/212, TM4, TH2, TH3, TH3-3, TH5-1, Việt lai (VL) 20, VL24, VL50, VL75... 

(ii) Miền Nam và miền Nam Trung bộ: các giống lúa hiện đại được nông dân ưa chuộng trong đầu thập niên 2000 gồm có (Bảng 3, 4 và 5):

Giống lúa sớm: OM 1490, OM 1723, IR 64, OM 1706, VND 95-20, IR 50404, MTL 145, MTL 250, OMCS 94, OM CS 96,  OM  997, OM  2031, OM  1633, IR 26579, IR 62032.

Giống lúa lỡ: IR 42, OM 723, OM 916, OM 922, THĐB (Tép hành đột biến).

Các giống lúa rẫy thường gặp như: Bài thai hồng, BC35-12, C22, Hà lan, KN96, LC90-5, IR4768-1-5-1-1 (hoặc LC 88-67-1).  

Hiện nay có khoảng 63 giống lúa đang được trồng ở ĐBSCL, trong đó phổ biến nhứt là các giống OM1490, OMCS 2000, VNĐ 95-20, OM576, Jasmine 85 (Mỹ), OM2517, OM 576, IR50404, IR 64, Khaw Dawk Mali, Hom Mali (Thái Lan), VD10, VD 20 (Đài Loan), Đài Thơm, Tài Nguyên, Nàng Hoa 9, Nàng Xuân, Trân Châu, Hương Lài, ST, OM 4900... (http://clrri.org/). 

Bảng 3: Các giống lúa cao năng phổ biến đồng bằng sông Cửu Long, (1999) 

 

Tên giống lúa

 

Nguồn gốc

 

Chu kỳ sinh trưởng (ngày)

 

Giống lúa sớm

 

 

 

OM 1490

OM 606/IR4592

90

OM 1723

KSB 54/IR 50401

95

IR 64

IRRI

105

OM 1706

OM 90/OM 33-1

95

VND 95-20

IR 64 ngẩu biến

105

IR 50404

IRRI

95

MTL 145

Đại học Cần Thơ

95

MTL 250

Đại học Cần Thơ

95

OMCS 94

IR59606-119

95

IR 56279

IRRI

95

OMCS 96

OM 269/IR 266

90

OM 997

OM 554/IR 50401

95

IR 62032

IRRI

105

OM 2031

Lúa Thái Lan/Bông

 hường

95

OM 1633

NN6A/IR32843

95

Giống lúa lỡ

 

 

 

IR 42

IRRI

135

OM 723

NN6A/A 69-1

130

OM 916

BG 380-2/Â9-1

130

OM 922

IR29723/BR4

125

THDB

Tép hành ngẩu biến

130

 

    Nguồn gốc: Bùi Bá Bổng, 2000

Bảng 4: Những giống lúa được công nhận giống lúa mới 

Stt

Tên giống

Năm

Stt

Tên giống

 

Năm

01

NN 4B

1985

22

Tài nguyên ĐB

1997

02

NN 5 B

1985

23

OMCS 95-5

1997

03

OM 89

1987

24

OM Fi 1

1997

04

OM 80

1987

25

OM 1706

1997

05

TN 108

1988

26

OM 1723

1999

06

OM 86-9

1989

27

OM1490

1999

07

IR 66

1989

28

OM 1633

1999

08

OM 576-18

1990

29

OM 2031

2000

09

IR 19660

1990

30

CM 16-27

2000

10

OM 597

1990

31

OMCS 2000

2002

11

OM 90-9

1992

32

OM 1348-9

2002

12

OM 90-2

1992

33

AS 996

2002

13

IR 29723

1992

34

OM 3536

2004

14

OM 269-65

1993

35

OM 2395

2004

15

IR 49517-23

1993

36

ĐS 20

2004

16

OM 997-6

1994

37

OM 2717

2005

17

Khaw dak Mali

1994

38

OM 2514

2005

18

OM 723 - 7

1994

39

OM 2718

2005

19

OM 1589

1995

40

OM 4498

2007

20

OMCS 94

1995

41

OM 5930

2008

21

IR 62032

1997

 

 

 

            Bảng 5: Những giống lúa được công nhận sản xuất thử 

Stt

Tên giống

Năm

Stt

Tên giống

Năm

01

NN8A

1981

31

OM1633

1997

02

OM 33

1984

32

OM1726

1997

03

Mashuri

1985

33

OM1271

1997

04

OM 91

1986

34

OMCS 97

1999

05

OM 90

1986

35

OM 2031

1999

06

OM 88

1987

36

OMCS 2000

2000

07

IR 68

1988

37

OM 2037

2000

08

OM 87-1

1989

38

AS 996

2000

09

OM 87-9

1989

39

CM 42-94

2000

10

OMCS 7

1989

40

OM 2395

2002

11

Một bụi tuyển

1989

41

ĐS 20

2002

12

Trắng chùm 

1989

42

OM 1352-5

2002

13

OM 44-5

1989

43

OM 2717

2004

14

OM 606

1989

44

OM 1352

2004

15

OM 87

1989

45

OM 4495

2004

16

OM 43-26

1989

46

OM 2718

2004

17

OM 296

1990

47

OM 2822

2004

18

OM 59-71

1990

48

OM 3242

2004

19

OM 344

1990

49

OM 1351

2004

20

OM 723-11E

1992

50

OM 3405

2004

21

IR 72

1992

51

OM 4498

2005

22

OM 987 - 1

1992

52

OM 2008

2007

23

OM 1630-108

1994

53

OM 5239

2007

24

OM861-20

1994

54

OM 6073

2008

25

OM 1055

1995

55

OM 4900

2008

26

OM 922

1995

56

OM 5636

2008

27

OM 1270-49

1995

57

OM 4668

2008

28

OMCS 96

1997

58

OM 5199-1

2008

29

OM 95-3

1997

59

OM 4059

2008

30

Tép hành ĐB

1997

60

OM 6561-12

2008

Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL, 2010       

3.   TIẾN HÓA CÔNG CỤ SẢN XUẤT LÚA

Cuộc Cách Mạng Đá Mới cách nay khoảng 11 000 năm là bước ngoặc quan trọng khi nhân loại thoát khỏi đời sống hoàn toàn hoang dã để trở nên con người khôn ngoan muộn biết thay đổi cải tiến để sinh tồn cùng với nền nông nghiệp sơ khai ra đời. Người ta còn gọi đây là cuộc “Cách Mạnh Xanh đầu tiên” của nhân loại. Ở Việt Nam, cư dân đã bắt đầu cuộc sống “con người” ít nhứt khoảng 10 000 năm trong nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, với phát hiện công cụ sản xuất đá cuội có ghè đẽo một mặt. Từ thời kỳ này đến nền nông nghiệp hiện đại, công cụ hoạt động trong sản xuất nông nghiệp đã trải qua 4 giai đoạn chủ yếu: từ đá mài tiến đến đồ đồng, đồ sắt và cơ giớì hóa, như đã thấy trong Phần II: Lịch sử trồng lúa Việt Nam. 

            Đồ đá mài: gồm có các công cụ sản xuất bằng đá ghè đẽo một mặt rồi hai mặt và nhiều loại khác nhau, như rìu Bắc Sơn, rìu đá và cuốc đá có vai trong nền văn hóa Đa Bút-Quỳnh Văn ven biển, văn hóa Cầu Sắt-Suối Linh ở Nam bộ (Hình 2 và 3). Sau đó, xuất hiện các loại cuốc, rìu đá hình tứ giác, có lưỡi lệch về một bên, liềm đá để cắt lúa chín trong nền văn hóa Phùng Nguyên.      

Đồ đồng: Trong nền văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, nhứt là văn hóa Đông Sơn, nông dân sử dụng các loại rìu đồng có họng để tra cán, cuốc đồng hình chữ U hoặc có họng tra cán với lưỡi hình tam giác hay vòng cung. Lưỡi cày đồng có 4 loại: lưỡi cày hình tam giác, lưỡi cày hình tim (chiếm đến 50%), lưỡi cày hình bướm hay chân vịt (Hình 4) và lưỡi cày vai ngang hay vai nhọn. Còn có dao gặt hay nhíp bằng đồng dùng để gặt lúa. 

Hình 2: Cuốc đá có vai và cuốc đá có nấc (5 000-7 000 năm trước) (ảnh N. K. Quỳnh)

Hình 3: Cuốc đá đôi vai (5 000-7 000 năm trước) (ảnh N. K. Quỳnh)

Hình 4: Lưỡi cày bằng đồng vào thời kỳ văn hóa Đông Sơn (2 500-3 000 năm trước) (ảnh N. K. Quỳnh) 

Đồ sắt: Gồm có rìu sắt, cuốc sắt với lưỡi cuốc có vai, có họng tra cán hình chữ nhựt và lưỡi cuốc có họng tra cán hình chữ U, lưỡi xoè rộng hình cung, xuất hiện từ khoảng giữa thời đại Hùng Vương. Còn có các liềm sắt để gặt lúa.

            Đến giai đoạn Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến, các công cụ sản xuất như cày có lưỡi sắt bén, bừa có răng bằng gỗ hoặc sắt và trục (Hình 5, 6 và 7) để đánh bùn, diệt cỏ, giữ nước và cấy lúa.

Đến thời Pháp thuộc, ngành cơ giới hóa được du nhập vào nước ta với các loại máy kéo, lưỡi cày chảo (đĩa) (Hình , bừa sử dụng tại các đồn điền, nông trại lớn của người Pháp và một số đại điền chủ bản xứ. Đa số ruộng tiểu nông và trung nông vẫn tiếp tục dùng sức lao động con người, sức kéo trâu bò và các loại cày, bừa và trục của thời phong kiến cho đến cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng bắt đầu.

                Hình 5: Cày ruộng (ảnh Dumont, 1995)

                  Hình 6: Bừa ruộng (ảnh Dumont, 1995)

                       Hình 7: Cái trục (Tiểu Đệ)

         Hình 8: Cày chảo CS-4-30 (Phan Hữu Hiền, 2010)

Từ 1955 đến nay, ngành nông nghiệp cơ giới phát triển theo từng Miền như sau (Phan Hữu Hiền, 2010):

- 1955-1975 ở Miền Bắc, cơ giới hóa dùng các máy kéo 50 HP (mã lực) [18] cho các nông trường và các trạm máy kéo. Đến 1997, toàn miền có khoảng 5 000 máy kéo lớn và 3 000 máy kéo nhỏ (hai bánh, £ 12 HP). Cơ giới hóa làm đất chỉ 3%. 

- 1955-1975 ở Miền Nam, cơ giới hóa được sử dụng trong khai khẩn đất mới ở các dinh điền và làm đất ở ĐBSCL. Máy kéo 4 bánh lớn cỡ 60-90 HP và máy kéo 2 bánh cỡ nhỏ 4 bánh (dưới 30 HP) hoặc 2 bánh phay đất ruộng nước được sử dụng. Năm 1975, có 7 000 máy kéo trên 30 HP, 2 000 máy kéo dưới 30 HP, và 12 000 máy kéo hai bánh. 

- 1975-1988, ở hai Miền, cơ giới hóa tập trung khoảng 300 trạm máy kéo quốc doanh tại huyện, đặc biệt chú ý máy kéo 50 HP với bánh lồng, bánh sắt, thuyền phao... để làm đất cho ruộng nước. Đã nhập 13 000 máy kéo chủ yếu cỡ 50 - 65 HP như MTZ 50, Renault 551, Steyr 768; và một số ít 80 HP như MTZ80, và máy kéo bánh xích như DT 75. Phương thức trạm máy kéo không hiệu quả nên lần lượt bị đóng cửa. Mức độ cơ giới hóa làm đất giảm từ 27% năm 1980 xuống còn 21% năm 1990. Riêng ĐBSCL vẫn còn giữ khoảng 45%, tỉnh An Giang chiếm trên 70%.

Từ 1990 ở Miền Nam, máy kéo 4 bánh cũ 14 - 25 HP được nhập nhiều từ Nhựt Bổn. Công nghiệp trong nước chế tạo động cơ diesel, máy kéo nhỏ, với khoảng 7 000 động cơ 6 - 12 HP, đáp ứng chỉ một phần nhu cầu.

Năm 2005, Việt Nam có khoảng 310 000 máy kéo, trong đó khoảng 3/4 là loại 2 bánh công suất dưới 15 HP; và tổng công suất khoảng 3,5 triệu HP. Số máy này giúp làm đất 67% cho cả nước. Năm 2012, mứcđộ cơ giới hóacủa ĐBSCL bình quân đạt được ở các khâu: làm đất trồng lúa 80%; thu hoạch 30%; sấy lúa chủ động 42%; gặt và tuốt lúa 95%; và xay xát lúa, gạo 95% (Phước Minh Hiệp, 2012).

Cơ giới hóa nông nghiệp là một triến trình sản xuất nông sản mà trong đó đa số hoạt động được thay thế bằng máy móc để làm tăng sản xuất trên một đơn vị đất đai, tăng gia hiệu năng lao động và thu hoạch lợi tức cao. Tuy nhiên, cho đến thập niên 2010, Việt Nam hiện còn gặp nhiều trở ngại lớn trong việc cơ giới hóa ngành trồng lúa. Theo kinh nghiệm của các nước đã hoặc đang phát triển mạnh, điều kiện tiên quyết để thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp là nền kinh tế quốc gia phải phát triển mạnh và liên tục. May thay Việt Nam đang trên chặng đường này, tiến trình công nghiệp hóa hiện nay đang thu hút rất nhiều lao động nông thôn - một điều kiện quan trọng để thúc đẩy cơ giới hóa nông nghệp trong nước.

Cho nên, để phát triển ngành ngành này, các giải pháp sau đây cần đặc biệt lưu ý tới:

(i) Trước hết cần có chính sách khuyến khích tích tụ đất đai hoặc bải bỏ hạn điền.

(ii) Sau đó, phát triển chát xám là nhu cầu chính của cơ giới hóa, đặc biệt trong ngành khảo cứu để tăng gia năng suất và chất lượng của sản phẩm, nguyên liệu và biến chế.

(iii) Chính sách tín dụng nhằm khuyến khích các nhà đầu tư và nông dân tham gia vào chương trình cơ giới hóa nông nghiệp.

(iv) Cải tiến và phát triển hạ tầng cơ sở để sự giao thông và vận tải nông sản dễ dàng đồng thời đưa ánh sáng văn minh về thôn ấp. 

4.   PHÁT TRIỂN THỦY NÔNG

Nước là một thành phần cấu tạo lớn nhất của sinh vật, cho nên nước là nhu cầu thiết yếu cho đời sống của muôn loài. Trong nông nghiệp, nước là yếu tố ưu tiên, cần thiết cho sự phát triển và sinh sản thảo mộc và thú vật, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thâm canh hóa và đa loại hóa. Vì vậy, sử dụng hữu hiệu và bảo tồn nguồn nước thiên nhiên là hai công tác quan trọng để khai thác nông nghiệp lâu dài bền vững. Công tác thủy nông bao gồm các công tác ngăn lũ lụt, đem nước từ sông rạch, nơi vùng đất cao vào ruộng thấp, đem nước vào ruộng cao, ngăn chận nước mặn, làm thoát nước ở các vùng trũng thấp và đào vét kinh rạch để nối mạng thủy nông. Tiến trình phát triển nông nghiệp tưới tiêu của đất nước đã trải qua thời gian dài hơn 3000 năm, từ nền văn hóa Đông Sơn đến nay.

Thật ra, cây lúa không cần nhiều nước như người ta đã nghĩ. Lúa rẫy chỉ cần số lượng nước khoảng 600m3/ha cho mỗi vụ, tương đương với các loại ngũ cốc khác như bắp, lúa mì. Tuy nhiên, cây lúa được trồng ở những nơi có nhiều nước để làm giảm bớt áp lực cỏ dại và cung cấp chất dinh dưỡng dễ dàng cho cây hấp thu, hoặc trong tình trạng không thể tránh được vào mùa mưa ở vùng ảnh hưởng gió mùa. Riêng lúa tưới tiêu cần từ 10 000-15 000m3 (hoặc 1 000-1 500mm) nước cho mỗi hecta mỗi vụ.  

4.1.   Tiến hóa thủy nông theo thời đại

Từ thời Cổ Đại, nông dân thường lo âu về vấn đề nước khi trồng lúa: mùa lúa Chiêm lo sợ lúa chết vì trời hạn, thiếu nước và rét lạnh đầu mùa; vụ Mùa lo sợ ruộng bị úng thủy khi có mưa nhiều: Chiêm chết se hè chết đọng. Vì không thể điều khiển mực nước trong ruộng, họ hoàn toàn dựa vào nước trời hàng năm:

Trông trời, trông đất, trông mây,

Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.

 

Chuồn chuồn bay thấp trời mưa,

Bay cao trời nắng bay vừa trời râm.

 

Đã buồn vì trận mưa rào

Lại đau vì nỗi ào ào gió đông.

Tuy nhiên, trình độ hiểu biết về thủy lợi ở nước ta đã có từ thời sơ sử. Công trình thủy lợi bằng đá basalte xếp ở Gio Linh, Quảng Trị được xây dựng không rõ thời đại, nhưng theo bà M. Colani, nhà tiền sử học Đông Dương, có thể vào những thế kỷ sau Công Nguyên do chủ nhân người cổ Indonesia đồng thời với các vùng khác ở Nam và Đông Nam Á Châu. Nhưng một số học giả khác như Cadière, A. Masson, L. Bezacier cho rằng công trình này có thể xuất hiện vào thời cổ sơ, nhiều thế kỷ trước CN. Dấu vết hệ thống thủy lợi bậc thang ở quanh núi Cồn Tiên, đặc biệt ở Vũng Đào thuộc làng An Nha có bốn bậc như sau (Tạ Chí Đại Trường, 1996):

1)      Trên cao hơn hết là vùng mặt bằng,

2)      Phía dưới là vũng thượng nhận nước từ trên núi chảy xuống,

3)      Kế dưới thấp hơn là vũng chứa nước chảy từ vũng thượng qua các vòi bằng đá, gỗ để lấy nước tắm, giặt,

4)      Một vũng tháo nước từ vũng chứa có diện tích rộng lớn.

Nước ở trên các vũng chảy theo trọng lực vào các ruộng bậc thấp hơn để dân làng trồng lúa tưới tiêu.

Vào thời kỳ dựng nước (4 000-3 000 năm BP), người Lạc Việt đã biết trồng lúa theo thủy triều lên xuống từ thế kỷ VI tr CN theo các tài liệu của Trung Quốc (Maspéro, 1918 và Cima, 1987). Đó là khái niệm thủy lợi cổ sơ nhằm sản xuất thực phẩm để sinh tồn trong điều kiện thiên nhiên. Sau đó, họ biết đắp đê, be bờ để giữ nước trong ruộng, qua bằng chứng vết tích của đoạn đê còn sót lại của thành Cổ Loa, khoảng 200 tr CN. Trong thời kỳ Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến, các triều đại quân chủ liên tục thực hiện các công tác đắp đê đập, đào kinh dẫn thoát thủy nhằm phát triển nông nghiệp với sức lao động con người.

Vào thế kỷ IX - XVI, Cao Biền đắp đê quanh thành Đại La (thành Thăng Long) dài 2 125 trượng để ngăn nước sông (Đào Duy Anh, 1938). Năm 1029, vua Lý Thái Tông ra lệnh đào sông Đan Nãi ở Thanh Hóa, 1051 cho khai kinh Lẫm ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Ở kinh thành, sông Tô Lịch được nạo vét nhiều lần để làm dễ dàng lưu thông. Vua Lý Nhân Tôn (1072-1127) đắp đê Cơ Xá, Trần Thái Tôn (1244-1258) đắp hai bờ đê sông Nhị Hà, Vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) đặt quan Hà Đê chánh và phó để giữ đê điều. Nhà Hậu Lê (1428-1527) khai thác nông nghiệp và tưới ruộng cho dân (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Chúa Nguyễn và các triều đại Nhà Nguyễn dồn nỗ lực vào khai khẩn đất hoang, dĩ nhiên phát triển hệ thống thủy nông trên toàn quốc và nhiều hơn hết ở đồng bằng sông Cửu Long.

Vào thời Pháp thuộc (1884-1954):

  Miền Bắc: công tác đê đập trở nên thiết yếu và còn là vấn đề sinh tử của dân chúng sống ở đồng bằng trong hơn hai ngàn năm qua. Vì thiếu kinh nghiệm và kiến thức ngành động thủy học nên đê điều thường bị đổ vỡ. Ở tỉnh Hưng Yên đã có 26 lần vỡ đê từ năm 1800 đến 1900, 13 lần từ 1902 đến 1921. Do đó, Pháp thực hiên công tác củng cố đê điều rất nghiêm túc. Vào cuối thế kỷ XIX, thể tích đê ước độ 20 triệu m3 đã tăng lên đến 77 triệu m3 trong 1930. Ngoài ra, Pháp còn thực hiện nhiều công tác dẫn và thoát thủy qua việc đào kinh ở tỉnh Bắc Giang (tưới 7 700ha), Vĩnh Yên (tưới 17 000ha), Thái Nguyên-Bắc Giang (tưới 28 000ha), thiết đặt hệ thống bơm nước ở Sơn Tây (tưới 10 000ha). Cuộc chỉnh trang các vuông đất lớn hạn định bởi những đê ven sông ở Thái Bình, nam Hà Nội đã dẫn nước vào 110 000ha. Vì vậy, vào thập niên 1930, độ 10% ruộng nương của châu thổ sông Hồng được dẫn thủy (Đào Duy Anh, 1938). Về sau máy bơm được ráo riết sử dụng để dẫn nước vào ruộng khi cần và thoát nước khi úng thủy. Cho đến năm 1940, độ 250 000ha được dẫn thủy ở Miền Bắc (Phạm Cao Dương, 1967). Tiếp theo trong thời kỳ độc lập từ năm 1954, công tác thủy lợi phát triển mạnh, nên các vùng trồng lúa Miền Bắc hầu hết được tưới tiêu.

  Miền Trung: công tác xây đập trên những dòng sông rất quan trọng để có nước tưới những cánh đồng nhỏ hẹp, giúp nông dân trồng hai hoặc ba vụ lúa mỗi năm vì đất ít người đông. Pháp thực hiện tu chỉnh 270km đê điều ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An thuộc lưu vực các sông Mã, sông Chu và sông Cả trong thời gian từ 1918 đến 1926. Ngoài ra, công tác dẫn thủy với xây dựng đập Bái Thượng trên sông Chu và đào vét 1 120km kinh dẫn nước, giúp cho 50 000ha được tưới tiêu ở Thanh Hóa. Nhờ hệ thống bơm đặt trên kinh lớn nhất và trên sông Cả, có đến 58 000ha ruộng được dẫn thủy ở Nghệ An từ 1932-1937.

Nhờ đắp đập Thuận An, 17 300ha được dẫn nước từ sông Hương vào 1931; đập trên sông Đa Rang cấp nước cho 18 000ha ở Tuy Hòa từ 1926-1929; dẫn nước cho 12 100ha của tỉnh Phan Rang từ 1926-1931. Ở bắc Quảng Nam, 15 000ha được khởi sự công trình dẫn thủy từ 1936. Đến năm 1936, độ 165 200ha ruộng được tưới tiêu ở Miền Trung (Phạm Cao Dương, 1967). Có thể nói đến nay hầu hết diện tích trồng lúa Miền Trung được tưới tiêu, nhưng thường bị ngập lụt lúc mưa to hoặc bão tố.

  Miền Nam: công tác đào kinh ở ĐBSCL khởi sự từ 1705 cho đến sau 1975 được ghi rõ trong sơ đồ dưới đây (Hình 9). Vấn đề thoát thủy từ các vùng rộng lớn ở Đồng Tháp Mười, khu Tứ Giác Long Xuyên, vùng U Minh và các vùng lân cận cũng như vấn đề ngọt hóa các vùng nước mặn ven biển là quan trọng hơn hết, nhằm làm dễ dàng giao thông chuyên chở hàng hóa; cung cấp nước uống, trồng trọt; và bảo đảm an ninh địa phương. Vì vậy, có nhiều kinh lớn được đào tiếp theo từ đầu thế kỷ XIX, như kinh Cái Cỏ (1815), kinh Thoại Hà (1818), Vĩnh Tế (1819), kinh An Thông (1819), kinh Bo Bo (1829), kinh Vĩnh An (1843). Vấn đề khơi sông và vét kinh cũng được đặc biệt chú ý đến. Từ năm 1866, kinh Bến Lức và Bảo Định được nạo vét (Nguyễn Minh Quang, 2001).

Từ năm 1890 đến 1900, số lượng đất do khơi sông ngòi lên đến 824 000m3 mỗi năm, nhưng trong thời gian 1920-1930 số lượng đất đào bình quân là 7 233 000m3 mỗi năm (Đào Duy Anh, 1938). Chỉ từ năm 1860 đến 1936, độ 180triệu m3 đất đã được vét lên, số lượng đất này tương đương với số đất đào ở kênh Suez, và 1 300km kênh chánh (rộng 40m, sâu 2,5m) cùng 2 500km kênh phụ đã được khai thông (Phạm Cao Dương, 1967). Vì vậy, đất trồng lúa của Miền Nam chỉ có 215 000ha vào năm 1868 tăng lên 2,2 triệu ha trong năm 1944 (Trần Văn Hữu, 1927). 

Hình 9: Sơ đồ đào kinh khai thác đồng bằng sông Cửu Long

từ 1705 đến sau 1975 (Yasuyuki, 2001)

Trong thập niên 1980 và 1990, vùng Đồng Tháp Mười có nhiều kinh được đào hoặc nạo vét theo hướng Tây-Đông, như kinh Hồng Ngự-Vĩnh Hưng (1988), kinh Tân Thành-Lagrange (1996), Đồng Tiến-Lagrange, và kinh An Phong-Mỹ Hòa. Một số kinh đào theo hướng Tây Bắc-Đông Nam như kinh Phú Hiệp, kinh Phước Xuyên, kinh 79, kinh 28. Các con kinh này cùng một số kinh khác đã góp phần làm thay đổi đặc tính lũ lụt trong vùng Đồng Tháp Mười. Cũng vậy, một số kinh đã được đào trong khu Tứ Giác Long Xuyên theo hướng Tây Bắc-Đông Nam nối liền kinh Vĩnh Tế với kinh Mạc Cần Dương, từ Châu Đốc đến Tịnh Biên, đặc biệt là kinh Trà Sư làm thuận lợi cho nước lũ từ Cambodia chảy vào Việt Nam (Nguyễn Minh Quang, 2000). Tuy nhiên, các công trình thủy lợi này đã làm cho các vùng đất trũng sâu ĐBSCL bị lũ lụt thường xuyên hơn trước 1975.

Hiện nay, có nhiều công trình lớn đã hoặc đang xây dựng ở Việt Nam như:vùng Trung du và Miền núi Bắc bộ có những công trình lớn lợi dụng tổng hợp điều tiết cấp nước, phát điện, chống lũ cho cả vùng trung và hạ du là Hoà Bình, Thác Bà, Núi Cốc, Cấm Sơn. Vùng Bắc Trung bộ có 2 hệ thống thủy lợi lớn là Đô Lương và Bái Thượng. Miền Đông Nam bộ có công trình lớn cho tưới tiêu, cấp nước ở Trị An trên sông Đồng Nai, Thác Mơ trên Sông Bé, Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, Hàm Thuận…(Viện quy hoạch thủy lợi , 2015).

4.2.   Tiến hóa phương tiện thủy nông

Trong thời tiền sử, cư dân Việt cổ biết dùng nước mưa để trồng lúa rẫy. Đến khi biển lùi, họ di chuyển theo nước xuống thung lũng, khai thác các đầm trũng để trồng lúa nước vất vả hơn, nhưng sản xuất nhiều hơn và tránh bớt hậu quả hạn hán. Ít nhứt từ thời Hùng Vương, người Lạc Việt đã biết lợi dụng thủy triều lên xuống để dẫn nước vào ruộng canh tác, đắp đê đập tránh lũ, be bờ giữ nước trong mùa mưa. Khi canh tác cố định và gặp lúc hạn hán, họ dùng mọi phương tiện để đưa nước từ nơi khác vào ruộng cấp cứu vụ lúa, gồm cả gỏ chiêng đánh trống cầu trời mưa trong thời kỳ Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến:

            Lạy trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày...

Do đó, nông dân sáng tạo và sử dụng các loại gàu, xe đạp nước cổ truyền cho đến khi người Pháp đem vào các loại máy bơm nước để thay thế sức lao động và cung cấp nước cho ruộng lúa nhanh hơn.

4.2.1.   Dụng cụ tát nước cổ truyền:

Nước là nhu cầu thiết yếu của ngành trồng lúa, cho nên nông dân phải làm bằng mọi cách để giữ đủ nước trong ruộng suốt thời gian canh tác. Vào thời Cổ Đại, họ dựa vào nước trời như nước mưa, thủy triều sông rạch, nước từ vùng đất cao chảy xuống ruộng thấp. Ngoài ra, họ phải dùng đến sức lao động như tát nước để đem nước vào ruộng khi có nhu cầu. Các phương tiện như gàu dai (hay gàu dây), gàu sòng, xa đạp nước, bánh xe nước (chạy bằng nước sông, suối), v.v. được nông dân triệt để sử dụng trước khi các máy bơm nước xuất hiện trong thời Pháp thuộc (Đào Duy Anh, 1938). 

Lúa khô cạn nước ai ơi

Rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu.

-          Gàu sòng: Ở những nơi ruộng không thấp hơn mặt nguồn nước nhiều, nông dân sử dụng gào sòng (Hình 10). Một người tát 7 giờ mỗi ngày và trong 7 ngày mỗi tuần lễ sẽ tưới được độ một thước khối nước. Cần ít nhứt 4 ngày để đưa nước trong ruộng lên 1 cm/mẫu.

Hình 10: Gàu sòng (trái) và gàu dai (phải) (họa của Dumont, 1995) 

-          Gàu dai: Ở những ruộng cao hơn mực nước độ 4-5cm, nông dân dùng loại gàu dai do hai người tát (Hình 10 và 11). Cần ít nhứt 8 ngày rưỡi để đem nước vào ruộng độ 1cm/mẫu.

-          Xe đạp nước: Ở miền Trung, nông dân dùng xe đạp nước để tát nước vào ruộng (Hình 12). Ở nơi thấp nhứt thì dùng một xe, ở ruộng cao thì chia làm nhiều bậc, mỗi bậc một xe.

-          Bánh xe nước: Bánh xe này dùng sức mạnh của dòng sông để đem nước vào ruộng. Người ta đắp đập ngang sông cho nước chảy mạnh rồi đặt bánh xe ở giữa dòng. Xung quanh bánh xe có gắn những ống tre nhỏ để múc nước dưới sông rồi theo bánh xe lên trên và đổ nước vào máng. Nước ở máng chảy vào mương và cuối cùng phân chia vào các ruộng. Các vật liệu làm bánh xe nước là những thổ sản như tre, gỗ, dây chão. Vào mùa lũ lụt, người ta tháo gở bánh xe nước để tránh bị hư hại.

Hình 11: Tác nước vào ruộng với gàu dai ở Tuy Hoà

(ảnh của Dumont, 1995)
        Hình 12: Xe đạp nước (họa của Dumont, 1995)

4.2.2.   Các loại máy bơm nước

Các phương tiện tát nước cổ truyền nêu trên vẫn còn tiếp tục dùng cho đến gần đây, đặc biệt ở những vùng hẻo lánh hoặc nông dân còn quá nghèo. Vào thời kỳ Pháp thuộc, ngành cơ giới hóa nông nghiệp đã được du nhập vào nước ta để khai thác các đồn điền cây kỹ nghệ và các đồng bằng rộng lớn ở Miền Nam, trong đó có các loại máy bơm nước để thay thế sức lao động và tưới ruộng nhanh hơn. Sự sử dụng các loại máy bơm này khá phức tạp để có hiệu suất tưới cao và bền vững. Hiệu năng máy bơm tùy thuộc vào loại máy chế tạo, sự điều chỉnh đúng lúc, và bảo trì máy móc và các bộ phận bơm nước. Do đó, lựa chọn và sử dụng máy bơm nước thích ứng cho từng địa phương và lề lối canh tác có thể đóng góp chủ yếu vào hiệu năng dùng nước trong các công trình thủy lợi nông nghiệp.

Trên thị trường có rất nhiều loại máy bơm, nhưng có bốn loại máy chính thông dụng: máy bơm ly tâm, máy bơm giếng sâu (turbine), máy bơm ngập nước và máy bơm có quạt trộn nước (Hình 13) tùy theo các yêu cầu về lượng nước đầu ra đầu vào và độ cao để bơm nước (Hansen et al., 1980 và Scherer, 1993).

(i) Máy bơm ly tâm: Với loại máy này, nước được hút vào trục giữa và phun ra chung quanh. Máy bơm ly tâm được xây dựng bằng những trục ngang hoặc dọc. Loại máy bơm trục nằm ngang có những ưu và khuyết điểm như sau:

Ưu điểm:

-          hiệu quả cao,

-          dễ chế tạo,

-          tương đối ít sự cố,

-          giá thấp,

-          dễ lấp ráp, và

-          có vận tốc cao

Do đó, các lọai bơm này thường nối thẳng vào máy phát điện.

Khuyết điểm:

-          lực phun nước lên cao bị giới hạn,

-          cần châm nước vào ống hút và máy bơm để đẩy không khí ra ngoài trước khi khởi động máy, hoặc hút hết không khí với các dụng cụ hút để làm giảm áp suất trong ống dẫn nước và nước sẽ dâng lên từ nguồn.

(ii) Máy bơm giếng sâu (Turbine): Với máy bơm nước này, nước bị ép theo trục thẳng và bị giới hạn trong ống dẫn nước. Bộ phận ép nước có thể là một đơn vị ly tâm hoặc một đơn vị đẩy nước theo trục, hoặc một kiểu máy giữa hai loại ép nước này tùy theo sự liên hệ giữa nước đầu vào và đầu ra. Bộ phận ép và van (hay sú páp) hướng dẫn nước được chứa trong một hộp và trong máy bơm nước có thể có nhiều bộ phận hộp nối tiếp nhau để tạo đủ luợng nước đầu ra theo ý muốn. Đó là lọai máy bơm nước nhiều tầng. Tất cả các bộ phận này đều ráp đặt gần dưới mặt nước. Hiệu năng của loại bơm nước này tùy thuộc vào sự tương hợp của bộ phận ép nước đối với trạm bơm. Do đó, cần phải điều chỉnh vị trí cây trục của bộ phận ép nước. Lọai máy bơm nước này có thể chạy bằng điện hoặc một nguồn năng lượng khác và có thể bơm ở độ sâu đến 300m nếu ráp đặt hoàn hảo.

 Ưu điểm: 

-          Không cần châm nước trước khi bơm vì bộ phận ép nước được đặt trong nước,

-          Không cần dời đổi vị trí máy bơm vì có một nguồn nước dồi dào.

Khuyết điểm:

-          Không thể tiếp cận với các bộ phận của máy bơm nước dễ dàng nên khó có thể kiểm soát và bảo trì thường xuyên.

(iii) Máy bơm ngập nước (Turbine): Đây là máy bơm nước Turbine có gắn thêm máy phát điện nhỏ có thể chịu ngập nước. Lọai máy này có đặc tính cũng tương tự như loại máy bơm giếng sâu kể trên để dùng cho các giếng nước thật sâu, nhưng hiệu năng lại cao hơn vì nhờ ngập nước, có hệ thống làm mát, giảm bớt nhiệt độ của máy cũng như làm giảm rất nhiều lượng sắt và đồng phát sinh do cọ xát trong lõi máy. Máy này có nhiều tầng và bơm nước ở độ sâu trên 4000m. Máy bơm ngập nước có thể chạy với năng lực 250 mã lực trong một hộp chỉ rộng 20cm.

Ưu điểm:

-   Dùng cho giếng thật sâu mà loại máy bơm nước Turbine không thể hoạt động,

-  Có thể hoạt động ở nơi có khúc quanh, trong khi máy bơm Turbine có thể bị gãy.

-    Có thể dùng để bơm nước ở những nơi ngập đầy nước.

(iv) Máy bơm quạt trộn nước: Máy bơm nước có quạt thường được sử dụng cho dẫn nước đầu vào thấp và đầu ra cao, bằng cách thay đổi độ nghiêng của van và độ cong của bộ phận ép nước, mà không cần thay đổi kích thước của bộ phận ép. Máy bơm này có thể ráp nối nhiều tầng để đạt đến độ cao tưới nước mong muốn. Bộ phận ép nước của máy bơm cần phải đặt chìm dưới mặt nước để tránh khoảng trống không. Máy bơm quạt được ráp đặt với ít tốn kém lúc ban đầu. Mỗi tầng có thể đưa nước thường ít hơn 3m và có thể được nối thêm những tầng khác để có thể bơm nước ở độ sâu 10m hoặc hơn nữa.

Theo Ngân Hàng Thế Giới (World Bank, 1998), Việt Nam có 2,3 triệu ha đất tưới tiêu bằng trọng lực và 1,4 triệu ha bằng 3 000 máy bơm điện. Độ 1/3 diện tích đất tưới tiêu chưa hoàn tất và bị xuống cấp nhiều. Cho nên, chương trình phục hồi các hệ thống tưới tiêu, đặc biệt ở Miền Bắc và Miền Trung, rất cần thiết để cải thiện năng suất và tăng sản xuất. Trong khi đó cần có kế hoạch kỹ lưỡng để tránh lỗi lầm đã gặp phải trong công tác khai khẩn đất đai ở vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau để tạo điều kiện thâm canh, ngoài việc cải thiện hệ thoát thủy, thúc đẩy dùng máy bơm nước và tu bổ đê đập. 

LSLVN-Centrifuge pump

 

 

Bơm ly tâm có sức hút

LSLVN-Submersible pump

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bơm ngập nước & Bộ máy

LSLVN-Turbine pump

 

Bộ Máy

 

 

 

 

Trục

 

 

 

 

 

Bơm Turbine

 

Hình 13: Sơ đồ nguyên tắc máy bơm nước ly tâm, bơm nước ngập và bơm Turbine (http://www.irrigationtutorials.com/pump.htm#types).

 5.   TIẾN HÓA CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ LÚA

Vào thời tiền sử, khi lúa gạo chỉ là thức ăn phụ, cư dân chưa tha thiết đến công tác chăm sóc và bảo vệ vụ mùa. Họ chỉ biết hái lượm hoặc về sau biết gieo trồng rồi chờ ngày lúa chín đến hái đem về làm thức ăn phụ thêm. Đến khi tầm quan trọng của lúa gạo tăng cao, liên hệ đến an ninh thực phẩm hàng ngày, họ mới theo dõi tình trạng cây lúa từ đầu mùa đến cuối vụ. Sau khi gieo trồng, thỉnh thoảng họ nhổ cỏ, săn đuổi thú, chim rừng từ khi lúa kết hạt đến thu hoạch. Đến giữa thời đại Kim Khí, lúa gạo trở thành thức ăn chính của cư dân Việt cổ, nông dân bắt đầu quan tâm đến chăm sóc và bảo vệ vụ mùa nhiều hơn, từ lúc sản xuất đến thu hoạch và ngay cả sau thu hoạch. Họ đặc biệt chú ý đến cung cấp chất dinh dưỡng cho cây lúa và bảo vệ vụ mùa được an toàn đến khi tiêu thụ.

Muốn no thì phải chăm làm

Một hạt thóc vàng, chín hạt mồ hôi. 

5.1.   Sử dụng phân

Vào thời Cổ Đại, người Lạc Việt đã có một ít khái niệm về chất dinh dưỡng cung cấp từ phù sa bồi đắp khi canh tác lúa theo thủy triều lên xuống. Lúc bấy giờ cư dân chưa biết dùng các loại phân hữu cơ cho đến thời Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến. Trước thời Pháp thuộc, nông dân chỉ biết cố gắng dọn đất thật kỹ lưỡng với cày bừa, giữ ruộng lúa luôn sạch sẽ không bị cỏ dại lấn chiếm và dùng các loại phân hữu cơ để làm tăng năng suất.

- Ruộng không phân như thân không của.

- Người đẹp nhờ lụa lúa đẹp nhờ phân.

Phân hóa học chỉ xuất hiện vào thời Pháp thuộc, nhưng giá cả còn quá cao, không thích hợp cho đại chúng. Đến đầu thập niên 1960 và đặc biệt trong thời Cách Mạng Xanh, phân hóa học trở nên phổ biến sâu rộng, nhưng đồng thời sử dụng phân hữu cơ ngày càng giảm bớt. Theo báo cáo của Đoàn Minh Tin (2015):

 

- Trước 1972: Nông dân dùng đạm để bón, còn phân lân và kali rất ít sử dụng. 

- Từ 1972-1992: Phân đạm, lân và phân hữu cơ được sử dụng trên nhiều vùng đất.

- Từ 1992 đến nay: Phân đạm, lân, kali và phân hữu cơ được dùng rộng rãi khắp Việt nam. 

Cây lúa cũng như các loài thảo mộc khác cần hấp thụ từ đất những chất dinh dưỡng quan trọng như C, H, O, N, P, K, Ca, Mg và S với số lượng lớn. Cây lúa cũng cần đến các chất vi lượng, như chất sắt, kẽm, đồng, Mn, B và Cl. Mức độ chất dinh dưỡng tối thiểu cần thiết cho cây lúa theo các thời kỳ sinh trưởng được ghi nhận trong Bảng 6. Các chất dinh dưỡng này thường được cung cấp cho thảo mộc dưới dạng phân hữu cơ hoặc/và phân hóa học.

Bảng 6: Nồng độ tối thiểu cho sự thiếu kém và độc hại của các

yếu tố dinh dưỡng trong cây lúa. 

Chất dinh dưỡng

Thiếu kém (T)

hoặc độc hại (Đ)

Nồng độ

tối thiểu

Bộ phận cây được phân tích

Thời kỳ

sinh trưởng

N

P

 

K

 

Ca

Mg

S

Si

Fe

 

Zn

 

Mn

 

B

 

Cu

 

Al

 

T

T

Đ

T

T

T

T

T

T

T

Đ

T

Đ

T

Đ

T

Đ

T

Đ

Đ

2,5%

0,1%

1,0%

1,0%

1,0%

0,15%

0,10%

0,10%

5,0%

70 ppm

300 pm

10 ppm

1.500 ppm

20 ppm

>2.500 ppm

3,4 ppm

100 ppm

<6 ppm

30 ppm

300 ppm

Phiến lá

Phiến lá

Rạ

Rạ

Phiến lá

Rạ

Rạ

Rạ

Rạ

Phiến lá

Phiến lá

Thân

Rạ

Thân

Thân

Rạ

Rạ

Rạ

Rạ

Thân

 

Đâm chồi

Đâm chồi

Chín

Chín

Đâm chồi

Chín

Chín

Chín

Chín

Đâm chồi

Đâm chồi

Đâm chồi

Chín

Đâm chồi

Đâm chồi

Chín

Chín

Chín

Chín

Đâm chồi

    Nguồn: De Datta, 1981 

5.1.1.   Phân hữu cơ

Từ thời kỳ Bắc thuộc cho đến tiền Cách Mạng Xanh, nông dân sử dụng phân hữu cơ một cách triệt để, đặc biệt loại phân chuồng, phân bắc, phân xanh, và rơm rạ. 

Phân chuồng: Các loại phân chuồng như phân trâu bò, heo, gà, vịt được thu lượm và bón vào ruộng trước khi cày bừa. Phân chuồng có chất đạm từ 3 đến 7 %, chất lân từ 2 đến 9% và chất bồ tạt (kali) từ 2 đến 4 %. Trong 3 loại phân trâu, bò và heo, phân heo tương đối có nhiều chất đạm, lân và bồ tạt hơn hết (Bảng 7). Phân chuồng được dùng ở cả ba miền, nhưng sử dụng nhiều nhất tại Bắc bộ và bắc Trung bộ. 

Bảng 7: Thành phần của phân tươi và nước tiểu của trâu, bò và heo 

 

Loại

 

Ẩm độ

%

 

Chất đạm

%

 

Acid

Phosporic %

 

Chất

Bồ tạt %

Phân trâu

86

3,1

2,4

2,0

Phân bò

81

3,6

3,6

2,3

Phân heo

69

7,5

9,2

3,8

Nước tiểu trâu

-

8,7

0,03

hoặc vết

15,4

Nước tiểu bò

-

11,5

0,05

hoặc vết

21,8

 

    Nguồn: Dumont, 1995 

Phân xanh:  Phân xanh nhứt là những loại họ Đậu có khả năng định đạm cao, được dùng làm phân bón vừa cho chất đạm vừa cung cấp thêm thành phần hữu cơ. Tỷ lệ C/N được quan tâm đến với loại phần này, phải đạt tối thiểu 10 cho cân bằng dinh dưỡng đất đai. Người ta khuyến cáo dùng 5t/ha phân xanh để có năng suất cao hơn khoảng 500kg/ha lúa. Vào nửa đầu thế kỷ XX, phân xanh được biết nhiều nhứt là cây muồng hay lục lạc, cây súc sắc (Crotalaria striata), bèo dâu Azolla. Cây muồng cung cấp độ 5t/ha chất xanh và làm tăng năng suất độ 0,6t/ha lúa (Dumont, 1995). Sau đó các loại Leucaena spp. (điền thanh) được chú ý đến. Ngoài ra, còn luân canh lúa với đậu xanh và vừng cũng như sử dụng phân tầm và phân bắc đối với lúa (Lê Quý Đôn, theo Bùi Huy Đáp, 1980), nhưng sử dụng phân xanh cần nhiều nhân công trong sản xuất cũng như áp dụng, nên dần dần bớt dùng đến, đặc biệt khi phân hóa học trở nên phổ thông.

Bèo dâu (Azolla): Bèo dâu là một loại rong cộng sinh với Anabaena azollae, một loại vi khuẩn có khả năng định đạm. Bèo dâu chứa độ 2-3% chất đạm và lượng carotene (tiền sinh tố A) quan trọng. Một kg bèo dâu có độ 206-619mg carotene trong 6 loại bèo dâu được thử nghiệm (Lejeune et al., 2000). Loại rong này được biết đến và sử dụng qua nhiều thế kỷ ở Việt Nam và Trung Quốc; nhưng đến thập niên 1950s chỉ trồng trên diện tích giới hạn giữa vĩ tuyến 18o và 30o về phương bắc (Van Hove, 1989). Ở miền Bắc, trước 1954, bèo dâu chỉ được trồng độ 50 000ha với dòng tím A. pinnata để làm phân xanh cho vụ lúa Đông-xuân cấy vào tháng 12 và tháng giêng. Vào khoảng thập niên 1970, nhờ vào sự du nhập các giống lúa sớm, vụ lúa Xuân thay thế dần vụ Chiêm ở đồng bằng sông Hồng; một số màu ngắn ngày và tương đối chịu lạnh được đưa vào trồng vụ đông sau lúa Mùa. Nhờ chuyển đổi cơ cấu trồng lúa đó, mô hình canh tác: bèo dâu + lúa Xuân + lúa Mùa và bèo dâu + lúa Xuân + điền thanh mô + lúa Mùa được đưa vào ruộng lúa làm tăng chất hữu cơ và chất dinh dưỡng để thâm canh cả vụ lúa Xuân và vụ Mùa (Bùi Huy Đáp, 1980). Nhờ đó, nhiều nơi nông dân trồng thêm một vụ phân xanh trong hệ canh tác lúa. 

Từ 1980, loại bèo dâu A. filiculoides được du nhập để trồng thử và cho năng suất cao hơn A. pinnata. Lúc bấy giờ, độ 100 000ha bèo dâu được trồng hàng năm ở Miền Bắc để không những cung cấp phân xanh cho lúa còn làm thức ăn gia súc và phân hữu cơ cho màu khác (Trung Tâm Nghiên Cứu Azolla, 1985). Bèo dâu không thể bành trướng rộng hơn do điều kiện khí hậu của xứ sở, như nhiệt độ cao ở Miền Nam; nhiệt độ thấp ở ít vùng miền Bắc; bão lụt, mưa to, sâu phá hoại ở miền Trung. Từ thập niên 1990, diện tích bèo dâu sụt giảm dần theo sự gia tăng sử dụng phân hóa học trong nước. Nhưng khi phân hóa học chưa phổ biến và đối với nông hộ nghèo, bèo rất có giá trị trong canh tác:

Lúa Chiêm mà thả kín bèo

Như con nhà nghèo trời đổ của cho.

Rơm, tro và các chất hữu cơ khác như phân xanh (lá thầu dầu, lá xoan, lá sắn, dây khoai, dây đậu, lục bình, v.v.), xác cá mắm, khô dầu, v.v. cũng thông dụng để trồng lúa cũng như các loại màu khác. Các gốc rạ còn lại ở ngoài đồng bị mục nát để làm phân hữu cơ cho mùa tới. Nông dân cũng áp dụng phương pháp cày ải, nghĩa là ngay sau thu hoạch lúa, đất ruộng được cày chôn gốc rạ và phơi nắng để giết sâu khuẩn trong đất cho đến vụ sau. Nước phù sa cũng mang nhiều chất dinh dưỡng cho đất đai. 

5.1.2.   Phân hóa học

Chỉ vào thời Pháp thuộc, phân vô cơ như phân đạm, lân, bồ tạt và các loại phân tổng hợp mới được nhập nội để thử nghiệm và sử dụng. Phân lân và chất vôi là các sản phẩm nội địa, được dùng đại trà để bồi dưỡng đất đai. Phân lân thường được dùng ở các ruộng có phèn, nơi có cỏ lác, cỏ năn. Vào thập niên 1920, chỉ có một nhà máy làm phân lân ở Hải Phòng và một số nhà máy nhỏ hơn ở Lạng Sơn, Thanh Hóa và Nghệ An (Dumont, 1995). Phân đạm được dùng thử nghiệm, nhưng không được nông dân ưa thích lúc đầu vì giá đắt do nhập khẩu và chưa có giống lúa phản ứng đạm cao, chống đổ ngã. 

Đến đầu thập niên 1960, phân hóa học mới được phổ biến rộng rãi hơn. Từ năm 1961-68, chỉ có phân đạm được nhập khẩu, từ 9 000 đến 126 000tấn (FAO, 2000). Trong thời Cách Mạng Xanh, phân hóa học được sử dụng ngày càng nhiều, được nhập khẩu vào thập niên 2000 khoảng 4 triệu tấn mỗi năm, trong khi sản xuất phân bản xứ bị ngưng trệ trong thập niên 1990, chỉ gần 200 000 tấn mỗi năm.

Năm 2014, nông dân tiêu thụ 10,4 triệu tấn phân hóa học trong nông nghiệp so với mức sản xuất nội địa là 8,0 triệu tấn, trong đó NPK chiếm 3,8 triệu tấn, phân lân 1,8 triệu tấn, phân urê 2,4 triệu tấn và phân DAP 330 000 tấn. Mỗi năm, nông dân Việt Nam chi khoảng 110 000 tỷ đồng (~5 tỷ Mỹ kim) cho việc sử dụng phân hóa học. Canh tác lúa sử dụng nhiều phân bón nhứt tại Việt Nam chiếm 65% nhu cầu phân bón, bắp với 9%. Các loại cây đa niên: cao su, cà phê, chè, tiêu, điều, cây ăn quả chiếm 20%; còn lại các loại cây hàng niên: mía, lạc, đậu nành, bông, rau củ…chiếm 6%. Đối với từng miền, nhu cầu phân hóa học lớn nhứt ở Nam Bộ với 6,2 triệu tấn, hay 58% tổng nhu cầu cả nước, mà phần lớn cho trồng lúa và các cây công nghiệp: cà phê, cao su, tiêu, điều. Sau đó là Miền Bắc với 2,6 triệu tấn và Miền Trung 1,97 triệu tấn (Đoàn Minh Tin, 2015).

Ngoài ra, còn có một số dự án phân bón khác, khi hoàn tất mức sản xuất có thể vượt nhu cầu nội địa, như sau: 

Doanh nghiệp                                          Dự án phân bón

 

Đạm Phú Mỹ                                                Dự án 90 nghìn tấn NH3 và 250 000 tấn

                                                              NPK chất lượng cao.

Đạm Cà Mau                                               Dây chuyền sản xuất phân viên nén phức

                                                             hợp 40 000 tấn/năm.

Supe photphat và hóa chất Lâm Thao       Dây chuyền sản xuất Acid sulfuric 300

                                                         000 tấn/năm và NPK 200 000 tấn chất

                                                         lượng cao.

Lân nung chảy Văn Điển                       Nhà máy công suất 500 tấn lân nung chảy

                                                         và 200 nghìn tấn NPK.

Phân bón Miền Nam                         Dây chuyền NPK 100 000 tấn/năm.

XNK Quảng Bình                                   Nâng công suất nhà máy NPK 55 000 tấn

                                                         lên 100 000 tấn.

 

Nguồn: FPTS tổng hợp 

Hiện nay, các công ty sản xuất phân hóa học đang hoạt động ở Việt Nam gồm có (nguồn Vinachem trong Đoàn Minh Tin, (2015)):

CTCP phân lân Ninh Bình (300 000 tấn lân, 150 000 tấn NPK/năm)

CT phân bón Miền Nam (300 000 tấn NPK và 200 000 tấn Supe lân/năm) 

CTCP Supe Photphat và hóa chất Lâm Thao (140 000 tấn lân, 700 000 tấn NPK và Supe lân 750 000 tấn/năm)

CT phân lân nung chảy Văn Điển (270 000 tấn lân và 150 000 tấn NPK/năm)

CTCP phân bón Bình Điền  (500 000 tấn NPK/năm)

CTCP phân bón hóa chất Cần Thơ (200 000 tấn NPK/năm)

CT phân đạm và hóa chất Hà Bắc (195 000 tấn urê/năm)     

Nhà máy đạm Ninh Bình (560 000 tấn urê/năm)     

CTDAP 1 (330 000 tấn DAP/năm)       

CTDAP 2 (330 000 tấn DAP/năm)   

Tổng CT phân bón và hóa chất dầu khí (800 000 tấn urê/năm)     

Nhà máy đạm Cà Mau (800 000 tấn urê/năm)      

Tập đoàn quốc tế Năm Sao (300 000 tấn NPK/năm)

Tập đoàn Baconco (200 000 tấn NPK/năm)  

CTCP vật tư tổng hợp và phân bón hóa sinh (360 000 tấn NPK/năm)

CT phân bón Việt Nhật (350 000 tấn NPK/năm).  

5.2.      Bảo vệ mùa màng

Ý niệm về bảo vệ sản xuất nông nghiệp đã phát sinh từ cuộc cách mạng đầu tiên của nhân loại, khi con người bắt đầu làm quen với nền nông nghiệp sơ khai cách nay độ 8-10 thiên kỷ, chỉ nhằm bảo đảm sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết hàng ngày và chỗ trú thân ổn định. Vì thế tiến trình bảo vệ lúa có thể phân chia làm bốn giai đoạn:

1)      Hòa hợp thiên nhiên,

2)      Tự vệ chống các dịch hại,

3)      Phòng ngừa và diệt trừ các dịch hại, và

4)      Quản lý tổng hợp các dịch hại hay quân bình thiên nhiên (IPM). 

5.2.1.   Hòa hợp thiên nhiên

Từ lúc con người ý thức nông nghiệp có thể cung cấp thức ăn hàng ngày thay vì phải di chuyển thường xuyên để kiếm ăn bằng săn bắt và hái lượm, họ phải vừa sống hòa hợp với thiên nhiên để sinh tồn vừa sáng tạo thay đổi sinh hoạt hàng ngày để đời sống được tốt hơn. Con người bắt đầu thuần hóa các loại cây cỏ thiên nhiên và sau đó thuần dưỡng một số thú vật để có thêm thức ăn hàng ngày và ít di chuyển rủi ro. Họ tìm những nơi có thể sản xuất đủ thực phẩm như lưu vực sông rạch, bờ biển, thung lũng, ven đầm lầy và sườn đồi núi để chăn nuôi, trồng trọt cung cấp thức ăn cho từng nhóm người trong thời gian lâu dài. Trong giai đoạn này, hoạt động săn bắt và hái lượm hãy còn chủ yếu. Khi dân số tăng thêm và khả năng cung cấp thức ăn của đất đai bị suy giảm, con người phải di chuyển tìm các nơi thiên nhiên khác để tiếp tục trồng trọt và săn bắt. Do đó, hệ thống nông nghiệp du canh xuất hiện từ buổi đầu và còn tồn tại ngày nay ở Tây nguyên và miền Thượng du Bắc Việt. 

Các bộ lạc trồng lúa có mặt ở nhiều nơi trong nước và Đông Nam Á khoảng 6 000 năm trước. Trong hệ thống du canh này, con người đã tạo được hài hòa giữa nhu cầu đời sống và thiên nhiên. Họ đốt phá rừng làm rẫy để sản xuất nhiều thực phẩm và định cư tạm thờ. Sau ba hoặc bốn vụ rẫy nương, mức phì nhiêu đất đai suy giảm và cỏ dại xâm nhập, họ di chuyển tìm nơi khác để tiếp tục trồng trọt. Sau 10-15 năm, họ có thể trở lại tái canh nơi rẫy cũ, lúc phì nhiêu đất đai đã phục hồi. Đây là một hệ thống canh tác hòa hợp với thiên nhiên một cách hoàn hảo để mưu cầu sinh tồn của con người. 

5.2.2.   Tự vệ chống các dịch hại

Từ 3 000-4 000 năm trước, để có đời sống ổn định lâu dài và nền văn minh phát triển, con người phải định cư thường trực hơn, chủ yếu ở các lưu vực sông ngòi, bờ biển và các thung lũng, nơi dễ dàng sản xuất nhiều thực phẩm và các sinh hoạt cộng đồng cần thiết để bảo vệ tập thể cùng sống trên một vùng đất. 

Khi mức cung cầu thiên nhiên trong một xã hội bị mất quân bình do dân số gia tăng, con người phải tự nỗ lực bằng mọi cách với khả năng, trình độ và kinh nghiệm trong từng thời kỳ để tăng sản xuất bảo đảm an toàn sinh hoạt xã hội truyền thống. Vì vậy, con người bắt đầu gây xáo trộn khoảng không gian sinh sống, làm mất thế cân bằng thiên nhiên, khi họ muốn đất đai, cây cối và gia súc sản xuất nhiều hơn. 

Vào thời sơ khai, nông dân thường chấp nhận thái độ thụ động trong công tác bảo vệ lúa khi các thiên tai bão lụt, hạn hán, nạn chim chuột, cào cào, sâu bệnh, thú rừng đe dọa thường xuyên. Trong thời Hùng Vương, nạn heo rừng phá hại được nói đến qua truyền thuyết đã làm cho cư dân lo ngại thiếu thực phẩm. Nông dân dùng hình nộm hoặc trẻ con để đuổi chim, thú rừng. Họ thường chứng kiến nhiều thiên tai và chỉ biết chuẩn bị tinh thần cho những hậu quả tiêu cực có thể xảy đến.

Đối với các dịch hại của lúa, họ dựa vào kinh nghiệm và kiến thức phổ thông để đối phó, bảo vệ mùa màng. Chẳng hạn, họ tin rằng khi có hạn hán lâu dài sẽ đưa đến nạn cào cào; mưa bão, ẩm ướt nhiều quá gây nên nhiều sâu bệnh; nhưng bệnh than vàng xuất hiện trên gié lúa là hiện tượng trúng mùa. Ngoài ra, còn có những câu ca dao như:

-          Sáng sủa được tằm, tối tăm được lúa.

-          Đói thì ăn ngô, ăn khoai, chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng.

-          Chiêm chết se, hè chết đọng (cần điều chỉnh mực nước cho lúa chiêm, lúa mùa được tốt).

Do kiến thức hiểu biết còn giới hạn, trình độ văn minh còn thấp, nông dân chỉ bảo vệ mùa màng bằng kinh nghiệm với các phương tiện thô sơ để ngăn ngừa và chữa trị các loại sâu bệnh phá hại quan trọng. Đặc biệt nông dân pha trộn 5-7 giống lúa để trồng hầu ngừa trị sâu bệnh và bảo đảm ngày gặt lúa ở cuối vụ. Vì thế, người ta đã tìm thấy nhiều giống lúa lẫn lộn ở ngoài ruộng, làm giảm chất lượng lúa gạo trên thị trường. Lề lối canh tác này được tìm thấy trong di chỉ khảo cổ Đồng Đậu và Gò Mun ở Miền Bắc, nơi đó các nhà khảo cổ phát hiện các hạt gạo cháy, vỏ trấu có hình dạng không giống nhau, với niên đại carbon cách nay 3 500 - 3 000 năm. Ngoài ra, họ còn dùng đến các phương pháp cổ truyền khác bảo vệ vụ mùa:

Về lề lối canh tác:

-  Lựa chọn các giống ít bị sâu bệnh phá hại để trồng.

-  Chọn ngày gieo hạt theo thời tiết.

-  Dọn ruộng đất, bờ đê, mương rạch sạch sẽ để tránh những ổ chứa nhiều sâu bệnh.

-  Cày ải để diệt sâu bệnh trong đất và cỏ dại.

-  Đốt cháy hoăc chôn vào đất các rơm rạ, đặc biệt những nơi bị nhiễm nhiều sâu bệnh.

Những tục ngữ ca dao sau đây là kim chỉ nam của nông dân trong ngành trồng lúa khi họ chưa có ý thức về các kỹ thuật khoa học:

- Nhứt nước nhì phân tam cần tứ giống.

- Khoai đất lạ mạ đất quen.

- Tốt giống tốt mạ, tốt mạ tốt lúa.

- Ra đi mẹ có dặn dò,

  Ruộng sâu thì cấy ruộng gò thì gieo.

- Cày sâu bừa kỹ được mùa có khi.

- Thứ nhất cày ải, thứ nhì rải phân.

Đối với côn trùng:

Dùng đèn, bẩy để bắt các bướm đêm, bắt sâu và lấy trứng bằng tay, kiểm soát mực nước, dùng dầu thả trên mặt nước, nuôi vịt trong ruộng lúa và dùng bẫy mồi, xông khói (chim, chuột, thú rừng).

Nàng về ngâm nhựa xương rồng

gánh ra đem tưới cho bông cho cà

Sâu non cho chí sâu già

hòng chi sống sót mà ra phá màu.

Đối với các loại bệnh:

Nông dân rất ít chú ý đến các bệnh lúa. Họ chỉ chọn hạt giống tốt của vụ vừa qua, chăm sóc kỹ lưỡng với làm đất, làm cỏ dại và giữ nước đầy đủ suốt vụ, với mục đích tạo nhưng cây lúa lành mạnh có thể chống chịu các sâu bệnh.

 

5.2.3.   Phòng ngừa và diệt trừ các dịch hại

Từ cuối thế kỷ XIX, Việt Nam đã biết sử dụng các hóa chất để bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Nhiều nông dân biết sử dụng các giống lúa tốt có khả năng kháng sâu bệnh cao, khử trùng hạt giống với các chất hóa học như mercuric bichloride, phenic acid và formal; hoặc dùng nước nóng ở 50oC để diệt tuyến trùng. Họ cũng dùng các loại thuốc sát trùng để vừa phòng ngừa côn trùng phá hại, nhưng còn giới hạn.

Khoảng thập niên 1920-30, các loại sâu bệnh thường xảy ra trong ruộng lúa ở nước ta được báo cáo như sau (Dumont, 1995):

Sâu: Sâu đục thân (Chilo suppressalis, Sesamia inferens), Parnara sp., Spodoptera mauritia, sâu cuốn lá (Cnaphalocrosis medinalis), sâu ống (Nymphula fluctuosalis), bù lạch (Hispa aenescens), cào cào (Locusta migratoria), chuột, chim, cua...

            Bệnh: Đốm nâu (Helminthosporium oryzae), bệnh thối rễ (Fusarium sp), bệnh than (Ustilaginoidea virens), bệnh đốm bẹ (Sclerotium oryzae), bệnh đạo ôn hay cháy lá (Pyricularia grisea Cav.), v.v.

Sau đây là các biện pháp ngừa trị thông dụng của nông dân vào những thập niên đầu của thế kỷ XX (Dumont, 1995):

Đối với từng loại côn trùng:  

Ø  Dùng đèn bẫy để bắt bướm đêm (cho tất cả loại sâu).

Ø  Bắt diệt sâu bọ và lượm trứng (sâu đục thân, sâu lá, bọ xít).

Ø  Đốt hoặc chôn rơm rạ trong đất và làm ngập nước (sâu đục thân), hoặc cày ải.

Ø  Dùng nước khống chế cỏ.

Ø  Dùng dầu thả trên mặt nước (chống rầy).

Ø  Nuôi vịt, dùng lưới để bắt (diệt rầy).

Ø  Bẫy, mồi, xông khói (chuột, thú rừng).

Ø  Chất hóa học thông dụng nhất là cyanamide (chuột, cua).

Ø  Khử trùng hạt giống với chất hóa học hoặc ung khói, ngâm nước nóng trên 50oC (tuyến trùng).

Ø  Giữ bờ, ruộng sạch sẽ.

Đối với các loại bệnh:

Ø  Khử trùng hạt giống với chất hóa học như: mercuric bichloride (thủy ngân), phenic acid và formol.

Ø  Nhổ hoặc đốt rơm rạ.

Ø  Dùng giống kháng loại bệnh quan trọng như bệnh đốm nâu (Helminthosporium oryzae), thối rễ (Fusarium sp).

Ø  Dùng phương pháp canh tác thích ứng như ngày gieo mạ, áp dụng phân, điều chỉnh mực nước.

Ø  Rất ít khi dùng chất hóa học để trị liệu cho đến ngày nay vì cho ít hiệu quả và tốn kém.

Vào nửa bán sau thế kỷ XX, khi các chất hóa học bắt đầu phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, nông dân dùng nhiều thuốc sát trùng, có khi lạm dụng quá đáng. Hai loại thuốc sát trùng DDT và HCH được phổ biến rộng rãi trong nước vì rẻ tiền cho đến gần cuối thập niên 1960. Sau đó, hai loại thuốc này lần lượt bị cấm bán vì độc tính tồn tại lâu dài trên thảo mộc, nhứt là trong đất đến hàng chục năm. 

Khi cuộc Cách Mạng Xanh (CMX) phát động mạnh, nông dân sử dụng ngày càng nhiều chất hóa học, gồm cả thuốc sát trùng và diệt cỏ trong canh tác lúa. Đối với nông dân, sự dùng thuốc sát trùng như là một hình thức bảo hiểm rẻ tiền nhưng cần thiết để bảo vệ mùa màng chống lại các sâu bệnh có thể xảy ra bất ngờ. Vào năm 1978, dịch rầy nâu làm thiệt mất độ 500 000ha lúa và đến năm 1991 hơn 700 000ha lúa bị hư hại trong nước. Năm 2006, dịch bệnh vàng lùn - lúa xoắn lá, rầy nâu đã gây thiệt hại không nhỏ trên hàng vạn hecta lúa ở ĐBSCL. Cho nên, nhiều loại thuốc sát trùng và diệt cỏ đã tranh nhau xuất hiện gồm đủ loại trên thị trường:

(1)   Cực độc hại: dieldrin, mercuric chloride, parathion, metaphos, thiofos,...

(2)   Độc hại cao: endrin, aldrin, carbofuran, fluoroacetamide, warfarin, dioseb, ...

(3)   Độc hại trung bình: BHC, diazinon, lindane, paraquat, 2,4-D, 2,4,5-T, heptachlor,...

(4)   Độc hại nhẹ: bromophos, amitraz, bentazone, malathion, dithianon, thiram, MCPA, MCPB, propanil,...

5.2.4   Phương pháp quản lý tổng hợp dịch hại IPM (Integrated Pest Management)

Sự dùng thuốc sát trùng và diệt cỏ ngày càng phổ thông, nhất là khi dùng quá độ, gây tai hại không những cho con người, súc vật, môi trường mà còn phí phạm tài nguyên. Biện pháp IPM (Integrated pest management) được hỗ trợ kỹ thuật bởi cơ quan FAO, được áp dụng hữu hiệu đầu tiên ở Indonesia trong thập niên 1980 và 90, sau đó ở Việt Nam, Philippines, Bangladesh và các xứ khác trên thế giới.

Vào thập niên 1960-1980, trong cuộc CMX nông dân trồng các giống lúa hiện đại với khuyến cáo của các nhà nghiên cứu về sử dụng nhiều phân hóa học, nhứt là phân đạm, với công thức 120-60-60 (N-P-K) cho lúa tưới tiêu, 60-60-40 cho lúa nước trời, và phun thuốc sát trùng ít nhứt ba lần mỗi vụ để phòng ngừa côn trùng phá hại như sâu ống, sâu cuốn lá, rầy lúa, bọ xít, v.v. Cuộc Cách Mạng này đã gây ra xáo trộn, làm mất thế cân bằng sinh học trong thiên nhiên qua ba tác động chính:

·         Sử dụng phận đạm quá nhiều làm cho cây lúa đâm chồi, nẩy nở và phát triển mạnh, tạo ra môi trường tối hảo cho hoạt động của các loại sâu và bệnh như dịch hại rầy nâu, bệnh cháy lá và bạc lá bùng phát mạnh mẽ và đồng loạt, khiến thiệt hại vật chất đáng kể, nhứt là dịch hại rầy nâu.

·         Các giống lúa cao năng nửa lùn thường không có hoặc có ít quang cảm nên chu kỳ sinh trưởng ngắn từ 90 đến 130 ngày, giúp cho thâm canh vụ tăng nhanh. Trong nhiều chương trình thủy lợi, lúa được trồng 2 hoặc 3 vụ mỗi năm. Ngay cả trong một mùa mưa 6 tháng, nông dân có thể trồng hai vụ lúa với nước trời. Đây là điều kiện lý tưởng cho các sâu bệnh có môi trường tốt để tiếp tục sinh sản quanh năm.

·         Các khuyến cáo về phương pháp phòng ngừa và trị liệu tức khắc các loại sâu khi trồng lúa cao năng đã làm mất cân bằng sinh học trong các quần thể lúa, vì thuốc sát trùng giết hại cả loại sâu bọ dịch hại và côn trùng thù nghịch thiên nhiên đang cộng sinh với lúa. Do đó, các côn trùng dịch hại phát triển nhanh hơn vì lực lượng côn trùng thù nghịch thiên nhiên bị yếu kém, không có khả năng ngăn chận hữu hiệu các loại côn trùng phá hại. Nhiều nông dân ở các vùng thâm canh lúa đã phun thuốc sát trùng 5-7 lần mỗi vụ, mà không cần biết ruộng lúa có sâu rầy phá hại hay không. Nông dân còn phun thuốc trong vòng 30-35 ngày sau khi cấy (hoặc gieo mạ) là không cần thiết, trái lại còn tiêu diệt cả thù nghịch thiên nhiên vào đầu vụ lúa. Cũng vậy, không cần phun thuốc khi sâu ống xuất hiện đầu vụ, vì những chồi lúa non chết sẽ được thay thế bằng những chồi mới qua qui luật bù trừ. Câu châm ngôn “Phun thuốc như chế dầu vào lửa” rất đúng cho dùng thuốc sát trùng để giết rầy - Càng phun thuốc rầy càng nhiều! Thông thường sâu bệnh và cỏ dại làm thiệt hại độ 30-35% sản lượng mùa màng.

Cho nên, trong thời CMX dịch rầy nâu phát triển mạnh mẽ và đồng loạt ở các nước trồng lúa nhiều như Việt Nam, Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, v.v. trong 1978, 1986 và 1991 vì loại rầy nâu có thể di chuyển rất xa.

Các nhà nghiên cứu lúa gạo đã phát hiện các hiện tượng bất thường nêu trên phát sinh từ phương pháp ngừa và trị đã gây ra mất thế cân bằng thiên nhiên khi dùng thuốt sát trùng quá độ vào cuối thập niên 1970. Từ đó, khái niệm về “Quản Lý Tổng Hợp Dịch Hại” hay IPM trong ngành trồng lúa được chú ý đến. Phương pháp bảo vệ mùa màng mới này là một biện pháp tổng hợp sử dụng các giống kháng sâu bệnh, thuốc sát trùng khi cần, phương pháp canh tác cải thiện và kiểm soát sinh học đã được chứng nghiệm cho hiệu quả tốt.

            (i) Tiến trình áp dụng khái niệm IPM

Thực ra, khái niệm IPM đã được áp dụng từ thập niên 1950. Nông dân các nước tiên tiến đã dùng IPM cho một số cây ôn đới hàng niên như bông vải, alfalfa và cây đa niên như cao su, dừa dầu và cây trà từ 1957. Vào 1984, khóa họp thứ 12 của cơ quan FAO/UNEP ở Rome, đã khuyến cáo FAO nên chú ý nhiều hơn nữa đến các giải pháp tổng hợp trong công tác bảo vệ mùa màng, vì một số sâu bọ đã kháng lại thuốc sát trùng (FAO/UNEP, 1984). Nông dân cũng nhận thức dùng thuốc sát trùng lâu ngày không còn hiệu quả như lúc ban đầu đối với một số côn trùng.

Vào đầu thập niên 1980, FAO đã trợ giúp kỹ thuật cho một số nước ở châu Á như Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam, và một vài nước ở Đông châu Phi tổ chức các thí điểm trình diễn về IPM. Một dự án lớn về IPM đã thành công nổi bật nhứt trong ngành trồng lúa ở Indonesia. Vào 1986, dịch rầy xuất hiện ở nước này đã tác hại trầm trọng cho vụ lúa gấp 4 lần vụ mùa trước, nhưng nông dân không có đủ thuốc sát trùng và giống lúa kháng để đối phó. Chính phủ Indonesia rất lo ngại dịch rầy có thể làm ảnh hưởng đến mục tiêu tự túc lúa gạo mà họ đã đạt được từ 1984. Nhưng nhờ vào kết quả nghiên cứu từ 1979-1986, các chuyên gia côn trùng học đã biết được thuốc sát trùng đã giết cả các côn trùng phá hại lẫn côn trùng thù nghịch thiên nhiên có lợi cho cây lúa.

Vì thế, vào cuối năm 1986, Tổng Thống Suharto nước Indonesia đã tuyên bố phát động một chiến dịch rầm rộ về IPM trên toàn quốc, với sự hỗ trợ kỹ thuật của FAO, và đồng thời ra lệnh cấm bán 57 trong danh sách 63 loại thuốc sát trùng không cần thiết, nhưng có hại cho sức khoẻ con người và môi sinh; và hủy bỏ bao cấp cho các loại thuốc sát trùng đó. Điều này đã giúp cho nước tiết kiệm được 120 triệu Mỹ kim mỗi năm, môi trường ít bị ô nhiễm, và giá thành sản xuất lúa hạ thấp. Theo cuộc nghiên cứu kinh tế về IPM ở Indonesia, chi phí cho việc tập huấn mỗi học viên tốn độ 10 đô la và mỗi nông dân đã được huấn luyện sẽ tiết kiệm được từ 10-30 đô la cho mỗi hecta lúa mỗi vụ, do ít sử dụng thuốc sát trùng (The Indonesian National IPM Program).

Từ kết quả bảo vệ mùa lúa thành công ở Indonesia, FAO đẩy mạnh nỗ lực khuyến khích các nước khác như Việt Nam, Philippines, Bangladesh, Sri Lanka, v.v. áp dụng triệt để phương pháp IPM. Phương pháp này cũng được phổ biến mạnh mẽ cho canh tác lúa và các màu khác ở châu Phi và châu Mỹ La Tinh.

Trong tiến trình phát triển quan niệm IPM có ba điểm “sửa sai” đáng chú ý:

a) Ban đầu, nguyên tắc IPM không bao gồm các giống lúa kháng sâu bệnh vì một vài nghiên cứu lẻ tẻ cho thấy rằng các giống lúa kháng sâu rầy cũng sẽ kháng các loại côn trùng thù nghịch thiên nhiên. Nhưng kết luận này đến nay chưa được xác nhận rõ ràng.

b)  Phương pháp IPM không chủ yếu làm cây lúa tăng thêm năng suất mà chỉ giúp một phần cho vụ lúa đạt được năng suất tiềm thế của nó. Nghĩa là IPM chỉ là một trong những yếu tố làm tăng năng suất lúa. Nhiều nhà côn trùng học lúc bấy giờ cho rằng IPM làm tăng năng suất lúa ở Indonesia trong thập niên 1980. Điều này không đúng hẳn trong cuộc CMX ở nước này.

c)  IPM ban đầu chỉ chú ý vào diện côn trùng và phương pháp phổ biến được gọi là “trường học ruộng nông dân” (farmers field school) mà thôi, nhưng sau đó bao gồm thêm các diện khác như tình trạng cây lúa và các phương pháp canh tác nông học tiến bộ. Vì thế, ngày nay IPM được đổi là IPPM, thêm một chữ P cho sản xuất (production).

(ii) Nguyên tắc IPM

IPM là một tiến trình chuyển hóa từ công tác chuyển giao kỹ thuật cứng nhắt với các khuyến cáo hướng dẫn nông dân bảo vệ vụ mùa qua biện pháp phòng ngừa và chữa trị, đến đề cao vai trò của nông dân chủ động áp dụng kỹ thuật khi cần thiết để có lợi tức kinh tế cao và bảo vệ môi trường. Tổng quát, có 4 nguyên tắc chính của IPM (Kenmore and Brader, 1990):

(1) Trồng các giống lúa kháng sâu bệnh và áp dụng các phương pháp canh tác bảo vệ mùa màng hữu hiệu để có năng suất cao. Như dùng giống tốt, cày bừa kỹ lưỡng, cấy đúng ngày và tuổi mạ non (tối đa 3 tuần lễ), dùng phân hóa học vừa đủ và phân hữu cơ, diệt trừ cỏ dại đúng lúc và giữ mực nước thích ứng với từng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa. Các kỹ thuật này làm giảm bớt áp lực của sâu bệnh phá hại và đồng thời tạo điều kiện tốt cho cây lúa phát triển tối hảo.

(2) Bảo vệ các côn trùng thù nghịch thiên nhiên, như các nhện lúa, Carabids, Lady beetles, Cyrtorhinus, nấm Hirsutella, sâu bọ trong nước, ký sinh trùng, cá, ếch nhái, chim, vịt… Tránh áp dụng thuốc sát trùng càng tốt để làm tăng số lượng côn trùng thù nghịch thiên nhiên, đồng thời tiết kiệm chi phí cho dùng thuốc sát trùng. Do đó, cần phân biệt loại côn trùng phá hại và côn trùng thù nghịch thiên nhiên.

(3) Quan sát ruộng lúa hàng tuần để theo dõi và kiểm tra sự xuất hiện của côn trùng phá hại và côn trùng thù nghịch, hầu lấy quyết định chính xác và đúng lúc trong việc bảo vệ mùa màng. Chỉ dùng đến thuốc sát trùng khi sự xuất hiện của sâu bọ phá hại vượt qua ngưỡng kinh tế (economic thresholds). Cần lưu ý rằng ngưỡng kinh tế này không những tùy thuộc vào từng loại côn trùng phá hại mà còn theo mỗi thời kỳ phát triển của cây lúa, cách dùng phân, mực nước trong ruộng lúa…

(4) Phối hợp nông dân trong cộng đồng địa phương để tổ chức áp dụng phương pháp IPM cùng lúc ở một nơi trong một khu vực, qua các buổi học tập, trao đổi kinh nghiệm và rút ưu khuyết điểm cho các vụ mùa sau.

(iii) Ưu và khuyết điểm của IPM

Ưu điểm:

-  Tiết kiệm thuốc sát trùng, giảm giá thành sản xuất lúa;

-  Tạo quân bình sinh học trong thiên nhiên;

            -  Giảm bộc phát các dịch hại quan trọng;

            -  Giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Khuyết điểm:  

-  Rất tốn kém trong vấn đề tổ chức, huấn luyện;

            -  Rất khó xác định ngưỡng kinh tế đối với nông dân;

-  Lúc đầu IPM chỉ chú trọng nhiều đến thuốc sát trùng mà bỏ quên các yếu tố sản xuất khác, như giống kháng và các quản lý nông học.

-  Các khuyến cáo thiếu chỉ tiêu để thực hiện, như đã thấy trong Kiểm Tra Lúa (Rice check) (Xem thêm Chương 15: Tiến hóa kỹ thuật sản xuất lúa);

-  Nông dân thiếu ghi chép và rút ưu khuyết điểm để cải thiện sản xuất trong mùa tới;

            Do đó, rất hữu ích đối với nông dân nếu kỹ thuật IPPM được phối hợp chặt chẽ với Kiểm Tra Lúa để cải tiến sản xuất, thu hẹp khoảng cách năng suất giữa nông dân và trung tâm thí nghiệm, và nâng cao mức thu nhập người trồng lúa.  

6.   TIẾN HÓA CANH TÁC LÚA TỪ THỜI CỔ ĐẠI ĐẾN NAY

Từ thời Cổ đại đến nay, ngành trồng lúa đã tiến bộ không ngừng. Trong nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, cư dân chỉ biết hái những hạt lúa hoang ở các đầm lầy, rừng núi để ăn. Sau đó, họ biết gieo các hạt lúa quanh nơi cư trú trên đất cao hoặc trũng thấp để có thêm lương thực, ngoài săn bắt thú rừng, bắt ốc, cá tôm và hái lượm các cây củ đậu. Cho đến cận thời Hùng Vương, cây lúa mới được trồng đại trà trên những mảnh đất cao và ruộng ngập nước gần khu cư trú tập thể, và đất ruộng được sữa soạn kỹ lưỡng hơn trước, với các loại cuốc và rìu bằng đá mài hoặc đồng thau, mặc dù còn trong điều kiện du canh. Từ hậu kỳ thời đại Hùng Vương cho đến nay, tiến trình sản xuất lúa, qua các vụ mùa cho đến các loại ruộng lúa, phương pháp sửa soạn đất đai, lề lối trồng lúa, chăm sóc cây lúa và thu hoạch - xay chà, có thể được phân tích, so sánh trong 4 thời kỳ lịch sử quan trọng, từ thời đại Hùng Vương (Cổ Đại) đến CMX-Đổi Mới kinh tế, được trình bày trong Bảng 8 và tóm lược sau đây: 

(1)   Vụ mùa: Từ một vụ lúa rẫy du canh đến một vụ lúa nước du canh (ngắn), một vụ lúa nước cố định, tiến đến 2 vụ lúa nước mỗi năm, và 2-3 vụ/năm hiện nay, trong khi vụ Mùa (Miền Nam) và vụ Chiêm (Miền Bắc) giảm bớt đáng kể và vụ Xuân (Miền Bắc) và Đông-xuân (Miền Nam) gia tăng.

(2)   Các loại ruộng: Từ ruộng nương đến ruộng nà (thung lũng), ruộng nước: ruộng gò và ruộng trũng (có 3 loại: ruộng cạn, ruộng sâu và ruộng rất sâu -lúa nổi).

(3)   Giống lúa: Từ lúa nếp vào buổi đầu dựng nước chuyển sang lúa tẻ (thế kỷ XVII). Số lượng giống lúa ngày càng gia tăng, đến nay VN có trên 14 000 giống.

(4)   Làm đất: dùng chân đạp, dao, rìu, cuốc bằng đá cho đến cuốc cày bằng đồng, sắt do trâu bò kéo cho đến dùng máy cày bừa hiện nay.

(5)   Trồng lúa: Chặt cây, phơi khô, đốt rừng, chọc lỗ, gieo hạt trồng lúa rẫy cho đến sạ thẳng rồi cấy 1, 2 lần, cuối cùng cấy chỉ một lần và chuyển dần trở lại gieo thẳng.

(6)   Chăm sóc: Từ ít sử dụng sức lao động đến dùng nhiều lao động, các nông cụ, sức kéo súc vật và máy móc. Từ không chăm sóc đến rất ít và nhiều chăm sóc. Từ không dùng phân đến dùng phân thiên nhiên (phù sa), phân hữu cơ và cuối cùng phân vô cơ.

(7)   Thu hoạch: Từ hái, tuốt lúa bằng tay, cắt bông lúa bằng dao, nhíp, liềm đá đến cắt bằng dao liềm bằng đồng và sắt, vòng hái và ngày nay bằng máy gặt, máy gặt-đập liên hợp.

(8)   Hậu thu hoạch: Đập lúa trên đá, cây, dùng bàn chà xát, bàn xay và chày nghiền bằng đá. Dùng chân đạp, dùng trâu bò, xa đập lúa và máy đập lúa. Máy sấy lúa thông dụng ở nông thôn lúc gặt lúa vào mùa mưa. Dùng máy xay chà lớn ở thị xã để cung cấp thị trường tiêu thụ hoặc xuất khẩu, còn máy xay chà nhỏ phổ biến ở nông thôn. 

 

 TrỒng Lúa Ở NghỆ An vào ThẾ KỶ XVIII 

Đất 12 tổng, huyện Đông Thành, trấn Nghệ An, đều là đất cát; dân huyện ấy, theo tục truyền, cứ đến tiết mang chủng (tua rua mọc), thì khởi công cày bừa, gieo thóc giống rất dày; ngay ngày hôm gieo giống, lại bừa luôn lần nữa, thóc giống với cát lẫn lộn. Không bao lâu, thóc giống mọc mầm, mưa xuống thấm ướt, màu đất bồi bổ cho lúa, lúa mọc lên tốt như cỏ; lại bừa lần nữa, mặc dù là đã có lúa. Bừa thế, đã không hại lúa, mà lại trừ được cỏ. Khi lúa chín, thu hoạch rồi, gốc lúa còn lại, không cắt đi, để cho nó thối đi thành phân, bón ruộng càng tốt. Cũng có khi bừa lại, hạt thóc rụng xuống, lúa lại mọc, không phải trồng. Một nhà có một con trâu, cày được 10 mẫu ruộng, không tốn công mấy.” (Lê Quí Đôn, 2003).

       Trường hợp này nói lên lúa gạo là thức ăn căn bản, quan trọng trong đời sống người Việt. Dù ở đâu, dù đất đai ít phì nhiêu như đất cát ở huyện Đông Thành, Trấn Nghệ An, người dân cũng cố gắng sản xuất đủ lúa gạo để nuôi gia đình, với kinh nghiệm địa phương lâu đời của họ.

 Bảng 8: So sánh kỹ thuật canh tác lúa thời Cổ Đại, lúa cổ truyền thời Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến (đến 1884), lúa cải tiến thời Pháp thuộc (đến trước CMX- 1968) và lúa hiện đại (từ CMX-Đổi Mới kinh tế đến nay) 

 

Canh tác lúa thời Cổ Đại

 

Canh tác lúa cổ truyền thời Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến

 

Canh tác lúa cải tiến thời Pháp Thuộc

 

 

Canh tác lúa

hiện đại trong

CMX

 

1. Vụ mùa:

- Lúa rẫy du canh,

- Lúa nước du canh

- Lúa nước cố định

- Trồng lúa theo thủy triều lên xuống.

 

 

 

 

 

 

 

 

2. Các loại ruộng:

- Ruộng nước phù sa

- Ruộng nà (thung lũng)

- Ruộng rẫy

 

 

 

3. Giống lúa:

- Trồng lúa nếp nhiều, hạt tròn

- Lúa tẻ ít

- Cây lúa còn đang được thuần hóa

- Giống lúa có lá dài và cong, bị quang cảm, ít chồi, gié ít hạt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Năng suất độ

£540 kg/ha

 

 

 

 

 

4. Làm đất:

- Dùng dao, rìu đá để chặt cây, làm sạch cỏ dại

- Làm đất tơi bằng cuốc, gậy, gộc, chân đạp

- Với cuốc đá ban sơ

- Với lưỡi cuốc, cày bằng đồng, sắt vào cuối Hùng Vương.

- Cày cuốc với sức người và trâu bò

 

5. Trồng lúa:

- Lúa rẫy: đốt rừng, chặt cây, chọc lỗ, gieo hạt

 

- Lúa nước: dẫn nước vào, làm tơi đất bằng chân, cuốc đá, gieo, sạ lúa ban sơ và cấy lúa về sau.

 

 

 

6. Chăm sóc:          - Sử dụng ít lao động: gieo giống xong chờ ngày thu hoạch.

- Lợi dụng chất phù sa do thủy triều lên xuống.

- Đắp một số đê đập, bờ bao để giữ nước, thoát thủy

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

7. Thu hoạch:

- Hái lúa bằng tay

- Cắt từng bông lúa với dao đá hoặc liềm đá

- Cột từng bó lúa nhỏ, phơi nắng

- Đập lúa trên đá, cây, dùng chân đạp.

- Phơi lúa bằng nắng trời

- Ban đầu còn dùng bàn xay và chày nghiền bằng đá để chà xát lúa, làm tách các vỏ lúa cứng, đặc biệt dân ở vùng miền núi.

- Về sau dùng cối chày giã thóc bằng cây hoặc đá (hoa văn trống đồng)

 

 

 

- Lúa một mùa,         - Lúa hai mùa: lúa Chiêm (tháng 5) và lúa Mùa (tháng 10).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Ruộng nước phù sa

- Ruộng nà

- Ruộng rẫy

 

 

 

 

 

 

 

 

- Lúa nếp còn chế ngự lúc đầu, hạt tròn, dài

- Lúa tẻ lần lần được trồng nhiều với hạt tròn, trung bình và dài thon, chiếm ưu thế từ thế kỷ XVII

 - Giống lúa địa phương phát triển, thân cao, lá dài và cong, bị quang cảm, ít phản ứng đạm, dễ ngã, với năng suất độ £1t/ha;

 

 

 

 

 

 

 

1-1,2 t/ha

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Làm đất với cuốc, cày, bừa bằng đồng, sắt

- Có trâu bò kéo cùng với sức lao động của người

 

 

 

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Lúa rẫy: chặt cây, đốt rừng, chọc lỗ, gieo hạt

 

 

- Lúa nước: dẫn nước vào, làm tơi đất bằng chân, gieo, sạ lúa ở nơi ruộng sâu                  - Cấy lúa ở hầu hết các nơi (ngoại trừ lúa rẫy).

 

 

 

 

 

 

- Bắt đầu dùng sức lao động để làm tăng năng suất, như làm cỏ, dùng phân bón (phân bắc, phân hữu cơ từ cây họ Đậu, phân trâu bò)

- Đắp nhiều đê đập để giữ nước, thoát thủy

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Cắt lúa với dao, nhíp, lưỡi liềm bằng sắt

- Lúa bó nhỏ, phơi nắng, đập vào đá hoặc cây hoặc dùng chân đạp

- Dùng trâu bò đạp lúa thay sức người

- Phơi lúa dưới nắng trời

- Dùng cối xay bằng đá hoặc bằng đất sét cứng để xay chà lúa.

- Dùng cối chày giã thóc bằng cây hoặc đá

 

 

 

 

 

 

- Nam bộ: lúa một mùa, có 3 loại lúa: lúa sớm (4-5 tháng), lúa lỡ (5 1/2-6 1/2 tháng) và lúa muộn (7-8 tháng).                      - Bắc bộ và Trung bộ có vụ lúa Chiêm và vụ lúa Mùa. Lúa Mùa quan trọng hơn hết.

 

 

 

 

 

 

- Nam bộ: lúa nước, lúa đất gò, lúa đất trũng, lúa nổi (từ đầu thế kỷ XX)

- Bắc bộ và Trung bộ: lúa nước quan trọng hơn lúa rẫy

 

- Lúa tẻ quan trọng hơn với hạt tròn, trung bình và dài

Vào đầu thế kỷ XX:

- Bắc bộ có 200-300 giống lúa

- Trung bộ: 100-200 giống

- Nam bộ: 800-1000 giống lúa

- Tuyển chọn giống

- Lai tạo giống đầu tiên năm 1917.

- 100% giống lúa địa phương, thân cao, lá dài và cong, bị quang cảm, ít phản ứng đạm, dễ ngã, LAI: 2-3, với năng suất độ 1-4 t/ha;

 

 

 

 

 

 

 

 

- Làm đất với cuốc, cày sắt; bừa, trục bằng cây hoặc sắt

- Có trâu bò kéo

- Dùng máy kéo, máy cày ở các nông trại lớn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Lúa rẫy: chặt cây, đốt rừng, chọc lỗ, gieo hạt

 

 

 

- Lúa nước: dẫn nước vào, làm tơi đất, đánh bùn bằng cày, bừa, trục

- Sạ lúa ở ruộng lúa nổi

 - Cấy lúa ở hầu hết các nơi (ngoại trừ lúa rẫy)..

 

 

 

 

- Dùng sức lao động để làm tăng năng suất, như làm cỏ, dùng phân bón (phân bắc, phân hữu cơ từ cây cỏ, bèo dâu, gia súc)

-Bắt đầu dùng phân hóa học (60-60-40), thuốc sát trùng; nhưng còn hiếm vì đắt tiền.

- Đắp nhiều đê đập để giữ nước, thoát thủy.  Đào nhiều kinh rạch. Khơi và vét sông ngòi làm diện tích trồng lúa tăng gia gấp bội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Gặt lúa với lưỡi liềm, vòng hái với lưỡi bằng sắt

- Lúa gặt được cột từng bó để lên mô đất, bờ ruộng phơi nắng hoặc mang về sân nhà.

- Đập lúa bằng sức người trên đá, cây có bồ che; hoặc dùng trâu bò đạp trên sân đất phủ với phân của loại gia súc này.

- Đập lúa bằng xa đạp chân và ít máy đập

- Phơi lúa bằng nắng trời

- Dùng cối xay bằng đá hoặc bằng đất sét cứng để xay chà ở các làng ấp.                       

- Dùng cối chày giã thóc bằng cây hoặc đá

- Dùng máy xay chà còn hiếm, chỉ có ở các thị xã.

 

 

 

- Nam bộ và Trung bộ: có 2 hoặc 3 vụ lúa/năm.     

- Lúa Mùa ngày càng ít quan trọng do giống lúa ngắn ngày có năng suất cao; lúa Đông-xuân và Hè-thu trở nên quan trọng hơn.

- Bắc bộ: có hai vụ lúa. 

 - Lúa Xuân thay thế phần lớn vụ Chiêm, và hệ canh tác có thêm vụ màu (đậu, bắp, v.v.) sau vụ Mùa.

 

 

 

- Lúa tưới tiêu

- Lúa nước trời
- Lúa thủy triều
- Lúa nước sâu
- Lúa rẫy

Ở Bắc bộ và Trung bộ: lúa nước quan trọng hơn và lúa rẫy

 

 

- Lúa tẻ quan trọng hơn với  trung bình và dài

 

- Hiện nay có hơn 14 000 giống lúa

- Nhập nội nhiều giống cải tiến, ngắn ngày từ IRRI, Trung Quốc, Thái Lan, v.v.

- Lai tạo giống trong nước, có năng suất cao 4-8 t/ha;

- Các giống lúa hiện đại thường dễ nhiễm sâu bệnh.

- > 95% giống lúa hiện đại, thân ngắn, lá xanh đậm và thẳng, ít hoặc không có quang cảm, phản ứng đạm cao, LAI: 5-6, năng suất trung bình 6-5-8 t/ha.

- Lúa lai được trồng nhiều ở miền Bắc và Trung bộ, với phần lớn hạt giống F1 nhập từ Trung Quốc.

 

 

- Làm đất với cuốc, cày, bừa bằng sắt.

- Có trâu bò kéo, nhưng giảm bớt vì kém hiệu năng.

- Dùng máy kéo, máy cày ngày càng nhiều.

- Dùng máy laser san bằng đất ruộng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Lúa rẫy: chặt cây, đốt rừng, chọc lỗ, gieo hạt.  Hiện nay còn dưới nửa triệu hecta.

- Lúa nước: dẫn nước vào, làm tơi đất, đánh bùn bằng cày, bừa, trục                

-  Gieo thẳng trở nên phổ thông ở Nam và Trung bộ.                                   - Cấy lúa còn phổ biến ở Bắc bộ và bắc Trung bộ, nhưng giảm dần.

 

 

 

- Dùng sức lao động để làm tăng năng suất, như làm cỏ, dùng phân bón (phân bắc, phân hữu cơ từ cây cỏ, bèo dâu, gia súc), đặc biệt ở Bắc bộ.

 

- Dùng phân hóa học (120-60-60), thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ, v.v rất phổ thông. Phương pháp bảo vệ mùa màng IPM và IPPM được áp dụng.

- Công tác thủy lợi phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc.  

 - Củng cố đê đập để giữ nước, thoát thủy.  Khơi và vét sông ngòi làm diện tích trồng lúa tăng gia gấp bội.

- Dùng nhiều máy bơm nước để dẫn và thoát thủy.

- Xây dựng đập Hòa Bình, Yala, Sơn La (đang tiến công), v.v.

- Đào nhiều kinh rạch, đặt biệt ở Nam bộ.

 

 

- Có khuynh hướng chuyển từ sức lao động đến cơ giới hóa

- Gặt lúa với lưỡi liềm, vòng hái với lưỡi bằng sắt, nhưng giảm dần         

- Lúa gặt được cột từng bó để lên mô đất, bờ ruộng phơi nắng.

- Đập lúa bằng sức người; xa đạp chân hoặc dùng trâu bò đạp trên sân đất phủ với phân của loại gia súc này.

- Bắt đầu dùng nhiều máy gặt, máy đập lúa, máy gặt-đập liên hợp.

- Máy sấy lúa thông dụng ở nông thôn lúc gặt lúa vào mùa mưa.

 - Dùng máy xay chà lớn ở thị xã để cung cấp thị trường tiêu thụ hoặc xuất khẩu.

- Dùng máy xay chà nhỏ ở khắp nông thôn.  

 

 

 

 

7.   tiẾn hóa diỆN tích và năng suẤt LÚA

Trước cuộc CMX cuối cùng, sản xuất lúa ở Việt Nam phần lớn do bành trướng lãnh thổ và tăng gia diện tích trồng hơn là từ năng suất. Thật vậy, vì dân số gia tăng và sức ép Bắc phương, Việt Nam đã bắt đầu cuộc Nam tiến, sớm nhứt trong thời kỳ độc lập phong kiến từ cuối thế kỷ XI khi vua Lý Thánh Tôn đem quân chinh phạt nước Chiêm Thành năm 1069. Đến 1697, nước Chiêm không còn nữa. Hành trình mở mang bờ cõi tiếp tục tiến đến mũi Cà Mau năm 1760. Sau đó, sản xuất lúa tăng vọt nhanh chóng trong thời Đổi Mới kinh tế và CMX, chủ yếu do chính sách nhà nước, phát triển thủy nông và sử dụng nhiều phân hóa học.

 

7.1.      Diện tích trồng lúa

Vào đầu Công Nguyên, diện tích trồng lúa của Giao Chỉ ước tính 216 000 ha (Xem thêm Chương 8: Phát triển trồng lúa nước thời đại Kim Khí). Diện tích báo cáo có lẽ sớm nhứt vào thời vua Minh Mạng khi công tác đo đạc điền thổ cả nước được hoàn tất, với 4 063 892 mẫu (1 105 200 ha) ruộng và đất năm 1836 (Trần Trọng Kim, 1990). Trong số đó ít nhứt 60% là ruộng lúa hay 663 120 ha. Sau đó, diện tích trồng lúa cả nước tiếp tục bành trướng mạnh trong thời Pháp thuộc và Độc Lập, từ 815 000 ha trong 1868 lên hơn 7,7 triệu ha trong 2017 (Bảng 9). 

Bảng 9: Diện tích trồng lúa từ Thế kỷ I đến 2017

     ________________________________________          

 

Thế kỷ I sau CN          <216.000 ha*

1836                            >663.120 ha*

1868                            > 815.000 ha*

1912                            2.300.000 ha*

1927                            4.373.000 ha**

1930                            4.698.000 ha**

1944                            4.862.000 ha**

1961                            4.744.000 ha***

1980                            5.600.000 ha

1990                            6.042.800 ha

2000                            7.666.300 ha

2010                            7.489.400 ha

2017                            7.700.000 ha*

     _________________________________________

Chú ý: * Phỏng đoán (Tham chiếu Chương 8: Phát triển trồng lúa nước trong thời đại Kim Khí).

** Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International yearbook of Agricultural statistics), 1.927-1.941

*** FSTAT 2017

- Tổng cục thống kê, 2017

7.2.      Năng suất lúa

Năng suất tăng lên chậm chạp lúc ban đầu cho đến thời Bắc thuộc và Độc Lập, từ độ 540 kg lúa/ha vào thời đại Hùng Vương lên 1t/ha cuối thời Bắc thuộc, 1,2t/ha trong thời Độc Lập phong kiến, 1,4 - 2t/ha trong thời Pháp thuộc, 3,2t/ha năm 1990 và 5,6t/ha năm 2017 (Bảng 10). Sự tăng năng suất từ thời Pháp thuộc phần lớn do cải tiến di truyền giống, công tác thủy lợi tốt hơn, dùng nhiều phân hữu cơ, ít phân hóa học, chăm sóc mùa màng và chính sách nhà nước. Thời kỳ tăng trưởng nhanh nhứt cho cả diện tích và năng suất chỉ xảy ra trong cuộc CMX và thời Đổi Mới kinh tế (Xem thêm Phụ bản 4: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam, 1961-2017). 

Bảng 10: Năng suất lúa Việt Nam từ khoảng thế kỷ I trước/sau CN đến năm 2017 

Năm

Năng suất t/ha

 

Yếu tố chính làm tăng năng suất

Thế kỷ I trước/sau CN

0,54*

 

- Giống lúa thuần hơn

- Làm đất tốt hơn

Bắc thuộc đến 938 sau CN

1,0**

- Lưỡi cày sắt

- Giống thuần hơn

- Thủy lợi tốt hơn

- Canh tác và chăm sóc tốt hơn, dùng phân hữu cơ

1900

1,20

1927

1,22

- Giống lúa cải thiện

- Sử dụng nhiều phân lân, hữu cơ và ít đạm
- Canh tác và chăm sóc tốt hơn

1955

1,43

1970

2,10

1990

3,20

- Giống lúa cao năng hiện đại, nửa-lùn

- Phát triển thủy lợi

- Sử dụng nhiều phân hóa học, nhứt là đạm

2009

2017

5,20

5,60

Chú ý: * Uớc lượng (xem thêm Chương 8:Thời đại Kim Khí-Phát triển trồng lúa nước),

** Theo năng suất lúa Trung Quốc (thời Bắc thuộc) 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Barron, A., Michael TurnerLevi BeechingPeter BellwoodPhilip PiperElle GronoRebecca Jones, Marc OxenhamNguyen Khanh Trung KienTim Senden, and Tim Denham. 2017. MicroCT reveals domesticated rice (Oryza sativa) within pottery sherds from early Neolithic sites (4150–3265 cal BP) in Southeast Asia

(https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5547045/).

2.      Bùi Bá Bổng. 2000. Genetic improvement of rice varieties for the Mekong Delta of Vietnam: current status and future approaches. In Proceedings of Rice Research and Development in Vietnam for the 21st Century - aspects of Vietnam - India, Cần Thơ, Việt Nam, 18-19 September 2000, p 123-149.

3.      Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.

4.      Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.

5.      Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, pp 463.

6.      Carle, E. 1927. Amélioration des riz de Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, 11 pp.

7.      Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.

8.      Cima, R.J. 1987. Vietnam: A country study. Federal Research Division, Library of Congress, USA.

9.      Brenier, M.H. 1917. Produits Alimentaires avec des notes, graphiques et cartes. Catalogue des produits de l’Indochine par Ch. Crevost et Ch. Lemarié, Tome I.

10.  De Datta, S.K. 1981. Principles and practices of rice production. IRRI, Philippines, pp 618.

11.  Dumont, R. 1995. La culture du riz dans le delta du Tonkin. Printimg House in Bangkok, Thailand, pp 592.

12.  Dương Văn Chín. 2014. Lúa vụ 3 ở ĐBSCL: Sản xuất lúa tăng vụ. Nông nghiệp Việt Nam online (https://nongnghiep.vn/lua-vu-3-o-dbscl-san-xuat-lua-tang-vu-post130102.html).

13.  Đào Duy Anh. 1938. Việt Nam văn hóa sử cương. NXB Xuân Thu, Texas (tái bản 1976), 345 tr.

14.  Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.

15.  Đoàn Minh Tin.2015. BáocáoNgànhPhânbón:

(FptSecurities).

16.  FAO. 1952. World Catalogue of Genetic Stocks - Rice. Supplement No. 2, March 1952, FAO, Rome, pp 19.

17.  FAO/UNEP. 1984. The Plant Production and Protection Division (AGP), FAO, Rome, Italy.

18.  FAO, 2000, 2010. FAOSTAT, Rome, Italy.

19.  Hansen, V.E, Israelsen, O.W. and Stringham, G.E. 1980. Irrigation principles and practices. John Wiley & sons, New York, pp 417.

20.  Hwart, P. and Durant, M. 1954. Connaissance du Vietnam. Imperie nationale, École francaise d’extrême-orient, Hanoi, 1954.

21.  Ho, P.T. 1969. Early-ripening rice in Chinese history. Economic History Review, The University of British Columbia, IX:200-218.

22.  Huỳnh Lứa, Lê Quang Minh, Lê Văn Năm, Nguyễn Nghị và Đổ Hữu Nghiêm. 1987. Lịch sử khai phá đất Nam Bộ. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 275 tr.

23.  Huỳnh Minh. 2000. Định Tường xưa và nay. NXB Xuân Thu, Los Alamitos, Cali, 279 tr.

24.  Huỳnh Văn Lang. 2005. Công Chúa Ngọc Vạn. Tập san nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai – Cửu Long, số 2, Tả Quân Lê Văn Duyệt Foundation ấn hành, trang 50-74.

25.  Kenmore, P. and Brader, L. 1990. IPM. Paper presented at the 17th session of the IRC, Goiania, Goias, Brazil, 4-9 Feb. 1990. AGP, FAO, Rome, Italy.

26.  Lejeune, A., Peng, J., Le Boulenge, E., Larondelle, Y. and Van Hove, C. 2000. Carotene content of Azolla and its variariations during drying and storage treatments. Annual Feed Science and Technology, Elsevier Science B.V., 84: 195-301.

27.  Lê Quí Đôn. 2003. Vân Đài Loại Ngữ do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải. NXB Nhà sách Tự Lực, Nam Cali, 539 tr.

28.  Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.

29.  Maspéro, H. 1918. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.

30.  Nguyễn Minh Quang. 2000. Lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long ngày xưa và ngày nay. Tạp Chí Đi Tới, số 25, Montreal, Canada, tr 18-25.

31.  Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.

32.  Phạm Cao Dương. 1967. Thực trạng của giới nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. NXB Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 255 tr.

33.  Phan Hiếu Hiền. 2010. Cơ giới hóa canh tác và công nghệ sau thu hoạch ở Việt Nam. Phát Triển Nông Nghiệp Việt Nam Trong Thế Kỷ 21, Trường Đại Học Nông Lâm TP/HCM, Sài Gòn.

34.  Phạm Huy Chú. 1821. Phủ Gia Định. Lich Trình Hiến Chương loại chí, dịch bởi Nguyễn Quang Trọng (1970), (Tập I), Quyển Thủ, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa xuất bản trong 1972, tr 367-368.

35.  Phạm Văn Sơn. 1960.Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.

36.  Phước Minh Hiệp. 2012. Cơ giới hóanông nghiệp thúcđẩy phát triển hiệuquả và bềnvữngnông nghiệp vùngđồngbằngsôngCửu Long.

37.  RICEINFO. 2000. FAO Rice Information, FAO, Rome,

38.  Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tongking) delta of Vietnam. In History of Asian Rice, Shogakukan, Tokyo, 235-276.

39.  Scherer, T. 1993. Irrigation water pump. Online April 1993, North Dakota State University, US

40.  Sơn Nam. 2000. Lịch sử khẩn hoang Miền Nam. NXB Xuân Thu, Los Alamitos, California, 330 trang.

41.  Tạ Chí Đại Trường. 1996. Những bài dã sử Việt. NXB Thành Văn, California, Hoa Ky, 431 tr.

42.  Trần Đức Cường, Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đức Nhuệ và Lê Trung Dũng. 2015. Lịch sử hình thành và phát triển Vùng Đất Nam Bộ (từ thời khởi thủy đến 1945). NXB Khoa Học Xã Hội, 695 trang.

43.  Trần Gia Phụng. 2000. Quảng Nam trong lịch sử. NXB Non Nước, Toronto, Canada, 294 tr.

44.  Trần Trọng Kim. 1990. Việt Nam sử lược, Quyển I & II. NXB Đại Nam.

45.  Trần Văn Đạt. 2001. Những tiến bộ trong ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam và sự cần thiết phải chuyển đổi cơ cấu trong thời gian tới. Cây Lúa Việt Nam Thế Kỷ 20, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 29-84.

46.  Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình sản xuất lúa gạo tại Việt Nam: từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, p 36-37.

47.  Trần Văn Hữu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, pp 31.

48.  Trịnh Hoài Đức. 2005. Gia Định Thành Thông Chí. NXB Tổng Hợp Đồng Nai, 358 tr.

49.  Trung Tâm Nghiên Cứu Azolla. 1985. Propagation and agricultural use of Azolla in Viet Nam. In Proceedings of the 16th session of the IRC, Los Banos, Philippines, 10-14 June 1985, FAO, Rome, p 257-263.

50.  Van Hove, C. 1989. Azolla and its multiple uses with emphasis on Africa. FAO, Rome, pp 53

51.  Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo Cổ Học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.

52.  Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long. 2010. Kết quả nghiên cứu.

53.  Viện Quy hoạch thủy lợi. 2015. Hiện trạng hệ thống thủy lợi của Việt nam.

54.  World Bank. 1998. Advancing rural development in Viet Nam: A vision and strategy for action. Report, World Bank, Washington D.C., pp 70.

55.  Yasuyuki, K. 2001. Canal development and intensification of rice cultivation in Mekong Delta: A case study in Can Tho province, Vietnam. Southeast Asian Studies: 39-201.

 

CHƯƠNG 15

TIẾN HÓA KỸ THUẬT

SẢN XUẤT LÚA

 Từ thời đại Hùng Vương đến thời kỳ Độc Lập phong kiến, ngành trồng lúa nước đã vươn lên và vượt hẳn lúa rẫy, từ hệ du canh đạt đến hình thức sản xuất cố định với loại màu kinh tế cao và sử dụng các kỹ thuật cổ truyền để phục vụ hữu hiệu cho đất nước đang lớn mạnh, với dân số ngày càng đông hơn.

Trong hơn nửa thế kỷ qua, tiếp theo giai đoạn du nhập các kiến thức khoa học và kỹ thuật từ phương Tây trong thời Pháp thuộc, Việt Nam đón nhận thêm những tiến bộ mới, chủ yếu công nghệ sinh học và công nghệ tin học được áp dụng trong nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng, với mục đích cải tiến hiệu năng quản lý sản xuất, năng suất, lợi tức nông dân và bảo vệ môi trường. Cũng trong thời gian này, một số kỹ thuật canh tác lúa tiên tiến xuất hiện trong nước và thế giới, đáng kể hơn hết nông nghiệp chính xác (Precision agriculture), kiểm tra lúa (Rice checks), thu hẹp khoảng cách năng suất (Yield gap closing), sản xuất lúa lai, công nghệ sinh học lúa, và phương pháp bảo vệ tổng hợp IPM (Xem thêm Chương 14: Tiến hóa quy trình sản xuất lúa). 

1.   NÔNG NGHIỆP CHÍNH XÁC

Từ khi lập quốc đến thời Độc Lập phong kiến, ngành canh tác lúa theo lề lối cổ truyền, dựa vào kinh nghiệm lâu đời và tùy thuộc vào sức lao động và thiên nhiên; nghĩa là trồng lúa không chính xác lắm. Chỉ đến thời thực dân Pháp, các ý niệm khoa học, kỹ thuật được áp dụng trong ngành nông nghiệp, như tuyển chọn giống lúa, dùng phân hóa học, bảo vệ mùa màng với hóa chất, tưới tiêu, thu hoạch, biến chế và tồn trữ; giúp nông dân cải tiến phần nào năng suất và chất lượng lúa. Khi cuộc Cách Mạng Xanh bùng phát, các nhà nghiên cứu và chuyên viên khuyến nông đưa ra các khuyến cáo cứng ngắt để nông dân thực hành trong quy trình sản xuất, với mục tiêu làm tăng năng suất. Năm 2017, năng suất bình quân cây lúa Việt Nam đạt đến 5,6 t/ha, chỉ bằng phân nửa năng suất tiềm thế cây lúa hiện đại (khoảng 11t/ha). Khoảng cách năng suất này sẽ được đề cập chi tiết hơn trong mục 3 sắp tới.

Hơn 3 thập niên qua, khái niệm canh tác chính xác đã được thế giới nghiên cứu và áp dụng, đặc biệt quan tâm đến thu hẹp khoảng cách năng suất nêu trên và bảo vệ môi trường. Trong thập niên 1990, kỹ thuật nông nghiệp chính xác phát triển mạnh mẽ tại các nước tiến bộ song song với đà phát triển công nghệ thông tin và cơ giới hóa nông nghiệp. Sự tiến bộ nhanh trong hai lãnh vực này đã mở đường cho thay đổi sâu sắc bộ mặt của nhiều lãnh vực trên thế giới, gồm cả nền nông nghiệp lúa. Các phương tiện thông tin hiện đại đã được các nước tiên tiến sử dụng triệt để trong quản lý sản xuất vụ mùa và hướng dẫn lấy quyết định trong các vấn đề liên quan đến nông nghiệp. Khuynh hướng đó phản ánh quan niệm nông nghiệp chính xác vi tính, một nền nông nghiệp mới của thế kỷ 21. Với ưu thế về tiến bộ cơ giới trong hơn thế kỷ qua, các nước công nghiệp đã bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp chính xác - dù mức độ chính xác còn thấp - trong nhiều thập niên cho đến kỷ nguyên tin học xuất hiện. Trong khi đó, các nước đang phát triển chưa quan tâm nhiều lắm đến loại nông nghiệp này ở cấp bực quốc gia, vì họ thiếu khả năng tài chánh, kiến thức, tầm nhìn xa, nên còn đang miệt mài làm việc với lề lối sản xuất bộc phát từ nhân dân, thiếu hướng dẫn khoa học và công nghệ hiện đại.

Hiện nay, các nước tiến bộ đang đối diện với các khó khăn kinh tế thế giới, chủ yếu giá nông sản liên tục sút giảm hoặc ngưng đọng, trong khi giá thành sản xuất tăng cao. Hơn nữa, từ lâu nền nông nghiệp của các quốc gia tiến bộ đã thụ hưởng chính sách bao cấp vĩ đại nhà nước, từ sản xuất đến xuất khẩu để tiếp tục hoạt động và tồn tại. Nay dưới sức ép thời đại toàn cầu hóa và thỏa hiệp WTO, sức cạnh tranh thị trường quốc tế trở nên mãnh liệt, cộng thêm các áp lực cắt giảm tài trợ cho nông nghiệp. Trong khung cảnh đó, họ phải tìm lối thoát cho nền nông nghiệp của mình; mà nền nông nghiệp chính xác là một giải pháp thỏa đáng để vừa cải tiến hiệu năng sản xuất vừa giảm thiểu ảnh hưởng môi trường. Nhiều dự án và chương trình về nông-nghiệp-chính-xác đã xuất hiện từ thập niên 1990 ở các cơ quan nghiên cứu, trường Đai Học của các nước Âu, Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Brazil, Argentina, Nhựt Bổn... Ngay cả cơ quan NASA (National Aeronautics and Space Administration) của nước Mỹ cũng tham gia vào lãnh vực này; điều đó nói lên tầm quan trọng của nền nông nghiệp chính xác trong tương lai.

Tại các nước đang phát triển, phần lớn không có chương trình nông nghiệp chính xác riêng rẽ, nhưng có một số hoạt động kỹ thuật ít nhiều hướng về canh tác chính xác, nhứt là khâu làm đất, canh tác, tưới tiêu và thu hoạch. Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu các kỹ thuật hiện đại trong hệ thống sản xuất và trình độ, khả năng thấp kém của cán bộ và nông dân. Hơn nữa, nền nông nghiệp hiện tại còn dùng quá nhiều sức lao động, nên hiệu năng kém, chưa được chính phủ quan tâm đúng mức khi họ còn nhiều khó khăn để tạo việc làm ở nông thôn. Tuy nhiên, nông dân được ngành khuyến nông hướng dẫn các kỹ thuật tiến bộ để cải thiện năng suất và lợi tức gia đình, qua các “kỹ thuật chính xác” của nước nghèo từ khâu làm đất đến thu hoạch. Rõ ràng trong thực tế, khái niệm nông nghiệp chính xác đã được tiếp nhận và thực hiện với mức độ khác nhau bởi các nước phát triển và đang phát triển, nhưng cùng nhằm một mục đích. Vì vậy, ở các nước sau này cần có nhiều nỗ lực nghiên cứu và khuyến nông về nông nghiệp chính xác trong điều kiện kinh tế và xã hội hiện hữu mỗi nước, đặc biệt kỹ thuật chuyên biệt địa phương ở cấp vùng và sử dụng công nghệ tin học, để thích ứng với trào lưu toàn cầu hóa và vi tính hóa của thế giới trong những thập niên tới. 

1.1.   Khái niệm Nông Nghiệp Chính Xác (NNCX)

Canh tác chính xác là một hệ thống quản lý căn cứ trên công nghệ thông tin tiến bộ để giúp nông dân nhận diện, phân tích và quản lý các biến đổi, dị biệt của đất đai và thời gian trên đồng ruộng; trong khi họ không quên vấn đề lợi tức, sự bền vững nông nghiệp và bảo vệ môi trường. Trọng điểm của nông nghiệp chính xác là giúp nông dân áp dụng kỹ thuật thích ứng cho canh tác trên mảnh đất nhỏ trong cánh đồng rộng lớn. Đó là quản lý từng địa điểm cá biệt. Phương pháp quản lý này không phải là một kỹ thuật riêng rẽ, nhưng là kỹ thuật tổng hợp cho phép (i) thu thập thông tin đúng địa điểm và đúng lúc (ii) phân tích, giải đáp các thông tin này để hỗ trợ cho quản lý điều hành, và (iii) thực hiện các biện pháp quản lý đáp ứng nhu cầu thời gian và địa điểm (trong Batte và Vanburen, 1999). 

1.2. Thực hiện NNCX ở các nước tiến bộ 

(1) Quản lý hệ thống nông nghiệp chính xác

Ở Mỹ, kế hoạch quản lý NNCX điển hình với các bước thực hành sau đây (NESPAL, 2005) qua giúp đỡ của các thiết bị:

(1)   Xác định những vùng áp dụng cho canh tác chính xác;

(2)   Thiết lập các mục tiêu về năng suất;

(3)   Phân tích dinh dưỡng đất đai và khai triển các kết quả;

(4)   Lấy quyết định về phương pháp và lề lối làm đất, dùng giống, áp dụng phân và những chất dinh dưỡng khác đáp ứng mục tiêu năng suất đã đặt ra (INM: Integrated Nutrition Management);

(5)   Thiết lập những bản đồ để khám phá quần thể các dịch hại: côn trùng, bệnh và cỏ dại. Áp dụng phương pháp chữa trị khi vượt quá ngưỡng kinh tế (IPM: Integrated pest management);

(6)   Áp dụng tưới tiêu chính xác;

(7)   Theo dõi và lập bản đồ năng suất; và

(8)   Đánh giá việc thực hiện hệ thống canh tác chính xác và rút ưu khuyết điểm để có biện pháp điều chỉnh, sửa đổi tốt hơn trong vụ kế tiếp. 

(2) Dụng cụ và thiết bị cho NNCX

Để thực hiện các bước canh tác chính xác nêu trên, nông dân phải dùng các máy móc, dụng cụ và thiết bị đã được vi tính hóa, cài đặt với các bộ phận thông tin phần mềm, với giúp đỡ của các hệ thống vệ tinh hướng dẫn làm việc ngoài đồng. Một cách tổng quan, NNCX thực hiện các hoạt động canh tác theo biến đổi tính chất đất đai và hoa màu qua phối hợp chủ yếu của 5 hệ thống hướng dẫn kỹ thuật quan trọng:

·         Hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global positioning system): GPS là một hệ thống hoa tiêu hướng dẫn nhờ vào mạng lưới vệ tinh để giúp nông dân ghi nhận thông tin về vị trí nơi đang hoạt động (vĩ tuyến, kinh tuyến và cao độ), với mức độ chính xác chỉ vài phân (Lang, 1992). Hệ thống này cho phép họ định vị trí tính chất đất đai, màu, sự xuất hiện sâu bệnh, cỏ dại, những vũng nước,…Hệ thống này gồm có hệ thống điều khiển tự động và bộ phận chỉ dẫn bằng ánh sáng hoặc tiếng nói (DGPS), nhận thông tin từ vệ tinh qua ăng-ten (Hình 1). Cũng giống như nhiều nước trên thế giới đang dùng hệ GPS để hướng dẫn tài xế lái xe tìm địa chỉ mà mình cần đến, qua hệ thống vệ tinh (xe auto có gắn bộ phận navigator hay hoa tiêu). Hệ GPS cũng giúp nông dân điều khiển máy kéo và các thiết bị làm việc chính xác tại các nông trại, như gieo hạt theo hàng, áp dụng phân, phun các chất hóa học nông nghiệp trong từng mảnh ruộng nhỏ. GPS hướng dẫn họ qua vệ tinh để thực hiện các hoạt động thật chính xác sau đây (Perry, 2005):

(i) Hướng dẫn máy móc làm việc hàng trăm thước, với mức độ chính xác chỉ vài phân

(ii) Không bỏ quên các hàng (rows) hoặc chồng lên nhau;

(iii) Đếm số hàng trong khi hoạt động;

(iv) Giữ dụng cụ và các thiết bị làm việc giống như nhau từ năm này qua năm khác;

(v) Làm việc trong đêm hoặc đầy bụi mà vẫn chính xác;

(vi) Không bị ảnh hưởng của sức gió;

(vii) Có thể gắn thêm các bộ phận ghi nhớ thông tin trong khi làm việc để sau này lập bản đồ;  

              Ăng-ten                                 Bộ phận hướng dẫn


              Máy nhận  DGPS     Máy ghi nhớ dữ kiện/vi tính

 

Hình 1: Hệ thống định vị toàn cầu GPS

 

·         Công nghệ viễn thám RS (Remote sensing): Kỹ thuật này dùng các bộ phận dễ cảm ứng do điện trường, dẫn điện, quang điện, siêu âm... với bất cứ vật gì, gồm cả đất, ẩm độ đất, thảo mộc, nhiệt độ, hơi nước, chất khí... Trong nhiều năm qua, các thông tin của công nghệ cảm ứng đã được dùng đến để phân biệt các loại màu và xác định các dịch hại xảy ra trong những cánh đồng rộng lớn. Hiện nay, kỹ thuật viễn thám đã được áp dụng để khám phá các sâu bệnh, hạn hán, chất hữu cơ trong đất, chất đạm trong cây... Các dụng cụ cảm ứng đã được chế tạo cho các sử dụng chính sau đây (Barnes et al. 1996):

-          Cảm ứng các đặc tính của đất: kiến trúc, cấu trúc và tính chất vật lý; chất sét, ẩm độ đất, các chất dinh dưỡng trong đất.

-          Cảm ứng màu: quần thể thảo mộc, thiếu nước và tình trạng dinh dưỡng của cây.

-          Theo dõi năng suất: Năng suất màu, ẩm độ của vụ.

-          Hệ thống biến đổi mức độ: Theo dõi di chuyển của phân hóa học, khám phá cỏ dại.

·         Hệ thống thông tin địa lý GIS (Geographic information system): GIS đã bắt đầu từ 1960 khi người ta khám phá ra những bản đồ có thể chứa trong máy vi tính, cho phép sửa đổi lại trong tương lai, nếu cần. Hệ thống này gồm một dụng cụ vi tính dùng để làm bản đồ và phân tích sự việc đang có hoặc biến cố xảy ra trên địa cầu. GIS có khả năng liên kết thông tin với một nơi khác để đi đến kết luận về sự liên hệ với nơi này. 

Bản đồ GIS của máy vi tính khác với bản đồ thông thường, vì một GIS có thể chứa nhiều tầng thông tin khác nhau; thí dụ thông tin về đất đai của một nơi, vũ lượng, hoa màu, năng suất, dịch hại... GIS có thể chuyển đổi các thông tin bằng số (digital) chưa thành bản đồ thành hình thức có thể nhận ra và sử dụng. Chẳng hạn, những hình ảnh vệ tinh bằng số có thể được phân tích để làm ra một bản đồ thông tin bằng số về sử dụng đất đai, vật phủ trên mặt đất. Căn bản, GIS được sử dụng như máy vi tính làm bản đồ, nhưng vai trò thực sự là nơi chứa tất cả các thông tin, dữ kiện đồng áng và dùng các phương pháp thống kê và không gian để phân tích các đặc tính và địa lý. Kết quả của sự phân tích này được dùng để suy diễn các thông tin khác hoặc xếp loại các thông tin này (ESRI, 2002). GIS có thể cung cấp các thông tin về trắc đồ nông trại, các loại đất đai, hệ thống dẫn thoát thủy trên mặt đất và trong đất, thử nghiệm đất đai, các số lượng chất nông hóa và năng suất. Khi các thông tin này được thu thập sẽ được phân tích để tìm hiểu sự liên hệ giữa các thành phần khác nhau có thể làm ảnh hưởng đến vụ mùa tại một địa điểm (Trimble, 2005).

Hệ thống GIS gồm có: (i) phần cứng dùng để phục vụ cho các hoạt động GIS, từ thu thập tin liệu cho đến phân tích; (ii) phần mềm rất cần thiết để sáng tạo, biên soạn và phân tích các tin liệu không gian và tính chất; và (iii) các tin liệu địa dư là cốt lõi của GIS.

·         Công nghệ biến đổi mức độ VRT (Variable rate technologies): VRT là công nghệ điều khiển quá trình hoạt động ngoài đồng áng và có tính cách tự động. Hệ thống tự thiết lập phân phối khi gieo sạ hạt giống, phân hóa học và thuốc sát trùng theo mức độ biến đổi của đất đai, hoa màu và trong thời gian nào đó. Hệ thống này gồm có một bộ máy với các hệ thống cho phép vận dụng với các mức độ mong muốn tại một thời điểm, có nghĩa là một vị trí đặc biệt (Batte and VanBurrn, 1999 và NESPAL, 2005). Có lẽ thiết bị VRT được sử dụng phổ biến nhứt trong nông nghiệp chính xác hiện nay (National Research Council, 1997).

·         Máy theo dõi năng suất để lập bản đồ: Thường các máy gặt-đập combine được gắn thêm thiết bị ghi nhận số lượng màu thu hoạch ở bộ phận chuyển hạt. Khi được gắn thêm máy thu nhận GPS, máy theo dõi năng suất cung cấp các dữ kiện cần thiết để lập một bản đồ năng suất giúp nông dân quản lý tốt hơn các nhập lượng trợ nông sau này, như phân hóa học, vôi, hạt giống, thuốc sát trùng, diệt cỏ, và thủy lợi (Davis and Massey, 2005).

Tóm lại, NNCX hay còn gọi là canh tác từng địa điểm cá biệt có thể được thực hiện ở các nước tiến bộ là do sử dụng công nghệ GPS để định vị trí trong thửa ruộng nhỏ, máy vi tính sẽ tổng hợp các thông tin từ bản đồ GIS và từ máy thu nhận GPS để cuối cùng gởi đến máy điều khiển VRT thực hiện các hoạt động canh tác theo biến đổi từng nơi và theo thời gian. Các kỹ thuật nói trên đã sẳn sàng trên thị trường, hiện chỉ có các nước tiến bộ giàu dùng đến vì giá cả tương đối cao.

Cho nên, các nước còn chậm tiến có thể áp dụng kỹ thuật canh tác chính xác, với các phương tiện và kiến thức sẵn có của nông dân. Kỹ thuật canh tác chính xác này là một phương tiện quản trị tổng hợp, giúp họ áp dụng các vật tư nông nghiệp đúng lúc và đúng số lượng. Chẳng hạn, chỉ áp dụng phân hóa học chính xác cũng là một tiến bộ lớn để có năng suất cao, vì phần lớn nông dân chưa hiểu thấu đáo nhu cầu dinh dưỡng của mỗi loại, giống lúa trong mỗi thời kỳ sinh trưởng khác nhau của thửa ruộng. Nếu họ không áp dụng phân hóa học đúng lúc và đúng số lượng ở các thời kỳ sinh trưởng quan trọng (đâm chồi, tượng gié và trổ bông), họ có thể phí phạm công lao và tiền bạc. Quan sát và thí nghiệm cho biết rằng thời kỳ tượng gié của cây lúa rất quan trọng vì thời kỳ này quyết định một số thành phần năng suất cây lúa (chiều dài gié lúa, số hạt lúa). Nếu áp dụng phân đạm đón đòng quá sớm hoặc quá muộn làm giảm bớt hiệu năng của phân, ảnh hưởng đến thành lập gié và hạt lúa, nghĩa là năng suất. Cũng nên biết mỗi loại lúa có thời kỳ tượng gié khác nhau.

Hiện nay, phương pháp Kiểm tra lúa là một mô hình hữu hiệu giúp nông dân các nước đang phát triển thực hiện canh tác lúa tương đối chính xác hơn. 

2.   KIỂM TRA LÚA (Rice Checks)

Về mặt khuyến nông, các khuyến cáo về canh tác cải tiến chưa đủ giúp nông dân đạt đến năng suất tối đa, vì quản lý vụ mùa chưa đạt đến mức độ chính xác cao khi áp dụng. Các khuyến cáo này cần phải có thêm những chỉ tiêu rõ rệt và thực tế để giúp nông dân đối chiếu, làm việc có hiệu quả hơn. Thí dụ, gieo hạt giống thế nào, áp dụng phân làm sao để sau này có được ít nhứt 200 gié lúa cho mỗi m2, với mục tiêu đạt tới năng suất 8 t/ha cho hệ sản xuất lúa tưới tiêu? Các chỉ tiêu này phải là kết quả của các cuộc nghiên cứu và thực hành, được đề xuất do hợp tác giữa các chuyên gia, khuyến nông và nông dân. Đây chính là khái niệm về Kiểm Tra Lúa - Rice Checks- đã được các chuyên gia Úc sáng chế và áp dụng cho sản xuất lúa và các hoa màu khác. Nhờ hệ thống kiểm tra lúa này, năng suất bình quân lúa của Úc đã được cải tiến liên tục từ 6 t/ha trong 1980 lên 9 t/ha trong 2003. 

Hệ thống kiểm tra lúa cải tiến của Úc gồm có 9 chìa khóa kiểm tra hay khuyến cáo (Lacy et al., 2001 và Redona et al., 2004):

1)      Chất luợng hạt giống: dùng hạt giống có chất lượng cao và ròng của giống cao năng tốt nhứt thích hợp với nông trại của nông dân.

2)      Làm đất: làm đất để dẫn thủy cần chú ý đến loại đất, vị trí, độ dốc, nhằm làm dễ dàng cho các hoạt động khác sau này, như gieo hạt, cấy, bón phân, làm cỏ, tưới tiêu, v.v.

3)      Thời gian gieo hạt: chọn ngày gieo mạ (hoặc cấy) thích nghi cho từng giống trong vùng. Thời gian tượng gié là chỉ tiêu đầu ra.

4)      Quần thể cây lúa: đồng nhứt và số cây lúa mỗi m2 mong muốn là chỉ tiêu đầu ra (xem thí dụ nêu trên). Các kỹ thuật cày bừa, gieo hạt, mật độ hạt giống và phân bón là những đầu vào ảnh hưởng đến chìa khóa kiểm tra này.

5)      Bảo vệ mùa màng: Kiểm soát cỏ dại, sâu bệnh theo IPM để tránh thiệt hại kinh tế. Chú ý đến các chất dư thừa của các thuốc sát trùng trong nước thoát.

6)      Chất dinh dưỡng: Phân đạm dùng để đạt chỉ tiêu về số chồi/m2 và thời kỳ tượng gié. Theo dõi nhu cầu phân N để bón phân thêm đúng lúc (máy đo N trên lá lúa hoặc bảng màu của IRRI). Thử nghiệm đất để định số lượng phân lân.

7)      Quản lý thủy lợi: Giữ đúng mực nước cho từng thời kỳ phát triển của cây lúa cũng như bảo đảm quần thể cây lúa trên m2, kiểm soát cỏ dại và bảo vệ nhiệt độ thấp vào mùa lạnh.

8)      Thu hoạch lúa: ẩm độ hạt lúa ảnh hưởng đến chất lượng gạo sau khi xay chà, phải bảo đảm bách phân hạt gạo nguyên và năng suất xay chà cao.

9)      Hậu thu hoạch: Đập, quạt sạch, phơi sấy ngay sau khi gặt, trước khi chứa trong bao hoặc kho vựa sạch sẽ.

 

Mỗi nước cũng như mỗi vùng sinh thái cần có một số khuyến cáo hay chìa khóa kiểm tra khác nhau. Tất cả 9 chìa khóa chính nêu trên và các khuyến cáo chi tiết liên hệ khác đều có các chỉ tiêu tương ứng để đạt tới và có thể cải tiến sau mỗi vụ mùa.

Ở Việt Nam, Viện Nghiên Cứu Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long đã đưa ra một mô hình thâm canh gồm 5 khuyến cáo chính (Phạm Sỹ Tân et al., 2005):

 

1) Chọn những giống lúa mới có năng suất cao, kháng sâu bệnh, chất lượng đạt yêu cầu xuất khẩu;

2) Gieo thẳng hàng bằng máy gieo cải tiến của IRRI;

3) Áp dụng phân hóa học cân đối với đất và theo nhu cầu cây lúa, bằng các kỹ thuật đánh giá nhanh khả năng cung cấp chất dinh dưỡng của đất và máy đo diệp lục tố hoặc bảng màu;

4) Áp dụng IPM cho mô hình thâm canh tổng hợp và sản xuất lúa hàng hóa; và

5) Thu hoạch đúng ngày để đảm bảo chất lượng tốt và giảm thất thoát sau khi gặt.

Đây là một mô hình thâm canh hướng về canh tác chính xác. Mô hình thâm canh này đã giúp nhiều nông dân tăng lợi tức, đồng thời làm giảm bớt giá thành bằng cách sử dụng số lượng hạt giống, phân bón và thuốc sát trùng ít hơn với khẩu hiệu “3 Giảm 3 Tăng”, so với lề lối truyền thống. Nhưng năng suất chỉ tăng lên 1,7 t/ha vì chỉ chú trọng vào 3 lãnh vực khuyến cáo. Mô hình thâm canh này sẽ hữu hiệu hơn, nếu các khuyến cáo chính và phụ được thêm vào với các chỉ tiêu thực tế, gồm cả làm đất, thành lập quần thể, quản lý nước, năng suất cho vụ mưa hoặc nắng để nông dân cố gắng đạt tới. Gần đây, còn có “1 Phải 5 Giảm”, trong đó có “Giảm nước” và phải dùng hạt giống xác nhận. Sau mỗi vụ mùa, các tổ nông dân và nhân viên khuyến nông cần gặp nhau để cùng thảo luận, duyệt xét các lề lối canh tác vừa qua và kết quả thu hoạch, so với các chỉ tiêu đã đặt ra để rút ưu khuyết điểm cho vụ mùa tới.

 

3.   THU HẸP KHOẢNG CÁCH NĂNG SUẤT LÚA

Áp dụng kỹ thuật kiểm tra lúa nêu trên có thể giúp nông dân làm tăng năng suất lúa bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa năng suất của nông dân hiện có và của trung tâm nghiên cứu; do đó cải tiến hiệu năng sức lao động và đất đai, đồng thời làm hạ giá thành sản xuất của lúa (Trần Văn Đạt, 2001). Trước thời kỳ Pháp thuộc, nông dân không biết được tiềm năng của các giống lúa mình trồng đến đâu. Họ chỉ biết khi trúng mùa được nhiều lúa, khi thất mùa có ít lúa. Họ dùng kinh nghiệm và sức lao động để thu hẹp khoảng cách này. Sau thời kỳ đó, với tinh thần khoa học, các chuyên gia nghiên cứu và khuyến cáo các phương pháp tăng năng suất; nhưng nông dân lúc đó còn nhiều e ngại trước các kỹ thuật tân tiến như phân hóa học và thuốc sát trùng chẳng hạn. Đến Cách Mạng Xanh, khoảng cách năng suất của các giống lúa cao năng càng lớn hơn, độ 6-7t/ha (từ năng suất bình quân 4t/ha đến năng suất tiềm thế 11t/ha). 

       
   
 
 

 

 


Khoảng cách “I”  (Dành cho chuyên gia tạo giống cao năng)        

 

 

 

           
   
 
   
 
 

 

 


         Khoảng cách “II” (Nông dân khó có thể thu hẹp)

                   SINH HỌC    

giống

cỏ dại

sâu bệnh

đất có vấn đề

nước

phì nhiêu đất

 

                                                                    Khoảng cách “III”:        XÃ HỘI-KINH TẾ

giá cả

tín dụng

tập quán

hiểu biết

đầu vào

tổ chức

 

 

 

 

 

 

 

 

     Năng suất  N/s tiềm   N/s tiềm    N/s ruộng

lý thuyết   thế của   thế ruộng    hiện nay

                 trại thí nghiệm

Hình 2: Các loại khoảng cách năng suất (N/s)

 

Có 3 loại khoảng cách năng suất như sau (Hình 2):

  • Khoảng cách “I”: Khoảng cách giữa năng suất tối đa lý thuyết và năng suất tiềm năng. Trong hơn 15 năm qua, các chuyên gia lúa gạo đang cố gắng tạo giống lúa có hình thể mới như siêu lúa (super rice) để nâng năng suất tiềm thế hiện nay từ 10-11 t/ha lên 13 t/ha trong vùng nhiệt đới, 15 t/ha trong vùng ôn đới.

·         Khoảng cách “II”: Khoảng cách giữa năng suất tiềm thế của trại thí nghiệm và năng suất tiềm thế của ruộng. Lúc trước người ta cho rằng nông dân khó có thể thu hẹp khoảng cách năng suất này vì chỉ có trại thí nghiệm mới thực hiện được. Tuy nhiên, gần đây các nước như Ai Cập, Hy Lạp, Hoa Kỳ, Đại Hàn, Úc, v.v. đã nâng năng suất bình quân của các nước này lên 8-9 t/ha, gần bắt kịp năng suất tiềm thế, bằng cách áp dụng các kỹ thuật nông nghiệp chính xác hay quản lý tổng hợp mùa màng và cải tiến di truyền của lúa.

·         Khoảng cách “III”: Khoảng cách giữa năng suất hiện nay của ruộng (nông dân bình thường) và năng suất tiềm năng của trại thí nghiệm (hoặc của nông dân tiến bộ). Khoảng cách năng suất này có thể thu hẹp dễ dàng bằng cải tiến các lề lối quản lý mùa màng kém hữu hiệu. Khoảng cách năng suất III thường do giống lúa, đất đai, sâu bệnh, quản lý nước và cỏ dại, cung cấp đầu vào, tín dụng, khảo cứu, khuyến nông,… trong điều kiện không được tối hảo. 

4.   ÁP DỤNG CÁC KỸ THUẬT TÂN TIẾN

Sau đây là một số kỹ thuật tiến bộ có thể giúp nông dân trồng lúa chính xác hơn, có năng suất và lợi tức thu hoạch cao hơn, như: bảng màu để áp dụng phân đạm, lúa lai và siêu lúa. 

4.1.   Dùng bảng màu để bón phân đạm

Trước thời Pháp thuộc, nông dân chăm sóc ruộng lúa bằng cách đem nước vào ruộng để cho đất được phì nhiêu hơn, để rơm rạ sau khi thu hoạch hủy hoại cung cấp chất dinh dưỡng cho vụ sau, dùng các loại phân hữu cơ: phân xanh, phân chuồng, phân bắc... Họ không bao giờ chú ý đến thời kỳ đòi hỏi chất dinh dưỡng của cây lúa. Đến thời thực dân, phân hóa học được khuyến cáo một cách tổng thể, như bón phân căn bản truớc khi trồng lúa và sau đó là bón phân rước đòng (top-dressing), nông dân không hề biết trong đất đã có sẵn hoặc thiếu những chất dinh dưỡng nào. Nghĩa là canh tác chưa chính xác.

Thật vậy, nông dân chưa hiểu rõ nhu cầu chất dinh dưỡng từng thời kỳ sinh trưởng của cây lúa và tình trạng phì nhiêu của ruộng đất, nên họ phí phạm rất nhiều trong việc dùng phân hóa học. Phân đạm là một thứ thức ăn chủ yếu của cây lúa, có thể bị mất từ 50-70% nếu bón phân không đúng cách. Vì vậy, cách bón phân đạm nhiều lần cho một vụ lúa có lợi hơn sử dụng một lần. Trong chiều hướng quản lý chính xác vụ mùa, các nước tân tiến đã dùng các loại máy phân tích đất nhỏ và có thể mang ra ngoài đồng ruộng - máy đo diệp lục tố để đánh giá nồng độ chất đạm trong lá lúa tại ruộng, hầu xác định đúng thời gian và số lượng chất đạm cần đến của cây lúa. Điều này tiết kiệm được phân và đồng thời làm tăng năng suất lúa và hiệu quả kinh tế.  

Hình 3: Bảng màu chỉ ruộng lúa thiếu đạm, cần bón bổ sung

(ảnh Internet)

Gần đây các chuyên gia đã nghiên cứu cách sử dụng “Bảng Màu”, vốn xuất xứ từ Nhựt Bổn (Hình 3), để định thời kỳ bón đạm cho lúa có kết quả rất khích lệ, có thể tiết kiệm phân độ 20-30%. Bảng màu gồm có 6 bậc thang màu xanh lá cây: màu sắc thay đổi từ màu xanh lá vàng nhạt (số 1) cho đến màu xanh lá đậm (số 6). Bảng màu giúp nông dân đo cường độ màu lá liện hệ trực tiếp đến diệp lục tố của lá và tình trạng chất đạm trong lá (IRRI, 1998). Tiêu chuẩn bảng màu được xác định với máy đo chất diệp lục tố, cho nên có thể dùng một cách hữu hiệu để hướng dẫn cách áp dụng phân đạm trong canh tác lúa. 

Tuy nhiên, bảng màu ít chính xác hơn máy đo diệp lục tố trong cách đo cường độ của sắc lá vì nhiều khi khó phân biệt chính xác giữa màu của lá và màu của bảng màu khi có sự khác biệt nhỏ. Các loại lúa như lúa địa phương, lúa cao năng, lúa lai có sắc lá khác nhau nên cần phải định tiêu chuẩn của bảng màu cho từng loại lúa và thử nghiệm chúng ít nhất 2-3 vụ trước khi phổ biến cho nông dân dùng. Công tác tập huấn nông dân sử dụng bảng màu và khắc phục cách xác nhận tiêu chuẩn cho từng loại lúa ở mỗi địa phương cần đặt hàng đầu. 

4.2.Trồng lúa lai

Qua hàng ngàn năm, nông dân trồng cây lúa hoang, lúa thuần đến lúa cổ truyền, lúa cải tiến (improved rice) và ngày nay lúa hiện đại (modern rice). Cuộc Cách Mạng Xanh đã bắt đầu từ giữa thập niên 1960 với giống lúa hiện đại IR8 của IRRI ở Philippines, có năng suất tiềm thế 11 t/ha trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Từ đó đến nay, năng suất tiềm thế của cây lúa ngừng đọng, không có tiến bộ đáng kể. Do đó, các nhà khảo cứu dùng đến kỹ thuật lúa lai để làm tăng năng suất từ 15 đến 20% nhờ ưu thế lai (heterogeneity) so với giống lúa truyền thống, nhưng đòi hỏi kỹ thuật quản lý cao để sản xuất hạt giống F1.

Trong thập niên 1990-2000, mặc dù Việt Nam là một xứ xuất khẩu nhiều gạo, lúa lai vẫn còn chiếm một vị trí quan trọng vì loại lúa này làm tăng năng suất lúa, giúp để dành đất đai cho các loại hoa màu khác và sử dụng khác có giá trị nhiều hơn, chủ yếu ở những vùng thiếu đất đông dân như Miền Bắc và Miền Trung. Ngoài ra, trồng lúa lai còn tạo thêm việc làm cho nông thôn qua khâu sản xuất hạt giống lai. Thí dụ điển hình nhứt là Trung Quốc. Nước này hiện trồng khoảng 15 triệu ha lúa lai mỗi năm. Nhờ chương trình lúa lai, Trung Quốc đã giảm diện tích trồng lúa toàn quốc từ 36,7 triệu ha xuống 31 triệu ha trong thời gian từ 1975 đến 2017 (FAO, 2018), nhưng vẫn đủ nuôi 1,4 tỷ dân và đã chuyển đổi hàng triệu hecta trồng lúa qua các hoa màu khác có giá trị cao hơn hoặc các ngành nghề khác có lợi nhuận lớn hơn. Đa số lúa lai được trồng hiện nay là lúa 3 dòng: dòng bất dục đực (cytoplasmic male sterility), dòng hồi dục (maintainer) và dòng phục hồi (restorer).

Ở Việt Nam, công tác khảo cứu lúa lai đã bắt đầu từ năm 1982 tại Viện Lúa ĐBSCL và Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Việt Nam, trong khi nông dân du nhập lúa lai trồng đại trà tại một số tỉnh biên giới của Miền Bắc, như Quảng Ninh kể từ năm 1991 với độ 100 ha. Từ đó, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã tích cực phát triển chương trình lúa lai qui mô hơn với hạt giống F1 và bố mẹ của một số giống lúa lai được nhập khẩu từ Trung Quốc. Năm 1994 và 1997, FAO đã giúp Việt Nam hai dự án Hợp tác kỷ thuật (TCP), nhằm chú trọng vào lãnh vực đào tạo cán bộ chuyên môn, huấn luyện nông dân và cung cấp các thiết bị cần thiết cho ngành tạo giống và nhơn giống lúa lai cũng như bố mẹ. Năm 2006, diện tích lúa lai chiếm khoảng hơn nửa triệu ha và năng suất bình quân 6,3 t/ha. Sự phát triển trồng lúa lai từ 1991 đến 2008 được ghi nhận ở Bảng 1. 

Bảng 1: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa lai ở Việt Nam, 1991-2008

 

Năm

 

Diện tích (ha)

 

Năng suất (t/ha)

 

Sản lượng (tấn)

 

1991

100

6,80

680

1992

11.137

6,66

74.172

1993

34.828

6,71

233.969

1994

60.007

5,84

350.440

1995

75.503

6,14

451.308

1996

137.700

6,35

874.395

1997

187.700

6,35

1.191.895

1998

201.000

6,45

1.236.000

1999

230.000

6,48

1.490.000

2000

340.000

6,45

2.193.000

2008*

> 600.000

6-6,30

-

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, và * ước lượng 2008. 

Trung Tâm Khảo Cứu Lúa Lai được thành lập tại An Khánh, Hà Nội từ năm 1994 và hiện nay đã có đội ngũ cán bộ với đầy đủ khả năng chuyên môn cao. Đây là trung tâm khảo cứu lúa lai thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc, đang hướng dẫn chương trình lúa lai cả nước. Cục Khuyến Nông-Lâm du nhập nhiều giống lúa lai Trung Quốc, như là Sán ưu 63, Bác ưu 903, Sán ưu quế 99, Nhị ưu 63, Nhị ưu 838, Bồi tạp sơ thanh, Bồi tạp 49, Bồi tạp 77, ... Lúc đầu chất lượng không cao lắm nên giá cả hơi thấp hơn giống lúa địa phương như CR203 chẳng hạn. Hiện nay các giống lúa lai du nhập từ Trung Quốc có chất lượng cao hơn, được giới tiêu thụ chấp nhận.

Trung tâm Lúa lai đã phóng thích các giống lúa lai trong nước như HYT 50, 56, 57, 60, 68, 83..., đặc biệt HYT 57, HYT 83, HYT 100 có chất lượng và năng suất cao. Gần đây, các giống lúa lai nhiệt đới được các tỉnh phía Nam ưa chuộng như: Arize B-TE1, Arize XL-94017 (công ty Bayer CropScience), PAC 807 (công ty Giống Cây trồng Miền Nam nhập từ Ấn Độ), Bio 404 (Công ty Bioseed Việt Nam nhập tử Ấn Độ). Viện Nghiên Cứu Lúa thuộc trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội đã phóng thích giống lúa lai VL (Việt Lai) 20, VL 24, VL50, VL75..., TH3-3, TH5-1, TH 3-4.

Hình 4: Sản xuất hạt giống lúa lai

                 (ảnh Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn)

Đến nay, vấn đề khó khăn nhứt cho canh tác lúa lai trong nước là tự túc lúa giống F1. Mặc dù đội ngũ cán bộ chuyên môn lúa lai có đủ tay nghề gồm cả khảo cứu, nhơn giống F1, bố và mẹ tại một số tỉnh, nhưng việc tổ chức sản xuất hạt giống (Hình 4) chưa có hệ thống quy củ. Hy vọng Việt Nam sẽ tự túc giống lúa lai càng sớm càng tốt để tiết kiệm ngân sách nhà nước! Ngành sản xuất hạt giống tư nhân có thể giúp giải quyết hữu hiệu vấn đề này. Hiện chỉ tiêu trồng lúa lai hàng năm tăng quá nhanh nên sản xuất lúa giống F1 trong nước không thể bắt kịp! Việt Nam đã sản xuất được 3 500-4 000 tấn giống F1 mỗi năm và chỉ đáp ứng được 15-20% nhu cầu; cho nên, phải nhập khẩu hàng năm bình quân 10 000 -15 000 tấn giống lai từ Trung Quốc! Mặc dù các chuyên gia đã xác nhận khí hậu Miền Trung và Miền Nam rất thích hợp cho nhơn giống lúa lai so với Miền Bắc và ngay cả Trung Quốc, vì nhiệt độ cao hơn và không thay đổi nhiều.

Tuy nhiên, nếu không giải quyết được việc nhập lúa giống F1 hàng năm, chương trình lúa lai ở Miền Bắc cần sớm chấm dứt vì quá tốn kém cho ngân sách quốc gia và tình hình kinh tế đất nước đang chuyển dần qua công nghiệp hóa, nên mục tiêu ban đầu của chương trình này không còn cần thiết nữa.

Ngành lúa lai thế giới trong ba thập niên qua đã đạt được hai tiến bộ lớn: năng suất hạt giống lai cao và phát triển lúa lai hai dòng. Tại Việt Nam, năng suất giống lai tăng từ 302 kg/ha trong 1992 lên 1 751 kg/ha trong 1996 và 2 200 kg/ha trong 2 000, phần lớn là do kinh nghiệm và tay nghề cao và dùng giống bất dục đực, như  loại Bo có vòi nhụy dài, thụ phấn cao.

Ngoài ra, còn có lúa lai haidòng không cần đến dòng hồi dục, nhưng phải nhờ đến dòng bất dục đực chịu nhiệt cảm TGMS (temperature-sensitive genic male sterility) hoặc quang cảm PGMS (photoperiod-sensitive genic male sterility). Nếu nhiệt độ trên 26-28oC hoặc thời gian quang cảm (hay ánh sáng ban ngày) trên 14 giờ dòng này sẽ trở nên bất dục. Lúa lai hai dòng có những lợi điểm, nhưng thực hành khó khăn (Yuan, 1998):

·         Không có nhiều khó khăn do sự liên hệ của dòng phục hồi (B) - dòng hồi dục (R) vì dòng PGMS và dòng TGMS được kiểm soát bởi một hay hai cặp gien lặn.

·         Không cần lựa gen phục hồi đặc biệt, cho nên có thể dễ dàng chọn cha mẹ để có ưu thế lai cao. Kinh nghiệm cho biết trên 95% giống lúa có thể làm phục hồi độ hữu thụ của dòng PGMS/TGMS trong khi CSM chỉ có 5% dòng có thể dùng làm dòng phục hồi.

·         Giá thành sản xuất hạt giống F1 sẽ được giảm bớt vì không cần dòng hồi dục.

·         Ảnh hưởng sự cố của hệ thống bất dục có thể tránh được và các dịch sâu bệnh do hệ thống bất dục đực tạo nên không còn nữa.

Hiện nay, Việt Nam có những giống lúa hai dòng như: 11S, TM4, MT4 (của Viện Di truyền), Bồi tạp thanh sơn 49, 77,... Đây là phương pháp trồng lúa lai triển vọng trong tương lai, nhưng còn đòi hỏi nhiều nghiên cứu để kiện toàn phương pháp này trong một thời gian nữa.

Lúa lai một dòng tức là lúa lai vô tính (apomixis): Từ thập niên 1920, các nhà nghiên cứu đề cập đến thực vật vô tính và trên thế giới có hơn 400 loài cây vô tính, trong đó không có loài lúa. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu ở Mỹ, Trung Quốc, Nhựt Bổn, Ấn Độ và viện lúa IRRI hy vọng sáng tạo một loài lúa lai vô tính có khả năng ổn định ưu thế lai ngay sau thế hệ F1, nên không bị mất tính chất di truyền và nông dân không cần thay thay đổi giống lúa sau mỗi vụ như hiện nay; nhưng tiếc thay chưa có kết quả như mong muốn.

Thật may mắn, tháng 12-2018, hai nhà nghiên cứu - Dr. Imtiyaz Khanday (post Doc.) and Giáo sư Venkatesan Sundaresan của Đại học Davis, California, Hoa Kỳ (Andy Fell, 2018) tuyên bố đã khám phá gen BBM1 (thuộc một họ gen thực vật có tên là BBM “Baby boom” hay “Em bé bùng phát”), được biểu hiện trong các tế bào phấn hoa (sperm) cây lúa, nhưng không có trong noãn cầu (trứng) lúa. Thường sau khi thụ tinh, BBM1 chỉ hiển thị trong tế bào thụ tinh, nhưng - ít nhứt lúc ban đầu - sự biểu hiện này là do đóng góp của giới tính đực trong bộ gen.

Họ chỉnh sửa gen để ngăn chặn cây lúa đi qua giai đoạn giảm phân (meiosis), một loại phân chia tế bào sinh sản dẫn đến bốn tế bào con, mỗi tế bào có một nửa số lượng nhiễm sắc thể của tế bào gốc. Thay vào đó, các tế bào trứng hình thành do nguyên phân (mitosis) thừa hưởng một bộ nhiễm sắc thể đầy đủ từ người mẹ.

Sau đó, họ khiến những tế bào trứng này biểu hiện khả năng BBM1 để gen BBM1 chuyển trứng thụ tinh tạo thành phôi (embryo) và phát triển thành một hạt giống vô tính. Hiện nay, công tác tạo ra hạt giống lúa vô tính chỉ đạt ở mức 30%. Thành tựu này có thể áp dụng cho các loại cây ngũ cốc khác có gen BBM1 tương đương, và trong các cây trồng khác (Imtiyaz Khandayet al., 2018).

Gần đây, Viện Nghiên cứu lúa lai quốc gia tại tỉnh Hồ Nam đã tìm ra giống siêu lúa lai Y Liangyou 900 có năng suất 14,8t/ha gấp đôi năng suất lúa bình quân của Trung Quốc. Họ đang tiến tới mục tiêu 15 t/ha tại các địa điểm trình diễn 2015 và trồng đại trà 2020. Giống siêu lúa lai có 6,6% hạt nhiều hơn giống lúa lai chuẩn, hệ thống rễ mạnh, gié lúa to (nhánh cấp 2 nhiều), nhiều hạt lớn, đồng thời kháng sâu bệnh quan trọng và chịu đựng hạn hán. Trong 2009, Viện báo cáo tìm thấy những gen liên hệ đến quá trình chuyển hóa năng lượng trong giống lúa lai LYP 9 và cho rằng đó là những gen quan trọng của đặc tính ưu thế lai (Felix Cheung, 2014). 

4.3.   Trồng siêu lúa hay lúa Super

Tiềm thế năng suất lúa trên thế giới đã ngưng đọng từ hơn 50 năm nay. Giống lúa IR8 vẫn còn chiếm địa vị hàng đầu với tiềm năng 11t/ha trong điều kiện nhiệt đới, vì tổng sản lượng chất xanh (biomass) của cây lúa và chỉ số thu hoạch của các giống lúa phổ biến không thay đổi. Cũng nên biết tiềm năng lúa ở vùng ôn đới tăng lên 13t/ha vì khí hậu thuận lợi hơn, lúa chỉ trồng vào mùa hè ngày dài, nhiều ánh sáng, ít mây và nhiệt độ ban đêm thấp. Năng suất bình quân của California là 9,8t/ha, Úc 8,4t/ha, Ai Cập 8,5t/ha và Đại Hàn7,5 t/ha. Vì vậy, các chuyên gia lúa gạo thế giới đang nghiên cứu đưa năng suất tiềm thế của những vùng này lên 15 - 17t/ha.

Từ 1985, Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế tại Los Banos, Philippines đã bắt đầu nghiên cứu về phương diện sinh lý cây lúa để tạo thành loại lúa siêu đẳng từ 1989. Họ dùng chiến lược hai bậc: (1) trước hết tạo giống lúa giữa IndicaJaponica nhiệt đới để có 12,5t/ha và (2) sau đó dùng phương pháp ưu thế lai để tăng từ 12,5t/ha lên 15t/ha. Họ hy vọng có được giống lúa siêu đẳng này để nông dân trồng vào năm 2005; nhưng đến nay chưa thành công.

Hiện nay, Viện đã tạo được các dòng có năng suất từ 11-12t/ha, nhưng có ba vấn đề cần phải giải quyết: chất lượng kém, dễ bị sâu bệnh nhứt là rầy nâu và nhiều hạt lép. Vấn đề nhiều hạt lép là khó khăn nhứt vì do vấn đề sinh lý của cây lúa tạo ra bởi thời gian cung cấp chất tinh bột từ lúc trổ bông đến lúa chín (từ lúa sữa đến lúa chắc) quá ngắn chỉ có 25-35 ngày ở điều kiện nhiệt đới. Cho nên, tốc độ vận tải chất tinh bột trong cây lúa vào giai đoạn này đang được các chuyên gia lúa gạo chú ý đến. Quan niệm kỹ thuật về siêu lúa hiện đang được xét lại tại IRRI, chủ yếu về phương diện sinh lý học và phối trí hình dạng cây lúa, đồng thời thêm một số đặc tính lúa GAP để tạo ra siêu lúa xanh.

Để hoàn thành mục tiêu trên, siêu lúa cần hội đủ các tiêu chuẩn của cây lúa như sau: 3-4 chồi mỗi bụi lúa, 200-250 hạt trên mỗi gié, 90-100 cm chiều cao, thân cứng, lá dầy, xanh đậm và thẳng đứng, hệ thống rễ mạnh, 100-130 ngày, kháng những sâu bệnh quan trọng và chất lượng cao. Siêu lúa đã thành công ở các nước vùng ôn đới vì khí hậu các nơi này thuận lợi hơn và thời gian ngậm sữa kéo dài hơn từ 40 đến 50 ngày, nhờ nhiệt độ thấp vào cuối vụ.

Trên thế giới, siêu lúa cũng được nghiên cứu tại Trung Quốc và Nhựt Bổn. Tại Trung Quốc, đã phóng thích siêu lúa như Teging, Shanshua,... với năng suất độ 10-12t/ha. Nhựt Bổn đã tạo ra giống lúa Oochikara với hạt to hơn gấp đôi hạt thường với năng suất đến 16,9t/ha. Cho nên, Nhựt Bổn dùng loại gạo này để phục vụ ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, siêu lúa cũng có thể mang đến vài vấn đề tiêu cực vì lúa này đòi hỏi lượng phân hóa học lớn hơn, làm ảnh hưởng môi trường và xuất hiện sâu bệnh nhiều hơn.

Cho nên, thử thách lớn cho ngành nghiên cứu lúa gạo là làm sao vừa tăng năng suất và chất lượng lúa gạo vừa sử dụng ít chất hóa học, ít nước và ít đất để thỏa mãn nhu cầu dân số gia tăng nhanh, bảo vệ môi trường và đáp ứng biến đổi khí hậu toàn cầu để canh tác bền vững. 

5.   CÔNG NGHỆ SINH HỌC TRONG NGÀNH TRỒNG LÚA HIỆN ĐẠI

Công nghệ sinh học, theo định nghĩa, là kỹ thuật làm biến đổi các hệ thống sinh học, đã có mặt hàng ngàn năm trên thế giới. Chẳng hạn, phương pháp lên men làm giấm, nấu rượu, làm nước mắm ở châu Á; làm bánh mì, rượu vang và phó-mát ở Âu Mỹ. Còn công nghệ sinh học hiện đại mới xuất hiện từ nửa thế kỷ qua và phát triển mạnh nhứt từ thập niên 1980, được xem là công nghệ làm biến đổi di truyền của các sinh vật hay “GMO” (genetically-modified organisms) (Hình 5). Ở Việt Nam, người Lạc Việt đã biết nấu rượu từ gạo nếp, làm nước mắm từ cá tôm cách đây hơn 3 000 năm. Sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp đã ghi chép: “Lúc ban đầu lập quốc (Triều đại Hùng Vương), quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc; lấy cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu; lấy cây quang lang, cây soa-đồng làm bánh;… lấy cá tôm làm nước mắm...”. 

Với những tiến bộ khoa học vượt bực ngày nay, công nghệ sinh học có thể làm tách dòng, tái tạo, hoàn chỉnh gen để tổng hợp cấy gen hoặc bộ gen vào sinh vật hầu cống hiến nhân loại nhiều cơ hội quý báu cải tiến phục vụ đời sống con người. Những kỹ thuật hiện đang sử dụng trong lãnh vực này như công nghệ cấy mô, lên men vi sinh, tái phối hợp DNA, tái bản, đánh dấu phân tử, QTL (quantitative trait loci), truyền tin tế bào (cell signaling), lai tạo giống nhờ đánh dấu gen, micro-array, tổng hợp và giải trình DNA, bộ gen (genomics), sinh học tổng hợp, sinh học cấu trúc và điện toán, thông tin sinh học…; nhằm mục đích cải tiến sản xuất, chống chịu các khó khăn sinh học, vô sinh, và cải tiến chất lượng nông sản.

Trong khi đó, một số công luận đang lên án gắt gao trên mạng lưới điện tử, trong phòng họp và ngoài phố về các sản phẩm biến đổi di truyền (GMO), vì công nghệ này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho sức khoẻ con người (như dị ứng với đậu phụng GMO) và môi sinh (giết các loài bướm, ong). Dù các cuộc tranh cải - nên hay không nên dùng các nông sản GMO còn tiếp diễn - chúng ta từ lâu đã sử dụng loại thực phẩm này trong một số bữa ăn hàng ngày, chẳng hạn bánh mì; các loại bánh làm bằng bột mì; dầu ăn làm bằng bắp, đậu nành; cà chua; chất mù tạt; v.v. Vì quá mới lạ, công nghệ sinh học đang gặp nhiều chống đối, chủ yếu từ các giới hòa bình xanh, nhóm môi trường ở một số quốc gia. Trước đây, lúa Thần Nông, khi mới được giới thiệu đến nông dân Việt Nam, cũng bị một số dư luận chỉ trích gay gắt về cây lúa thấp lùn gây khó khăn cho việc cấy lúa, làm mỏi lưng và thêm nặng nhọc cho nông dân, v.v. Cũng vậy, việc nhập nội cá rô Phi (Tilapia sp.) vào thập niên 1950 cũng gặp khó khăn không ít với lời đồn đãi “ăn cá rô Phi bị lở cùi!” Trái lại, những loại nông sản do đột biến hoặc ngẫu biến, cũng là loại nông sản biến đổi gen mà ít người để ý, đã được bày bán ngoài thị trường và sử dụng từ lâu, nhưng thoát khỏi búa rìu dư luận!

Công nghệ sinh học đang được thử nghiệm và ứng dụng trong nhiều khu vực như y dược, hóa học, nông nghiệp, môi trường, v.v. (Hình 5). Vì vấn đề rất phức tạp, nhiều người đã dùng màu sắc để mô tả và phân biệt từng nhóm công nghệ sinh học: đỏ, xanh và trắng. Công nghệ sinh học đỏ bao gồm công nghệ sinh học sản xuất các loại thuốc tây dùng cho con người và gia súc (do đó có màu đỏ). Công nghệ sinh học xanh ám chỉ công nghệ sinh học ứng dụng trong ngành nông nghiệp. Công nghệ sinh học trắng mô tả các công nghệ sản xuất enzymes vừa mới xuất hiện, tạo ra các sản phẩm tẩy sạch, sẽ được sử dụng chế tạo các loại tơ sợi và chất dẻo sinh học. Vì thế, ngành này có thể sẽ lấn chiếm và thay thế dần nông nghiệp, chủ yếu ở các nước công nghiệp trong vài thập niên tới. Tuần báo The Economist trong tháng 3-2003 đã làm một cuộc khảo sát và đi đến kết luận rằng “Công nghệ sinh học trắng có thể làm một cuộc cách mạng ở nông thôn, bằng cách chuyển đổi cơ cấu từ canh tác tạo lương thực cho con người sang sản xuất nguyên liệu cho kỹ nghệ” (AgBioView on line, 2005). Nay sản xuất năng lượng sinh học đã bắt đầu thay thế cây thực phẩm ở nông thôn, đặc biệt tại Hoa Kỳ và Liên Âu.

Hình 5: Các thành phần của công nghệ biến đổi di truyền                                 

(1)  Bản đồ Bộ gen (Genome) của cây lúa: Mặc dù các cuộc khảo cứu trong thời gian qua tập trung vào cấy nạp và chuyển đổi gen trong một số hoa màu gồm cây lúa, nhưng sự khám phá kỹ thuật Genome đã tạo ra một bước ngoặc lớn và cơ hội hiếm có cho các nhà di truyền học trong công tác cải thiện và tạo ra giống mới, vì đa số các đặc tính nông học thảo mộc đều bị chi phối bởi một hoặc nhiều gen (Hình 6). Hiện nay chưa có bản đồ gen vì quá phức tạp.

Trước sự tiến bộ chậm chạp của ngành trồng lúa trong hơn nửa thế kỷ qua, sự hoàn tất bản đồ Genome cây lúa năm 2002 của các nhà khảo cứu Trung Quốc và Thụy Sĩ, năm 2003 của Chương Trình Bộ Gen Lúa Quốc tế bắt đầu từ 1998, do Nhựt Bổn hướng dẫn và 10 nước tham gia đã cống hiến cho các nhà khoa học niềm hy vọng mới trong ngành nông nghiệp, vì kết quả những cuộc nghiên cứu đó có thể giúp các nhà lai tạo giống và các chuyên gia khác có khả năng đột phá và khắc phục được các vấn đề khó khăn hoặc nan giải trong nông nghiệp mà đến nay chưa có giải pháp, như nâng cao năng suất tiềm thế, hạn hán, lũ lụt, phèn mặn, sản xuất đạm sinh học… (Lê Thị Hoàn và Trần Văn Đạt, 2010).

   Hình 6: Chuỗi DNA (ảnh Internet)

Đây là công trình lớn thứ hai trên thế giới, tốn kém độ 200 triệu Mỹ kim, sau chương trình nối tiếp genome của loài lưỡng tử diệp Arabidopsis (thuộc họ mù-tạt). Các chương trình này rất quan trọng vì là những hệ thống kiểu mẫu cho sự phân tích di truyền hầu giúp hiểu biết nhiều hơn về biểu lộ gen, tái bản DNA, tổ chức, phối hợp và tiến hóa các nhiễm sắc thể. Các nhà khoa học cho rằng nghiên cứu trên những bộ gen (genome) sẽ có nhiều áp dụng thực tiễn hơn là nghiên cứu trên từng gen, vì các đặc tính nông học như năng suất, khả năng cố định đạm, chịu hạn hán... là do những chuỗi gen quyết định.

(2)  Dự án “Genome 3000 giống lúa”: Các nhà khảo cứu nhận thấy bản đồ Genome cây lúa nêu trên (1) (chỉ một hai giống lúa) còn nhiều giới hạn so với sự đa dạng di truyền của các loài thảo mộc; cho nên, dự án Genome của 3000 giống lúa ra đời, với sự hợp tác giữa Học viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS), Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) và Viện Gen Bắc Kinh (BGI), được Bill và Melinda Gates Foundation tài trợ. Ngày 28-5-1914 cũng là Ngày “Thế giới phòng chống đói” kết quả dự án này được công bố qua các ấn phẩm giải mã trình tự bộ gen của 3000 giống lúa từ 89 quốc gia, mà 77,1% từ các trung tâm đa dạng di truyền - Đông Nam Á (33,9%), Nam Á (25,6%) và Trung Quốc (17,6%), cùng với việc đưa toàn bộ số liệu này ở dạng trích dẫn trong cơ sở dữ liệu truy cập mở khổng lồ (13,4 terabytes) của Journal Giga Science, Giga DB (Giga Science, 2014.). Dữ liệu này là một nguồn thông tin di truyền to lớn ngoạn mục, mặc dù chưa đầy đủ, có thể hỗ trợ tìm các gen chức năng, định vị chính xác các gen đích trên bản đồ, thiết kế các marker chức năng giúp chọn lọc cá thể mang gen đích một cách chính xác phục vụ công tác lai tạo giống lúa khôn ngoan, chính xác và mau lẹ trong tương lai.

Ngày 24-5-2018, các nhà nghiên cứu của dự án Genome 3000 giống lúa đã báo cáo kết quả nghiên cứu trên tạp chí Nature: Trong hai nhóm lúa chính Indica và Japonica, việc phân tích dữ kiện cho thấy sự hiện diện của quần thể lúa phụ mà trước đây chưa được báo cáo có nguồn gốc địa lý đặc biệt duy nhất. Bằng chứng khác cho thấy lúa Châu Á đã được thuần hóa nhiều lần một cách độc lập cách đây hàng ngàn năm. Kết quả cuộc nghiên cứu này phù hợp với giả thuyết nguồn gốc đa trung tâm của Dr. T.T. Chang (1976 và 1985), nhưng có vẻ không cùng hướng với kết luận về một nguồn gốc lúa trồng được đăng trong Kỷ yếu của Học viện Khoa học Quốc gia Mỹ (Proceedings of the National Academy of Sciences - PNAS) (Wensheng Wang, et al., 2018).

            Bản đồ các SNPs (single nucleotide polymorphism) của các giống lúa cho phép các nhà nghiên cứu và các nhà lai tạo kết nối trực tiếp các thông tin di truyền (genotype) với các đặc tính hình thể (phenotype) của các giống khác nhau, nhằm phục vụ hữu hiệu cho công tác bảo tồn nguồn gen, phân loại, chọn tạo giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng kháng các loại sâu bệnh và điều kiện bất lợi sinh học và phi sinh học (Khoa học & Công nghệ, 2013).

Tại Việt Nam, trong 2013 Viện Di truyền Nông nghiệp báo cáo thành công giải mã 36 giống lúa bản địa (gồm 7 giống lúa chất lượng; 6 giống lúa chịu hạn; 6 giống lúa chịu mặn; 7 giống lúa kháng rầy nâu; 5 giống lúa kháng bệnh cháy lá (đạo ôn) và 5 giống lúa kháng bạc lá) trong dự án “Giải mã Genome một số giống lúa bản địa của Việt Nam” với hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Sự sống và Công nghệ sinh học, Anh Quốc. Viện cũng dự tính giải mã 800 giống lúa bản địa khác trong giai đoạn II (Khoa học & Công nghệ, 2013 và Lê Huy Hàm, 2013). Công tác quan trọng và cấp thiết trong nước hiện nay là làm sao có đội ngũ chuyên gia hiểu biết thành thạo sử dụng kết quả thông tin này và các thành tựu Dự án bộ gen 3000 giống lúa nêu trên có hiệu quả thực sự trong các chương trình lai tạo gống lúa mới tại VN.

(3)  Bt gen: Hiện nay, chưa có áp dụng đại trà về các thành quả công nghệ sinh học trên lúa, nhưng đã tạo được một số giống lúa chuyển gen. Chẳng hạn, sự pha trộn gen độc tố của vi khuẩn Bacillus thurengiensitalic (Bt) biến đổi trong cây lúa để làm cho cây có khả năng chống kháng sâu đục thân vàng, sâu cuốn lá, nhưng mức độ kháng dài lâu chưa khẳng định được. Ngoài ra, công nghệ sinh học áp dụng cho kháng chống các loài côn trùng cần được nghiên cứu cẩn thận vì các loài này có thể vượt qua sức kháng chống nhân tạo do nguyên tắc cạnh tranh sinh tồn. Sau đây là 4 khuyến cáo dùng Bt gien để chống kháng sâu đục thân của IRRI: (i) Không nên dùng giống lúa Bt không có mức độc cao (0,2% chất protein lá hòa tan), (ii) Phóng thích giống lúa Bt có 2 Bt gen độc khác nhau, (iii) Không phóng thích các giống Bt biến đổi của các giống lúa phổ thông. Cần có một số ruộng lúa (nơi “tị nạn”) không có Bt gen, và (iv) Cần có hệ thống theo dõi mức kháng chống côn trùng.  

(4)  Gen có enzym ngăn cản thành lập protein và Alpha-amylase trong côn trùng được chú ý tới như là một thành phần trong hệ thống bảo vệ thiên nhiên đối với côn trùng. Chuyên gia đã chuyển gen chống tạo thành chất trypsin của đậu rằn (Cpti) cho cây lúa để chống sâu đục thân vằn và sâu đục thân màu hồng (Xu et al., 1996).

(5)  Kỹ thuật “áo protein” đang sử dụng để chống vài loài siêu vi khuẩn trong cây lúa đối với bệnh bạc lá (bacterial blight), Tungro. 

(6)  Gen kháng thuốc diệt cỏ giúp hoa màu chống lại thuốc diệt cỏ khi được áp dụng loại thuốc này, như là “roundup ready” của cây lúa, khoai tây hoặc đậu nành. Sử dụng loại cây có gen này sẽ làm giảm bớt số lần áp dụng thuốc diệt cỏ, nghĩa là làm tăng lợi tức. Tuy nhiên, gen này có thể truyền qua các loài cỏ dại khác có thể làm cho các loài này chống lại thuốc diệt cỏ. Đây có thể là điều nguy hiểm đáng lưu ý.

(7)  Kỹ thuật hủy diệt hạt giống làm cho các hạt giống loại này không thể nẩy mầm được nếu đem trồng lại mùa sau hầu bảo vệ bản quyền hạt giống. Kỹ thuật này đang bị dư luận thế giới chỉ trích mạnh mẽ vì chỉ nhằm phục vụ cho các công ty và buộc nông dân phải mua hạt giống trồng mỗi vụ. 

(8)  Cải thiện tổng hợp sinh học chất tinh bột: ADP-glucose phyrophosphorylase (ADPGPP) là một loại enzym quan trọng trong điều chỉnh tổng hợp chất tinh bột ở mô thực vật. IRRI đã truyền gen glgc16 (từ E. coli) của giống khoai tây qua cây lúa để làm tăng tổng hợp chất tinh bột vì gen này làm tăng tinh bột khoai tây (Khush et al., 1999).

(9)  Tăng hàm lượng dinh dưỡng của lúa: Kỹ thuật biến đổi gen còn nhằm làm tăng hàm lượng các bần tố dinh dưỡng cần thiết để chữa trị các chứng bệnh thiếu Vitamin A, Vitamin B và chất sắt của con nguời. Các nhà khoa học còn đang cố gắng chế tạo các thức ăn như trái cây có các loại gen dùng trong việc ngừa chủng các loại bệnh quan trọng. Gần đây một chuyên gia Nhựt Bổn đã biến đổi gạo để làm chất tạo ra thuốc chủng cho bệnh hepatitis B để thay máu.

(10)  Cây lúa C4: Những loại cây C4 (các hợp chất trung gian của quá trình quang hợp đều chứa 4 nguyên tử carbon, vì thế được gọi cây C4) như cây mía, bắp, lúa miến…là những thảo mộc có sinh khối và năng suất cao nhờ quang hợp hữu hiệu hơn so với loài thảo mộc C3, như cây lúa, lúa mì, lúa mạch… có phân tử đường 3-carbon tồn tại trong chu trình quang hợp Calvin. Trong quá trình quang hợp C4, khí CO2 được cố định trong các mô lá chuyên biệt được gọi là tế bào mesophyll để tạo ra các acid C4, khuếch tán và được khử trong một loại mô đặc biệt - các tế bào bó mạch. Quá trình này làm tăng nồng độ CO2 trong bó mạch và ngăn chận hoạt động của enzym Rubisco oxygenase, cho phép Rubisco hoạt động gần với tốc độ tối đa của nó (Hình 7). So với cây trồng C3 như lúa, cây trồng C4 (như ngô và lúa miến) có năng suất cao hơn và sử dụng nước và chất đạm hữu hiệu hơn (Susanne von Caemmerer et al., 2012).

Năm 2008, dự án 20 triệu Mỹ kim Consortium Lúa C4 quốc tế ICRC” (The International C4 Rice Consortium) được thành lập tại IRRI, Philippines, với tham dự của 12 Viện nghiên cứu của 8 nước để nghiên cứu hiện tượng quang hợp của cây lúa và lúa mì bằng cách cấy nạp gen để cho năng suất cao 30-50% so với cây lúa C3 với cùng số lượng phân và nước. Các nhà nghiên cứu phải làm 2 việc chính: (1) trước hết phải tìm ra các gen thích ứng để cấy vào cây lúa, hiện nay họ đã cấy được 6 trong 12 gen liên hệ vào cây lúa; (2) họ phải thay đổi kiến trúc lá lúa bằng cách cấy vào các tế bào đặc biệt để có thể phân tách khí CO2 trong điều kiện yếm khí để làm cho quá trình quang hợp hữu hiệu hơn. Họ ước đoán công tác nghiên cứu này cần đến thời gian 15 năm mới có được cây lúa C4 sẵn sàng cho nông dân trồng. Quả đây là một thách thức lớn của ngành nghiên cứu trong thế kỷ 21 và hiện nay chưa có thể tiến đoán được kết quả và ảnh hưởng của dự án này trong tương lai.  

        Hình 7:(A) Quá trình quang hợp C3 cố định CO2 trong khí quyển thành các acid C3 với Rubisco trong một tế bào. (C) Quá trình quang hợp C4 của hai tế bào đòi hỏi sự cách biệt không gian của sự cố định CO2 khí quyển thành các acid C4 và sự đóng góp CO2 từ các acid C4 này cho Rubisco. Hình ảnh kinh hiển vi ánh sáng cho thấy các phần cắt ngang của lá (B) lúa, cây C3, và (D) lúa miến, cây C4. Phần lúa cho thấy bó mạch (bundle sheath cells) với vài lục lạp và số lượng lớn tế bào mesophyll giữa các bó mạch đặc trưng cho các loài C3. Phần lá lúa miến cho thấy nhiều lục lạp trong bó mạch và chỉ có hai hoặc ba tế bào mesophyll ở giữa mô mạch điển hình của loài C4.

Vào đầu thập niên 2000, các nhà khoa học Nhựt Bổn và trường Đại Học tiểu bang Washington ở Mỹ đã sử dụng hệ thống Agrobacterium để đưa gen quang hợp C4 (với ba loại enzymes) từ cây bắp vào cây lúa japonica, làm tăng mức quang hợp của cây lúa này lên 30%, nhưng cấu trúc tế bào lá lúa không thay đổi nhiều nên kết quả chưa như mong muốn.

Trong 2018, các nhà nghiên cứu Trung Quốc tin tưởng làm tăng khả năng quang hợp cây lúa bằng cách hủy bỏ quá trình hô hấp ban ngày (photorespiration), một quá trình phụ thuộc vào ánh sáng trong đó oxy được hấp thụ và CO2 được giải phóng. Họ thực hiện một chiến lược cơ bản chuyển CO2 giải phóng của cây lúa sang quang hợp. Họ chuyển đổi chất glycolate, một sản phẩm của hô hấp ban ngày thành CO2, bằng cách đưa ba enzym lúa: glycolate oxyase, oxalate oxyase và catalase (GOC) có gen mã hóa vào lục lạp lúa (chloroplast).

Kết quả cho thấy tốc độ hô hấp ban ngày đã bị giảm bớt 18% - 31% so với bình thường và tỷ lệ quang hợp ròng tăng 15% - 22%, chủ yếu là do nồng độ CO2 của tế bào cao hơn được sử dụng cho quang hợp. So với các cây lúa không được biến đổi gen, các cây GOC luôn xanh hơn và to hơn, với trọng lượng khô trên mặt đất cao hơn 14% - 35%. Hơn nữa, các hạt tinh bột tăng kích thước 100% và số lượng hạt trên mỗi tế bào tăng lên 37%. Trong vụ lúa mùa xuân, năng suất hạt cải thiện từ 7% đến 27% (Bo-RanShenet al., 2018).

 (11)  Gạo vàng (Hình là một khám phá lớn của ngành nghiên cứu lúa gạo thế giới vào đầu thế kỷ 21. Theo Tổ Chức Sức Khoẻ Thế Giới WHO và FAO, mỗi năm có độ 2,4 tỉ đàn bà bị bệnh thiếu dinh dưỡng về chất sắt và 400 triệu trẻ con bị mù vì thiếu sinh tố A, mà phân nửa số trẻ mù chết, và triệu chứng thiếu sinh tố còn làm nguy hại đến hệ thống miễn nhiễm của trẻ em dưới 5 tuổi (Trần Văn Đạt, 2010). Bệnh này thường xảy ra trong các nước dùng lúa gạo làm thức ăn căn bản vì gạo không chứa nhiều sinh tố A. Do đó, một số nhà khoa học đã dùng công nghệ sinh học để tìm giải pháp cho vấn đề thiếu dinh dưỡng, nhứt là thiếu chất sắt và sinh tố A, nhằm làm giảm bớt bệnh tật của trẻ con và phụ nữ.

            Năm 2000, kết quả công nghệ sáng tạo Gạo Vàng, một loại gạo biến đổi di truyền màu vàng có chứa tiền sinh tố A (beta-carotene) được công bố, đã gây tiếng vang lớn trong ngành nghiên cứu dinh dưỡng quốc tế. Đó là một thành quả nổi bật trong chương trình nghiên cứu của đội ngũ khoa học gia Thụy Sĩ và Đức quốc, được tài trợ 100 triệu Mỹ kim bởi cơ quan Rockerfeller Foundation của Mỹ. Đội ngũ này được hướng dẫn bởi Giáo sư Ingo Potrykus, Viện Kỹ Thuật Liên Bang ở Thụy Sĩ, và Tiến Sĩ Peter Beyer, Đại học Freiburg ở Đức. Các nhà khoa học đã đưa tất cả 7 gen lạ vào giống lúa japonica TP 309. Tuy nhiên, lúa vàng này chứa rất ít tiền sinh tố A (β-carotene), chỉ 1,6 microgram/gram gạo. Do đó, Dr. Rachel Drake và đồng nghiệp của công ty Hạt Giống Syngenta cuối cùng tìm thấy gen phytoene synthase trong cây bắp có thể làm cho gạo vàng (gọi là Gạo Vàng 2 – GR2) chứa đến 37 micrograms tiền sinh tố A/gram gạo (Hình . Cơ thể con người sẽ chuyển đổi beta-carotene thành sinh tố A (Trần Văn Đạt, 2010).

Dù thế, sự thành công của Gạo Vàng 2 chỉ mới một nửa công việc phải làm, phân nửa còn lại là phải giải quyết vấn đề kỹ thuật tạo ra giống lúa thích hợp cho giới tiêu thụ và môi trường địa phương, nhứt là vấn đề công luận và Nhóm Hòa bình xanh chống đối sản phẩm biến đổi di truyền GMO trên thế giới. Gạo Vàng 2 là loại gạo của lúa Japonica, không thích hợp với khẩu vị tiêu thụ tại Đông Nam Á, Nam Á, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Do đó, việc thử nghiệm Gạo Vàng 2 của Viện IRRI tại nhiều nơi Phi Luật Tân không có kết quả tốt. Họ phải thực hiện hồi giao để chuyển gen Gạo Vàng 2 vào cây lúa địa phương thuộc loại Indica và theo dõi năng suất, kháng sâu bệnh và điều kiện môi trường khắc nghiệt trước khi phổ biến đến nông dân. Công tác hồi giao gen này và các cuộc thử nghiệm phải theo đúng thủ tục gọi là Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học, đã được 165 nước và Liên Âu phê chuẩn. Cho nên, sẽ tốn nhiều thời gian cho công việc thử nghiệm an toàn (Michael Eisenstein, 2014).

Ngoài ra, công luận và Nhóm Hòa bình xanh chống đối sản phẩm GMO là một vấn đề tế nhị cần phải đối phó thích ứng và có giải pháp khôn ngoan sau khi tìm ra giống lúa Gạo Vàng 2 thích hợp. Năm 2008, Trung Quốc với sự hợp tác của Đại học Tufts University tại Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ đã thành công tạo ra giống lúa Gạo Vàng 2 cho nước này, nhưng năm 2012 khi thông tin vừa xuất hiện trên báo chí Nhóm Hòa bình xanh đã mở chiến dịch phản đối vì cho rằng Gạo Vàng 2 là thực phẩm GMO có thể không an toàn cho người tiêu dùng và gây nguy hại đến môi trường; nên dự án đã phải ngừng hoạt động.

Hình 8: Gạo Vàng (ảnh Internet)

Đầu năm 2018, Gạo vàng GR2E đã được Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Úc và Tân Tây Lan (Food Standards Australia New Zealand - FSANZ) cho phép bán trên thị trường. Khi phê chuẩn loại lúa này, FSANZ đã tuyên bố thực phẩm có nguồn gốc từ Gạo vàng sẽ phải được dán nhãn là 'biến đổi gen' vì nó có chứa DNA mới và protein mới. Các ứng dụng tương tự hiện đang được xem xét ở Mỹ, Canada và Philippines (Gary Scattergood, 2018).

Do đó, thời gian phổ biến sâu rộng Gạo Vàng trong các nước đang phát triển chưa thể xác định cụ thể. Có thể do từ nhu cầu của nông dân khi họ có cơ hội sản xuất và sử dụng Gạo Vàng có hiệu quả thực tế, lúc đó loại lúa gạo này sẽ được nhơn rộng theo thời gian và cuối cùng được công nhận.

Tóm lại, gạo vàng không phải là giải pháp duy nhứt làm giảm bớt bệnh thiếu sinh tố A và chất sắt cho nhiều trẻ em và phụ nữ trên thế giới. Bệnh thiếu dinh dưỡng là do nhiều nguyên nhân phức tạp từ mặt chính trị đến kinh tế, văn hóa và xã hội trong nhiều nước chậm tiến; cho nên, bệnh này không thể giải quyết dứt khoát bằng yếu tố kỹ thuật. Tuy nhiên, đây là một bằng chứng vững chắc cho thấy khả năng tuyệt vời của ngành công nghệ sinh học có thể giúp nhân loại giải quyết các khó khăn lớn lao cho sức khoẻ con người cũng như lãnh vực nông nghiệp, mà có lúc tưởng như bất lực. Nhưng, cần phải theo dõi các rủi ro tiềm ẩn trong các công tác thử nghiệm và sản xuất các sản phẩm biến đổi di truyền liên hệ đến sức khoẻ con người và môi trường.

(12)  Phân đạm sinh học và cây lúa (Emily Sohn, 2014):

Phân đạm (N) là một trong 3 chất dinh dưỡng chánh của thảo mộc để tạo chất protein trong quá trình dinh dưỡng cây. Hai chất dinh dưỡng chánh kia là chất lân (P2O5) và bồ tạt (K2O). Những cây họ Đậu có thể định chất đạm từ không khí để nuôi cây, nên nhiều nhà nghiên cứu muốn tạo ra cây lúa cũng có khả năng định đạm như thế để giảm giá thành sản xuất; nhưng đến nay họ chưa đạt mục đích. Nhóm nghiên cứu Đại học Alberta, Canada trong khi nghiên cứu vấn đề thiếu nước do hạn hán và thiếu khí Oxy đã tình cờ tìm thấy cây sản xuất quá nhiều chất alanine aminotransferase (AlaAT), một thứ enzym xúc tác làm biến đổi amino acids và làm tăng khả năng hấp thụ chất đạm của cây trong đất. Họ cấy gen này vào cây mù tạt canola làm cho cây dùng chất đạm ít hơn 2/3 của giống truyền thống, nhưng sản xuất cùng năng suất (9). Sau đó, chương trình được nới rộng cho cấy lúa và những ngũ cốc khác, nhưng không thành công vì kết quả thử nghiệm ngoài đồng không đồng nhứt.

Trong khi đó, năm 1988 nhà vi sinh học Johanna Döbereiner ở Brazil đã tìm thấy vi khuẩn Gluconacetobacter diazotrophicus trong cây mía có thể đinh đạm từ không khí mà không cần có các nốt nhỏ như nốt đậu. Nhờ đó, năm 2004 nhà sinh lý học Anh Quốc Tiến sĩ Edward Cocking đã dùng vi khuẩn thay vì gen để giúp cây định chất đạm mà không ảnh hưởng đến môi trường. Ông cấy vi khuẩn Gluconacetobacter diazotrophicus vào tế bào rễ cây bắp, lúa, lúa mì, cà chua, cây cải dầu, và hạt giống được bao bọc hoặc trộn rễ cây con với vi khuẩn. Kỹ thuật này đã được trao bản quyền cho công ty Azotic Technologies tại Chorley, Anh Quốc thử nghiệm ngoài đồng với lúa mì và cây cải dầu cho kết quả rất khích lệ trong 2013. Thử nghiệm này cho thấy cây sử dụng lượng phân đạm ít hơn từ 1/4 đến 1/2 mà năng suất không thay đổi. Tiến sĩ Cocking cho biết công nghệ “định đạm” này sẽ được thử nghiệm cho cây lúa ở Châu Á và Châu Phi trong tương lai gần (Leigh Dayton, 2014).

(13)  Lúa nước sâu cải tiến: Loại lúa nước sâu (hay lúa nổi) rất khó cải thiện để cho năng suất cao hơn 2t/ha vì mực nước cao (>1m) và điều kiện canh tác khó kiểm soát tại những vùng trũng thấp (Hình 9). Những khi có mưa to và không thể thoát nước kịp, nếu cây lúa bị ngập úng quá 10 ngày sẽ bị chết. Năm 1996, nhà di truyền học Pamela Ronald tại UC. Davis, California và nhà lai tạo giống David Mackill & Abdelbagi Ismail ở IRRI, Philippines đã tìm thấy một giống lúa dại chịu đựng nước ngập lâu dài. Sau đó, họ đã xác định một nhóm 3 gen điều khiển khả năng chịu nước ngập trong 2 tuần lễ. David Mackill & Abdelbagi Ismail đã dùng phương pháp tạo giống chính xác để cấy nhóm gen trên vào giống lúa Bangladesh, nơi cây lúa thường bị ngập lụt mỗi năm. Năng suất của giống lúa mới tạo này gấp 6 lần giống địa phương ở cùng nơi và đang được trồng nhiều tại Ấn Độ và Indonesia sau khi cải tiến cho thích hợp điều kiện địa phương (Felix Cheung, 2014). Các giống lúa nước sâu cải tiến này cần thử nghiệm ở các vùng nước sâu của VN, như Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và các nơi thường bị úng thủy ở Miền Bắc.

Hình 9: Ruộng lúa bị ngập nước (ảnh Internet)

Qua thời gian, các kỹ thuật sử dụng trong nông nghiệp lúa tiến hóa không ngừng, đặc biệt từ hậu bán thế kỷ XX, giúp Việt Nam tăng sản xuất lúa gạo không những đáp ứng nhu cầu trong nước, còn dư thừa xuất khẩu bình quân khoảng 4-6 triệu tấn gạo mỗi năm; tuy nhiên, nông dân không được hưởng nhiều lợi ích tương xứng từ sản phẩm của mình. Ngoài ra, Việt Nam đã gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc tế, WTO từ 2007, mở ra nhiều triển vọng cũng như khó khăn cho mọi ngành nghề trong nước, kể cả nông nghiệp lúa.

Sự gia nhập WTO sẽ tăng cường tự do hóa trong lãnh vực nông nghiệp, mang lợi ích đến giới tiêu thụ, nhưng tạo ra nhiều thách thức cạnh tranh cho nông dân. Những ngành nghề không có khả năng cạnh tranh giỏi sẽ bị đào thải theo luật kinh tế thị trường. Nông dân có thể là những người chịu thiệt thòi nhiều nhứt, nếu không nói bị bóc lột, trong khi họ không nhận được hỗ trợ nhà nước. Do đó, ngoài các chính sách, quy hoạch và quản lý tốt, công tác phát triển và khuyến khích khai thác kỹ thuật hiện đại là một giải pháp tốt giúp họ vượt khó, bằng cách cải tiến hiệu năng sản xuất, giảm giá thành và nâng cao lợi tức kinh tế; trong khi bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Các kỹ thuật tiến bộ hiện nay có thể giúp nông dân khắc phục các thách thức của thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu gồm có: ngành cơ giới hóa, nông nghiệp chính xác, quản lý tổng hợp mùa màng, phương pháp kiểm tra lúa, thu hẹp khoảng cách năng suất, siêu lúa, công nghệ sinh học, bên cạnh các hoạt động phi nông nghiệp, chủ yếu chính sách hỗ trợ nhà nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. AgBioView on line. 2005. (http://www.agbioworld.org)

2.      Andy Fell. 2018. Rice Plants That Reproduce as Clones From Seed Ability to Grow Hybrid Varieties a Potential Breakthrough for Global Agriculture

(https://www.ucdavis.edu/news/rice-plants-reproduce-clones-seed_).

3.      Barnes et al.1996. Remote sensing and precision agriculture. Paper presented at the 3rd International Conference on Prevision Agricutlure, 23-26 June 1996 in Minneapolis, MN, USA.

4.      Batte, M.T. and VanBuren, F.N. 1999. Precision farming-Factor influencing productivity. Paper presented at the Northern Ohio Crops Day meeting, Wood County, Ohio, 21 January 1999.

  1. Beyer, P. and Potrykus, I. 2000. Introducing the complete beta-carotene (pro-vitamin A) biosynthesis pathway into rice endosperm by genetic engineering. Paper presented at Symposium “Advancing rice research with cutting edge science”, held at IRRI, the Philippines, 27-29 March 2000.

6.      Bo-RanShen, Li-MinWang, Xiu-LingLin, ZhenYao, Hua-WeiXu, Cheng-HuaZhu, Hai-YanTeng, Li-LiCui, E.-E.Liu, Jian-JunZhang, Zheng-HuiHe, Xin-XiangPeng.2018. Engineering a New Chloroplastic Photorespiratory Bypass to Increase Photosynthetic Efficiency and Productivity in Rice. Molecular plant

(https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1674205218303708?via%3Dihub)

  1. Chang, T.T. 1976. The rice culture.

PhilosophicalTransactions of the Royal Society. London, B, 275:143-157.

  1. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research, Vol 59 (4): 425-455.
  2. Davis, G., and Massey, R. 2005. Precision Agriculture: An introduction. University of Missouri-Extension

10.  Emily Sohn. 2014. Contamination: The toxic side of rice. Nature Volume:514, Pages:Date published:(30 October 2014).

  1. ESRI. 2002. Geography matters. ESRI, White Paper, September 2002, New York.
  2. FAO. 2000 và 2010. FAOSTAT, Rome, Italy

13.  Felix Cheung. 2014. Yield: The search for the rice of the future. Nature 514 (30-10-2014) .

14.  Gary Scattergood. 2018. Australia, New Zealand approve purchasing of GMO Golden Rice to tackle vitamin-A deficiency in Asia

(https://geneticliteracyproject.org/2018/01/29/australia-new-zealand-approve-sale-gmo-golden-rice-effort-boost-fight-vitamin-deficiency-asia/).

15.  GigaScience. Data Note: The 3,000 rice genomes project. The 3,000 rice genomes project, GigaScience 2014, 3:7  

  1. Gomez, K.A. 1977. On-farm assessment of yield constraints: methodological problems. Constraints to high yields on Asian rice farms: an interim report. IRRI, Los Bađos, Philippines,  pp 1-16.

17.  Imtiyaz Khanday, Debra Skinner, Bing Yang, Raphael Mercier&Venkatesan Sundaresan. 2018. A male-expressed rice embryogenic trigger redirected for asexual propagation through seeds. Nature (12-2018) (https://www.nature.com/articles/s41586-018-0785-8).

18.  Khoa học & Công nghệ. 2013. Giải mã thành công hệ gen của 36 giống lúa bản địa Việt Nam. Hànộimới online 28/8/13.

  1. Khush, G.S., Bennet, J., Datta, S.K., Brar, D.S. and Li, Z. 1999. Advances in rice genetics and biotechnology. In Proceedings of the 19th Session of the Inter. Rice Comm, Cairo, Egypt, 7-9 September 1998, FAO, Rome, 64-76.

20.  Lê Huy Hàm. 2013. Công tác khoa học công nghệ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và hợp tác quốc tế của Viện Di Truyền Nông Nghiệp (Giai đoạn 2011-2013). Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất tại Viện Khoa học Nông nghiệp VN.

21.  Lê Thị Hoàn và Trần Văn Đạt. 2010. Công nghệ sinh học xanh: Tiến bộ, thách thức và công luận. Trong Vài suy nghĩ về Phát triển nông nghiệp Việt Nam trong thế kỷ 21, NXB/NN, trang 399-436.

22.  Leigh Dayton. 2014. Agribiotechnology: Blue-sky rice. Journal name:Nature Volume:514, Pages:Date published:(30 October 2014).

23.       Michael Eisenstein. 2014. Biotechnology: Against the grain. Nature 514 (30-10-

  1. Potrykus, I. 3003. Golden Rice: Potential for improving the livelihood of rice-consuming populations. In Proceedings of the 20th Session of the Inter. Rice Comm., 23-26 July 2002, Bangkok, Thailand, FAO, Rome.
  2. Lacy, J.L., Clampett, W., Lewin, L., Reinke, R., Williams, R., Beale, P., Fleming, M., Murray, A., McCaffery, D., Lattimore, M., Schipp, A. & Salvestro, R. 2001. Ricecheck recommendations. Australia, NSW Agriculture and Rice Research and Development Committee, pp 16.
  3. Lang, L. 1992. GPS+GIS+Remote sensing: An Overview. Earth Observation Mag., April: 23-26.
  4. National Research Council. 1997. Precision agriculture in the 21st century: Geospatial and information technologies in crop management. Washington: National Academy Press, pp 149.
  5. NESPAL. 2005. Benefits of precision agriculture (slides),
  6. Perry, C. 2005. GPS Guidance - Going Beyond the Hype! Precision AG Team (slides), University of Georgia, Precision AG Team Guidance files
  7. Pham Sy Tan, Trinh Quang Khuong and Tran Van Dat. 2005. Integrated Crop Management for Intensive Irrigated Rice in the Mekong Delta of Vietnam: Case studies in Can Tho and Tien Giang provinces. Paper presented at a Consultation Workshop on Rice Integrated Crop Management Systems - Rice Check Methodology for Food Security, Livelihood Improvement and Environmental Conservation, 28 Feb. to 2 March 2005 in Ho Chi Minh City, Vietnam.
  8. Redona, E.D., Castro, A.P. and Llanto, G.P. 2004. Rice Integrated Crop Management: Towards a RiceCheck System in the Philippines. PhilRice, The Philippines.
  9. Susanne von Caemmerer, W. Paul Quick, Robert T. Furbank. 2012. Development of C4 Rice: Current Progress and Future Challenges. Science  29 Jun 2012: Vol. 336, Issue 6089, pp. 1671-1672.
  10. Trần Văn Đạt. 2001. Closing the rice yield gap for food sedurity. In Rice Research for Food Security and Poverty Alleviation. Proceedings of the International Rice Research Conference, 31 March-3 April 2000, IRRI, Los Banos, Philippines, p 27-41.

34.  Trần Văn Đạt. 2010. Công nghệ sinh học trong ngành trồng lúa. Lịch sử trồng lúa Việt Nam. NXB 5-Star Printing, Hoa Kỳ, trang 313-322 (www.tranvandat.com).

  1. Trimble. 2005. Precision agriculture (www.trimble.com).

36.  Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung. 2018. Genomic variation in 3,010 diverse accessions of Asian cultivated rice. Nature, 557: 43-49.

(https://www.nature.com/articles/s41586-018-0063-9).

37.  Xu. D., Xue, Q., McElroy, D., Mawal, Y., Hilder, V.A. and Wu, R. 1996. Constitutive expression of a cowpea trypsin inhibitor gene Cpti, in transgenic rice plants confers resistance to two major rice insects pests. Molecular breeding, 2: 167-173.

  1. Yuan, L.P. 1998. Hybrid rice development and use: innovative approach and challenges. In Proceedings of the 19th Session of the Int. Rice Comm., 7-9 September 1998, Cairo, Egypt, FAO, Rome, p. 77-85.

 

CHƯƠNG 16

TIẾN HÓA THU HOẠCH VÀ

HẬU THU HOẠCH LÚA 

Các di tích khảo cổ như dao, liềm đá, nhíp đá, bàn và chày nghiền bằng đá, lu vại bằng gốm… cho biết hoạt động thu hoạch và sau thu hoạch của thời sơ sử rất đơn giản. Những chiếc vò lớn dùng để chứa thóc gạo, hầm lúa mục trong đất được phát hiện ở di chỉ Tràng Kênh, Hải Phòng trong nền văn hóa Đông Sơn đã khẳng định ngành sản xuất lúa gạo tại nước Việt cổ đã đạt đến mức độ quy mô. Những hình ảnh bông lúa trên quai trống đồng Ngoc Lũ, giã thóc cối-chày, kho chứa thóc khắc ghi trên hoa văn trống đồng Đông Sơn tượng trưng sinh hoạt phổ biến dân gian và đời sống thịnh vượng với nghề trồng lúa nước. Vào đời vua Đinh Tiên Hoàng đã có những lẫm lúa to lớn của các nhà phú hộ. Đến thời Pháp thuộc, các đại phú nông đã sở hữu những kho vựa hay lẫm lúa dài hàng trăm thước. Hiện nay, nhiều hoạt động của khâu này đã được cơ giới hóa để giảm sức lao động, thất thoát và nâng cao chất lượng, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất và đầu ra trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.

Hậu thu hoạch còn tạo ra hàng triệu công ăn việc làm từ nông thôn đến thành thị, từ đập lúa đến sấy phơi, tồn trữ, xay chà, biến chế thực phẩm và thương mại. Các ngành biến chế thực phẩm làm tăng trị giá gạo và phó sản là một trong những lối thoát tích cực cho ngành ngũ cốc này trong các nước sản xuất dư thừa, đồng thời làm tăng thêm thu nhập của nông dân, bành trướng thị trường và thu hút nhiều giới tiêu thụ trong và ngoài nước.

Khâu hậu thu hoạch là tiền đề các chính sách phát triển nông nghiệp hiện đại của nhiều nước. Sự lớn mạnh khâu này phản ánh tình trạng công nghiệp hóa tiến bộ của một quốc gia. Một chương trình phát triển nông nghiệp không thể đảm bảo thành công ở giai đoạn cuối cùng, nếu không có quy hoạch và quản lý sáng suốt, thực tế cho hậu sản xuất đến thị trường. Những kinh nghiệm về điệp khúc “trồng chặt” cây ăn quả của Việt Nam và vô số thất bại trong các khu vực phát triển nông nghiệp ở các nước chậm tiến phần lớn do từ khâu hậu thu hoạch, chủ yếu đầu ra. 

1.   VẤN ĐỀ HẬU THU HOẠCH: CHẤT LƯỢNG VÀ THẤT THOÁT LÚA

Hiện nay, thị trường thế giới có khuynh hướng quan tâm rất nhiều đến chất lượng cao của lúa gạo. Chất lượng và trị giá lúa gạo không những tùy thuộc vào bản chất di truyền giống lúa, còn bị ảnh hưởng quan trọng bởi các điều kiện hoạt động thu hoạch, biến chế và bảo quản. Do đó, áp dụng các kỹ thuật tân tiến trong các hoạt động này sẽ nâng cao sự đồng chủng, chất lượng, tồn trữ lâu dài và tăng thêm giá trị sản phẩm. Vào thời đại thông tin điện tử và phát triển công nghệ nhanh chóng, thế giới có khuynh hướng mới về tiêu dùng các loại gạo đặc biệt và phó sản biến chế trong các bữa ăn nhanh hàng ngày. Hiện tượng này đang diễn ra ở các nước công nghiệp và các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh. Có lẽ trong tương lai từ một hai thập niên tới, các loại sản phẩm gạo biến chế có thể trở nên thông dụng, chiếm ưu thế trong các món ăn nhanh, cũng giống như các sản phẩm bánh mì, spaghetti và các chất bột (pasta) chế biến từ lúa mì phổ thông trên thế giới. Hiện nay, bún khô, bánh phở khô, hủ tíu và cơm sấy đã phổ biến trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, các hoạt động hậu thu hoạch đã gây ra thất thoát một số lượng lúa gạo đáng kể, từ 5-10% tổng sản lượng ở các nước phát triển, đến 10-30% tại các nước đang phát triển, tùy theo trình độ kỹ thuật và kiến thức nông dân và thương gia liên hệ. Một số dự án FAO ước lượng thất thoát lúa ở Bangladesh khoảng 13,8%, Indonesia 11,3%, Nepal 18,6%, Sri Lanka 12,1% và Thái Lan 14,8% (Bảng 1). Việt Nam thiệt hại sau thu hoạch khoảng 10-15% hay tương đương hơn một tỉ Mỹ kim mỗi năm. Sự thất thoát sẽ nhiều hơn khi thu hoạch lúa vào mùa mưa ở những nơi có khí hậu gió mùa.

 2.   GẶT LÚA

Công tác gặt lúa truyền thống gồm nhiều động tác, trước hết hái lượm hạt lúa hoang thời sơ cổ, về sau tuốt lúa, hái gié lúa hoặc cắt thân lúa. Sau khi gặt hái, cây lúa được gom lại đặt trên mặt đất hoặc dựng đứng thành đống với gié lúa ở trên để phơi nắng, hoặc bó lúa 

Bảng 1: Ước lượng lúa thất thoát (%) trong các dự án FAO ở một số nước châu Á

Hoạt động   Sri Lanka Thái Lan  Myan  Indo    Bangla   Nepal

                                                     mar      nesia    desh                  _____________________________________________________

Gặt lúa             0,8      10,1        2,1       0,8       2,3       1,9   

Phơi ngoài đồng 0,5       1,2        0,4         -         0,7       1,9

Chuyên chở       -            1,2       0,4        -          0,5       0,5

Chất đống        2,8        1,4        -            -           -           -      

Đập lúa (gồm   0,5        0,9        0,4        -          1,4       2,2

làm sạch)        

Sấy lúa             -            -             -           2,9      2,3       1,6

Hấp lúa                        -            -             -           -          1,9        -

Tồn trữ             7,5        -             -           3,2     0,9       6,3   

Xay chà           -            -             -           4,4      3,8       4,4

Tổng cộng       12,1       14,8       -         11,3    13,8    18,6

 

Nguồn: Calverley, 1994

lại để mang về nhà, hoặc được đập tại chỗ, tùy theo điều kiện mỗi gia đình và vấn đề an ninh thôn ấp. Nếu không cẩn thận trong các công việc này có thể làm mất nhiều lúa. Trong phương pháp cổ truyền từ cắt lúa đến phơi nắng ngoài đồng có thể làm mất từ 2-7% (Toquero và Duff, 1974). Nếu gặt lúa sớm hoặc muộn hơn ngày chín còn làm mất lúa nhiều hơn nữa (Bảng 2). 

2.1.      Thời gian gặt lúa tối hảo

Công tác gặt hái ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo khi biến chế hoặc làm thất thoát lúa sau khi thu hoạch. Nếu gặt lúa quá sớm sẽ còn nhiều hạt lúa chưa chín hẳn, nên khi xay chà sẽ cho nhiều hạt bể và ít hạt nguyên. Trong khi gặt lúa quá muộn, hạt lúa còn có thể bị côn trùng, chim chuột phá hại ngoài đồng; cây lúa dễ ngã đổ và hạt dễ rơi rụng, làm thiệt hại nhiều hơn. Sự trổ bông đồng đều hoặc kéo dài của cây lúa cũng ảnh hưởng đến sự xác định ngày chín của một thửa ruộng. Những giống lúa có ít quang cảm thường trổ bông không đồng bộ, kéo dài từ 2 đến 4 tuần lễ. Các giống lúa có quang cảm trổ bông đồng đều hơn trong thời gian ngắn từ 7 đến 10 ngày. Ngoài ra, các giống  lúa sớm (90-100 ngày) thường có nhiều hạt chưa chín khi thu hoạch, so với các giống lỡ và muộn (130-180 ngày). Bảng 2 cho biết thất thoát lúa càng nhiều nếu gặt lúa sau ngày chín. Nếu gặt lúa 1 tuần lễ sau ngày chín lúa bị mất 5,6%, sau 2 tuần 8,6%, sau 3 tuần 40,7%.

Nông dân thường chú ý đến màu sắc của gié lúa và thời gian từ trổ bông để quyết định ngày thu hoạch. Họ gặt lúa khi thấy ít nhứt 90% gié có cùng màu vàng của thân rạ. Trong hệ thống canh tác cổ truyền, các kinh nghiệm về thời kỳ gặt lúa được thể hiện qua các tục ngữ sau đây:

- Cấy bằng mắt gặt bằng đầu.

- Xanh nhà hơn già đồng.

- Mùa cò chân giang, Chiêm vàng trái rợ (Gặt lúa Mùa khi thấy thân lúa vàng như màu vàng chân cò, gặt lúa Chiêm khi thấy hạt màu vàng trái bí rợ). 

Bảng 2: Thất thoát lúa theo ngày gặt trước và sau ngày chín 

 

Thất thoát (%)            0,77   3,35    5,63            8,64   40,70   60,46

 

Thời gian gặt (tuần lễ)  -1      0       +1      +2       +3       +4

      Ngày

      chín

______________________________________________________

Nguồn: Almera, 1997 

Ở các nước phát triển và thuộc miền ôn đới, nông dân quyết định ngày gặt lúa căn cứ từ ngày trổ bông đầu tiên (10% diện tích) đến ngày lúa chín, độ 35-55 ngày tùy điều kiện khí hậu. Miền nam nước Mỹ (bang Texas, Louisiana) cần 35-45 ngày, trong khi miền Bắc (bang California) cần 40-55 ngày. Tuy nhiên, thời gian gặt tối hảo tùy theo giống lúa, khoảng 1 tuần lễ trước ngày lúa chín. Nông dân ở các nước tiến bộ thường rút nước 2-3 tuần lễ trước khi gặt bằng máy gặt đập liên hợp (combine), tùy theo khí hậu và đất đai mỗi vùng. Những yếu tố khác giúp xác định ngày gặt lúa tối hảo:

- Số ngày sau khi trổ bông 50% (28-35 ngày tùy theo giống lúa) trong điều kiện khí hậu nhiệt đới;

- Khi ít nhứt 90% hạt lúa của gié ở giai đoạn cứng chắc;

- Khi ẩm độ hạt lúa ở giữa 21-25%;

- Khi thử bóc vỏ lúa thấy hạt trong và cứng.  

2.2.      Phương pháp gặt lúa

Có nhiều phương pháp gặt lúa, từ phương pháp cổ truyền còn được sử dụng trong nước đến cơ giới tân tiến, hoặc cả hai phương pháp này trong nhiều nước đang phát triển nhanh. 

2.2.1.   Phương pháp gặt hái cổ truyền

- Hái, tuốt lúa: Lúc ban sơ cư dân thường hái từng hạt trên gié lúa để ăn vì gié còn ít hạt và lúa còn trồng ít, đặc biệt hạt lúa trên mỗi gié không chín một lượt. Lúa gạo chỉ là thức ăn bổ túc. Đến khi lúa được trồng nhiều và những bộ lạc trồng lúa xuất hiện, cư dân dùng tay tuốt gié lúa và bỏ hạt vào gùi trên lưng. Lề lối thu hoạch này hiện còn thấy ở một số sắc tộc miền thượng du Bắc Việt và Tây Nguyên. 

 

 

 

 

 

Hình 1: Gặt lúa (www.bbc.co.uk), lưỡi liềm và vòng hái (Dumont, 1995) 

- Cắt gié lúa: Từ nền văn hóa Bắc Sơn, cư dân cắt gié lúa bằng dao hay liềm đá (di chỉ Cầu Sắt, Đồng Nai). Từ nền văn hóa Đông Sơn trở về sau, họ dùng các nông cụ bằng kim loại như dao hoặc nhíp, liềm bằng đồng và sắt để cắt lúa. Ngoài ra, nông dân thường cắt từng gié lúc lúa chín cho những giống lúa địa phương có hạt khó rụng, vì đập lúa khó khăn. Đặc tính “hạt khó rụng” rất quan trọng trong việc di chuyển các bó lúa từ ngoài ruộng về nhà. Phương pháp cắt gié lúa cần đến 240 giờ công/ha.

- Gặt lúa với lưỡi liềm hay vòng hái (hình 1) là phương pháp thu hoạch phổ biến ở các nước chậm tiến, cần từ 80 đến 180 giờ công/ha. Cây lúa bị cắt bằng liềm hoặc vòng hái từ 10-15 cm trên mặt đất, gom lại từng bó và đặt trên mặt đất. Hiệu năng phương pháp gặt này tùy thuộc vào người gặt, giống lúa, số chồi trên mỗi đơn vị đất, mức đổ ngã và điều kiện đất đai.

2.2.2.   Phương pháp gặt cơ giới tân tiến

Từ thời Pháp thuộc, phương pháp thu hoạch cơ giới được dùng ở nông trại lớn, nhưng còn giới hạn. Phương tiện cơ giới này được dùng khi thiếu nhân công và chỉ dành cho nông dân có nhiều ruộng đất. Hiện nay, áp dụng các loại máy gặt cơ giới còn gặp nhiều khó khăn ở nông thôn, vì:

(i)                 nông dân có lợi tức còn thấp,

(ii)               không quen thuộc với máy móc,

(iii)             không muốn rời bỏ các phương pháp cổ truyền,

(iv)             muốn giữ lại rơm rạ cho các sử dụng cần thiết khác,

(v)               ruộng đất quá nhỏ,

(vi)             không có lối vào ruộng,

(vii)           lúa chín không đều,

(viii)         đất đai không bằng phẳng, còn quá ướt v.v. 

Ngoài ra, còn có những giới hạn khác như giá phụ tùng nhập khẩu cao, bảo trì máy móc khó khăn…

Những loại máy gặt thường gặp gồm có máy gặt và bó lại, máy gặt-đập liên hợp và máy cắt lúa của IRRI.

- Máy gặt và bó lúa rất thông dụng vào lúc xưa. Máy này cắt lúa và bó lại một lần rồi để lại ở ngoài ruộng.

- Máy gặt-đập liên hợp rất phổ biến ở các nước tân tiến, châu Mỹ La Tinh. Trong khi đó, sử dụng loại máy này ở châu Á còn chậm chạp vì giá đắt. Các nước đang phát triển thường mua lại các máy gặt-đập liên hợp cũ, rẽ tiền hơn.

- Máy cắt lúa của IRRI: Đây là sáng kiến của IRRI khi thích ứng áp dụng nguyên tắc máy cắt quay vòng của Viện Nghiên Cứu Silsoe ở Anh Quốc. Máy cắt lúa này thích hợp với giống lúa cao trung bình, không đổ ngã, gié lúa thẳng và ít rụng hạt (NAPHIRE, 1997). Giá máy cắt lúa này tương đối thấp, vừa túi tiền của nông dân có lợi tức trung bình.

3.   ĐẬP LÚA

Vào thời cổ xưa, sự thu hoạch lúa tiến hóa từ việc hái từng hạt trên gié lúa hoặc tuốt cả gié đến cắt gié lúa bằng dao đá (về sau dao hoặc liềm đồng, sắt) đem về nơi cư trú để tướt hạt lúa khỏi gié trước khi bóc vỏ. Khi lúa bắt đầu sản xuất nhiều, họ dùng sức lao động để đập nhiều cây lúa (hay bó lúa) cùng một lúc trên vật cứng.

Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp đập lúa theo lối cổ truyền và kỹ thuật tân tiến. Tại các nước đang phát triển, nông dân dùng cả hai phương pháp với khả năng tài chánh của mình. Trong lề lối cổ truyền, các tiểu nông dùng sức người để đập lúa trên những mặt cứng hoặc dùng trâu bò đạp lúa trên sân. Con người đập lúa bằng tay trên những thanh gỗ hoặc đá cứng, hoặc tiến bộ hơn trong những “bồ” đập lúa (Hình 2) được bao bọc 3 bề với plastic hoặc đệm phên bằng tre nứa lát, nên có thể làm giảm bớt thất thoát hạt. Còn có những loại dụng cụ đập lúa bằng đạp chân nhanh hơn, nhưng vẫn còn dùng nhiều sức lao động vất vả. Phương pháp cổ truyền có hiệu năng thấp, chất lượng kém, mất nhiều thời gian và ảnh hưởng đến vụ kế tiếp. Giai đoạn đập lúa bằng tay có thể gây thất thoát lúa do các nguyên nhân sau:

- Nhiều hạt còn dính lại ở rơm rạ. Đập lúa lại một lần nữa giúp giảm mất mát, nhưng thực tế rất ít khi làm;

- Hạt lúa có thể bị rơi rớt khi đưa bó lúa lên cao để đập;

- Hạt có thể còn dính lại trên nền đất; và

- Chim, chuột và gia cầm phá hại.

Công việc đập lúa bằng tay là một biểu tượng của nước còn chậm tiến. Các nước tiến bộ đã bỏ giai đoạn này và dùng hệ dây chuyền cắt-suốt-đổ vào xe để chở lúa về kho vựa với máy gặt-đập liên hợp. Trong tiến trình đập lúa, hạt được tách khỏi gié lúa bằng lực “cọ xát” hoặc “chạm suốt”. Lực cọ xát do sử dụng lao động, trâu bò hoặc máy kéo, nên có thể làm hư hại đến hạt lúa; từ đó côn trùng, nấm bệnh dễ dàng xâm nhập. Các loại máy đập lúa cơ giới dùng lực chạm suốt, không ảnh hưởng nhiều đến hạt lúa. 

Các loại máy đập lúa có trang bị động cơ hiện nay trở nên thông dụng ở thôn quê vì đập lúa nhanh hơn và dễ di chuyển. Máy đập lúa được chế tạo gồm cả bộ phận suốt lúa bên trong. Những cây lúa được đưa vào và giữ ở trong ống trong khi các đinh nhọn hay mắt kẽm gai có tác động va chạm và suốt hạt lúa. IRRI đã phát triển loại máy đập Votex có trục xoay và hệ thống thổi, rất thông dụng ở Philippines, Thái Lan, Việt Nam và gần đây ở Bolivia. Máy đập này có nhiều kích thước khác nhau, thích hợp cho nông dân. Có loại máy đập có thể mang đi dễ dàng (TH3), nặng 100 kg và năng suất 400 kg lúa mỗi giờ, dành cho những nông dân có dưới 5 ha (Singh, 1994). Dĩ nhiên còn có các loại máy vừa gặt vừa đập còn gọi là máy gặt-đập liên hợp (Hình 3). Tùy theo cỡ máy, máy liên hợp có thể gặt-đập từ 2 đến 4 giờ/ha.

                                Hình 2: Đập lúa bằng tay (Dumont, 1995)

 

Hình 3: Máy gặt đập liên hợp mini do Vinappro chế tạo.

(ảnh Phan Hiếu Hiền, 2010)

4.   PHƠI SẤY LÚA

Hạt lúa là một vật sống, biết thở, hấp thụ và cho hơi nước thoát ra, tùy theo ẩm độ lúa, ẩm độ tương đối không khí và nhiệt độ môi trường xung quanh. Hạt lúa thở có thể nhận ra bằng nhiều cách: giảm trọng lượng chất khô, dùng dưỡng khí, phóng thích khí CO2 và sinh ra nhiệt lượng dưới dạng sức nóng. Tuy nhiên, hơi thở của hạt không đáng kể khi ẩm độ hạt khoảng 12-14% (Mejia, 2003). 

Sau khi thu hoạch, hạt lúa chứa ẩm độ cao từ 24 đến 26% hoặc cao hơn, tùy theo khí hậu, giống lúa và thời gian gặt. Trong điều kiện này, hạt lúa thở rất mạnh và dễ bị các vi sinh vật và côn trùng tấn công. Nhiệt độ phóng thích do hạt thở ra bị giữ lại bên trong hạt do hai vỏ trấu khép kín; nên gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và trọng lượng hạt lúa sau này. Vì vậy, phơi sấy cần phải thực hiện nhanh để làm giảm ẩm độ hạt xuống 14%, hoặc còn 18% để có thể giữ trong 2 tuần lễ khi không thể phơi sấy nhanh hơn (sấy lúa 2 lần). Công tác phơi sấy lúa rất cần thiết để tồn trữ lúa gạo lâu dài, làm dễ dàng biến chế và đảm bảo chất lượng hạt gạo trên thị trường. 

Tình trạng hạt lúa chín ngoài đồng và phương pháp phơi sấy sẽ ảnh hưởng đến cách biến chế và chất lượng gạo sau này, đặc biệt vào mùa mưa ở các vùng nhiệt đới. Thật vậy, lúa thu hoạch vào mùa mưa không phơi sấy kịp thời, nhất là khi lúa chưa đập còn chất thành đống ngoài đồng, có thể bị ẩm vàng (hoặc cháy vàng) do sinh hoạt vi khuẩn làm nhiệt độ lúa có thể lên đến 60oC. Điều đó làm hạt gạo xay trở nên cứng, màu vàng và trong đục, làm giảm bớt hàm lượng lysine độ 10%, nghĩa là giảm bớt chất protein của hạt gạo (Juliano and Hicks, 1994).

Ở nhiều thôn ấp, lúa bị mọc mầm ngay cả trên cây lúa chín ngoài ruộng khi gặp mưa hoặc hạt lúa còn độ ẩm cao trong nhiều ngày. Thiệt hại lúa trên thế giới có thể thay đổi từ 5 đến 30% tùy trình độ biến chế và bảo quản. Nếu lấy mức độ mất mát bình quân 15% của tổng sản lượng lúa thu hoạch trên thế giới (760 triệu tấn), sự thất thoát có thể đến 114 triệu tấn lúa hay tương đương 17 tỷ Mỹ kim (150 Mỹ kim/tấn lúa năm 2017) trong khâu hậu thu hoạch. Đây là số thiệt hại hàng năm to lớn cho nhân loại; tuy nhiên, sự cải tiến khâu này còn chậm chạp, nhứt là tại các nước đang phát triển, nên cần phải có tư duy mới trong các lãnh vực:

1)      Chính sách, quản lý và những chương trình kết hợp bảo quản và biến chế thực tiển trong nước;

2)      Các kỹ thuật phơi sấy, xay chà và tồn trữ thích hợp cho kinh tế nông thôn;

3)      Tín dụng nông nghiệp cấp xã để tích cực hỗ trợ nông dân; và

4)      Khảo cứu và khuyến nông liên hệ đến thu hoạch và hậu thu hoạch. 

4.1.      Ẩm độ

Yếu tố ẩm độ của không khí và hạt lúa lúc gặt, phơi hoặc sấy, tồn trữ và xay chà rất quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng gạo sau khi biến chế. 

-  Ẩm độ tương đối của không khí (Rh, đơn vị %) là tình trạng hơi nước trong không khí. Nếu ẩm độ tương đối bằng zero có nghĩa là không khí rất khô, và Rh = 100% có nghĩa là không khí có hơi nước bảo hòa. Ở vùng có khí hậu sa mạc của châu Phi có ẩm độ tương đối từ 20-30%, ở châu Á vào mùa mưa Rh có thể lên đến 90%. Ẩm độ tương đối ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình sấy lúa tại một thời điểm nào đó, nhất là khi việc sấy lúa chỉ diễn ra trong vài giờ hoặc vài ba ngày.

-  Ẩm độ hạt lúa (đơn vị %) là tỉ lệ khối lượng nước trong hạt lúa đối với khối lượng của toàn hạt (nước + chất khô). Thường sau khi gặt, lúa có ẩm độ từ 18% đến 30% hoặc cao hơn tùy theo vụ hoặc các vùng sinh thái khác nhau. Ở vùng ôn đới, lúa sau khi gặt có ẩm độ từ 18-20% trong khi ở vùng nhiệt đới ẩm độ từ 22-30%. Lúa có ẩm độ 14% có thể tồn trữ từ một đến 2 năm trong khi có ẩm độ 17-18% chỉ có thể giữ 10 ngày đến 2 tuần lễ mà thôi. 

4.2.      Các phương pháp làm khô hạt lúa

Tùy theo điều kiện khí hậu và mức độ phát triển kinh tế quốc gia, ngành phơi sấy lúa sau khi gặt còn nặng tính chất cổ truyền ở các nước chậm tiến, hoặc trang bị với các kỹ thuật tân tiến được dùng từ lâu ở các nước tiến bộ. Một cách tổng quát, tùy theo khí hậu, phương pháp làm khô lúa chủ yếu được áp dụng ở những vùng sản xuất rộng lớn như sau (Chitchfield, 1974):

-          Vùng nhiệt đới mưa:                Phơi nắng.

-          Vùng nhiệt đới gió mùa:          Phơi nắng và sấy sàng.

-          Vùng nhiệt đới khô và ẩm:      Phơi nắng và máy sấy cột.

-          Khí hậu nhiệt đới khô khan và

bán khô khan:                Phơi lúa trong thùng với không khí.

-          Mùa hè khô cận nhiệt đới:       Máy sấy cột.

-          Vùng cận nhiệt đới ẩm ướt:      Máy sấy sàng, cột, không khí.

-          [Vùng ôn đới:                          Máy sấy cột, sàng]. 

4.2.1.      Phơi lúa cổ truyền

Đây là cách phơi lúa dưới sức nóng mặt trời, được dùng hàng ngàn năm, vì thực hiện dễ dàng và ít tổn phí năng lượng (Hình 4). Nhưng sức nóng mặt trời không thể kiểm soát được, nhiệt độ quá 40oC làm hạt gạo nát nhiều khi xay chà, hoặc bị hư hại khi trời mưa gió. Phương pháp này còn đòi hỏi nhiều lao động, hạt lúa dễ bị vàng và nấm mốc tấn công; làm ảnh hưởng đến năng suất xay chà và chất lượng lúa gạo. Dĩ nhiên, phương pháp phơi lúa cổ truyền làm thất thoát một số lượng lúa đáng kể, thường từ 2 - 4%. Sau khi gặt, lúa được phơi bằng ba phương pháp sau:

1)      Lúa được làm thành những bó lúa nhỏ để nằm trên mô rải rác trong ruộng hoặc đặt lúa đứng thành đống với gié lúa hướng lên trên để phơi ngoài ruộng từ 2-3 ngày, nếu vào mùa nắng và có điều kiện an ninh tốt. Sau đó, lúa được đập ngoài đồng. Thời gian có thể kéo dài đến vài tuần lễ. 

2)      Lúa được đập tại chỗ ngay sau khi gặt và được tải về nhà để phơi nắng trên sân gạch, hoặc tráng ciment, hoặc sân đất được tráng một lớp mỏng phân trâu bò đã khô, trước khi đem tồn trữ. 

3)      Ngoài ra, nông dân còn phơi lúa (hạt hoặc cây lúa cắt) trên các con đường tráng nhựa xuyên qua các vùng trồng lúa, hoặc tại sân nhà. 

Lý do thất thoát lúa trong khi phơi sấy (Mejia, 2003):

- Hạt rơi rụng trong phương pháp cổ truyền hoặc mất mát trong khi chuyên chở về nhà,

- Chim và gia cầm phá hại,

- Lúa bị mất khi rời khỏi sân phơi do các hoạt động liên hệ,

- Phơi sấy quá độ, nhứt là phơi nắng,

- Phơi sấy muộn hay thiếu thoáng khí, gây ra hiện tượng sinh nhiệt trong các đống lúa.

Để tránh bị mất nhiều lúa, tăng năng suất xay chà và chất lượng hạt gạo, cần phải (i) gặt lúa vừa đủ chín có ẩm độ thấp (18-25%) và (ii) đập và phơi lúa ngay sau khi gặt trong 1-2 ngày. Nếu kéo dài tình trạng phơi đập trong nhiều ngày ở ngoài đồng, sự cân bằng của ẩm độ trong hạt lúa thay đổi nhiều lần, đặc biệt khi gặp mưa làm cho hạt gạo dễ bị nứt bể, nấm mốc tấn công, chim chuột phá hại và hạt lúa có thể mọc mầm.

4.2.2.  Kỹ thuật sấy lúa tân tiến

Kỹ thuật sấy lúa tân tiến phải dùng đến hơi nóng nhân tạo để làm khô hạt lúa khi nào cần đến. Kỹ thuật này rất lợi ích không những nâng cao năng suất xay chà và tỉ lệ hạt gạo nguyên, còn giải quyết cho phơi sấy vào mùa mưa và vấn đề thiếu nhân công. Các kỹ thuật tân tiến được áp dụng triệt để ở các nước phát triển, do đó mức thất thoát rất ít (<5%). Ở Việt Nam, phổ biến máy sấy lúa chậm hơn các nước láng giềng và chỉ bắt đầu từ 1982 với 2 máy sấy tĩnh (Batch), nhưng đến 1997 với 1500 máy sấy tĩnh có khả năng sấy từ 3-8 tấn/mẻ. Do đó, chỉ có 9% tổng sản lượng lúa của nước được sấy công nghiệp (Phan Hữu Hiền et al., 2000).

Kỹ thuật sấy lúa tân tiến là một phương tiện cơ giới, nhân tạo để làm khô các sản phẩm bị ướt và có những đặc tính sau đây để phân loại máy sấy (Teter, 1987, Phan Hiếu Hiền et al., 2000):

(i)                 Nhiệt năng thêm vào không khí, hay nhiệt độ tăng thêm trong bầu không khí;

(ii)               Số lượng không khí dùng liên hệ với số lượng lúa để sấy (m3/t x min);

(iii)             Vị trí và vận chuyển lúa liên hệ đến chiều hướng và vận chuyển không khí;

(iv)             Phương pháp cung cấp nhiệt và làm nguội lúa.

Mỗi loại máy sấy có những yếu tố nêu trên khác nhau. Nhiệt năng có thể thêm vào không khí nhiều đến 50oC cho sấy lúa hấp lúc ban đầu. Luồng không khí từ 1 đến 100m3/t x min được dùng. Lúa được chứa trong thùng có đáy nghiêng hay bằng, trong khối trụ không pha trộn hay pha trộn giới hạn, xung quanh ống dẫn khí hay trong thùng xoay quanh ống dẫn khí trung tâm. Lúa nằm một chỗ suốt thời gian sấy trong máy sấy Batch, hay lúa di chuyển liên tục trong máy sấy. Luồng gió có thể xuyên qua lớp lúa; thổi xuyên qua khắp hướng; thổi ngược chiều với hướng lúa di chuyển.

Máy sấy hoạt động giữa hai giai đoạn: tiếp nhận và tồn trữ. Máy sấy còn có thể trang bị thêm thùng làm nguội sau khi sấy. Nếu lúa quá dơ bẩn, một thiết bị làm sạch được thêm vào giữa bộ phận tiếp nhận và máy sấy. Một máy sấy lúa có những bộ phận cơ bản như: bộ phận đốt, quạt, ống dẫn khí, phòng sấy, bộ phận tiếp nhận và thải hồi lúa. Cũng có vài loại máy sấy có phòng lạnh hay những thùng làm nguội.

Thế giới có nhiều loại máy sấy batch phổ thông: máy sấy sàn bằng, máy sấy sàn nghiêng, máy sấy tỏa khí nóng, máy sấy hình trụ, v.v.. Lựa chọn loại máy sấy tùy thuộc vào nhiều yếu tố:

(i)     nhu cầu về khả năng sấy,

(ii)   dễ thiết lập và hoạt động,

(iii) có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác,

(iv) nguồn nhiệt đầy đủ, và

(v)   giá máy sấy (Mejia, 2003). 

Hiện nay, các chuyên gia cũng thiết lập phần mềm vi tính để giúp các nhà khảo cứu nông nghiệp và nông dân lựa chọn đúng máy sấy cho nhiều loại màu quan trọng, gồm cả lúa (Dissanayake, 1991). Một cách tổng quát, có hai loại máy sấy:

(a) Máy sấy tĩnh (Batch) gồm một thùng có đáy nhiều lỗ, với một lần sấy cho đến khi nào xong (Hình 5), và

(b) Máy sấy liên tục (động), gồm cả loại có khuấy trộn hay không, với sấy lúa nhiều lần.

Hình 4: Phơi lúa để xuất khẩu

(Ảnh của Thông Tấn Xã VN- Tuổi Trẻ)

 

 

Hình 5: Họa hình máy sấy Batch (Teter, 1987)

 

Do đó máy sấy còn có thể xếp loại: máy sấy một lần hay Batchmáy sấy nhiều lần. Nếu lúa làm khô nhanh quá hay nhiệt độ khí nóng cao quá có thể làm hại hạt lúa, nên các nhà máy sấy thường sấy lúa nhiều lần, thường từ 3 đến 5 lần. Cứ mỗi lần sấy lúa được chuyển đến phòng lạnh để làm cho ẩm độ hạt lúa ổn định (độ 24 giờ), rồi tiếp tục sấy.

Trong thực tế, sử dụng máy sấy có nhiều khó khăn, đặc biệt ở các vùng nông thôn và các nơi xa xôi (Andales, 1996):

- Nhiên liệu bất thường và giá cao,

- Đa số nông dân sản xuất số lượng lúa nhỏ, nên dễ dàng phơi nắng,

- Thiếu vốn để đầu tư cho máy sấy cơ giới, và

- Thiếu kiến thức và kinh nghiệm về kỹ thuật phơi sấy tân tiến. 

5.   XAY CHÀ LÚA

Hạt lúa gồm hai vỏ trấu trên và dưới (16-28% trọng lượng) và gạo lứt (72-84%). Hạt gạo lứt gồm có cám (lớp biểu bì, quả bì và chủng bì: 6-7%), phôi mầm (2-3%) và phôi nhủ (lớp aleurone và phôi nhũ) 89-94% (Juliano, 2003).

Kỹ nghệ xay chà làm tách vỏ trấu và làm trắng hạt (đánh bóng) để tạo ra sản phẩm gọi là gạo trắng nguyên cùng các phó sản như cám, tấm và trấu. Năng suất xay chà hiện nay đạt đến 68-70% gạo và tấm trong khi lý thuyết 71-73%. Ở các nước chậm tiến năng suất khoảng 60-65% mà thôi. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất xay chà gồm có:

(i)         giống lúa,

(ii)       tình trạng hạt lúa trong khi xay chà,

(iii)     mức độ xay chà mong muốn,

(iv)     loại máy xay chà,

(v)       người điều khiển máy và

(vi)     phá hại côn trùng. 

Các giống lúa khác nhau có thể làm cho hạt gạo xay chà bị vỡ nhiều hay ít. Thời kỳ thu hoạch, phơi sấy và tồn trữ không tốt và các phương pháp xay chà làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng gạo, nhứt là bách phân hạt nguyên sau khi xay chà. Ẩm độ lý tưởng để xay chà lúa là 14%, nếu hạt có ẩm độ cao hơn sẽ cho nhiều bột gạo, nếu hạt có ẩm độ ít hơn, sẽ cho nhiều gạo bể và bột.

Giới tiêu thụ thường thích cả gạo nguyên hoặc tấm. Họ có thể chấp nhận một số lượng tấm từ 0 đến 40%. Chẳng hạn, dân Senegal và Côte d’Ivoire thích ăn hạt tấm hơn là hạt gạo nguyên. Hai nước này nhập cảng gạo từ châu Á để xay thành tấm trước khi đem bán ra thị trường, vì thói quen của giới tiêu thụ. Thật vậy, vào đầu thế kỷ 20, Pháp đem gạo lúa nổi có rất nhiều tấm và các loại tấm khác rẽ tiền du nhập vào xứ Senegal và một số nước thuộc địa Tây Phi Châu để bán cho giới tiêu thụ. Từ đó, người địa phương có thói quen thích ăn gạo tấm. Cho nên, loại máy xay Votex do Hà Lan chế tạo, được đưa vào một số nước Tây Phi chỉ có nhiệm vụ xay lúa thành tấm mà thôi, ngay cả trấu cũng bị nghiền nát. 

5.1.      Phương pháp xay chà cổ truyền

Trong nền văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á cách nay độ 7 000-10 000 năm, con người đã biết thuần hóa, trồng lúa, biết hái hạt, bóc vỏ trấu để ăn hạt gạo ngon thơm bên trong. Vào thời đại Đồ Đá Mới (đá mài) cách nay khoảng 6 000 năm, cư dân Việt Nam đã biết dùng bàn đá nghiền để chà xát nhiều hạt cùng một lúc. Đến nền văn hóa Đồng Đậu và Gò Mun (1 500 - 500 năm tr CN), khoảng thời đại Hùng Vương, người Việt Cổ biết dùng cối và chày để giã gạo. Các hình ảnh này đã được khắc ghi trên hoa văn trống đồng khám phá đầu thế kỷ XX. Từ thời Bắc thuộc đến Pháp thuộc, nông dân dùng cối xay thóc bằng đá hoặc đất sét (Hình 6), cối chày giã gạo (Hình 7) ở các vùng nông thôn không có sẵn năng lượng. Các phương pháp cổ truyền này tạo ra sản phẩm với nhiều tấm, cần nhiều sức lao động và thời gian, nên về sau không còn phổ biến nữa.

Sau đó, một số nhà máy xay lớn được xây dựng ở các xã, nên người dân, phần lớn phụ nữ phải gánh lúa từ thôn ấp đến nhà máy để xay chà. Ở Miền Nam, kể từ thập niên 1960, các máy xay chà nhỏ chế tạo tại Nhựt Bổn, xuất hiện rầm rộ ở các thôn ấp xa xôi rất tiện lợi, nên nhiều nhà máy xay lớn ở các xã lần lượt biến mất. 

5.2.      Máy xay chà tân tiến

Hiện nay, có nhiều loại máy xay chà có khả năng biến chế từ nhỏ đến lớn, như máy bốc vỏ bằng thép, loại trục cao su và hệ thống xay chà khác gồm hỗn hợp các thiết bị hữu hiệu có mặt trên thị trường. Có thể phân loại 5 hệ thống xay chà khác nhau trên thế giới:

1)      Máy xay Engelberg với trục thép;

2)      Máy bóc vỏ trấu bằng đĩa;

3)      Máy bóc vỏ trấu bằng trục cao su;

4)      Máy xay chà đa hệ, và

5)      Máy xay liên hợp (bóc vỏ cao su và đánh bóng) (Lozare et al., 1996 và FAO/Inpho on line, 2004).

Hình 6: Phơi và quạt lúa & Cối xay lúa (Dumont, 1995)

 Hình 7: Giã gạo: cối và chày (ảnh Anynomous) 

Các máy xay chà tân thời dùng rất nhiều thiết bị tốt để đánh bóng, phân hạng, đo trọng lượng, phân tích lúa và gạo lứt, phân tách tấm và các phó sản khác. Nhiều máy bóc vỏ với trục cao su được dùng cùng lúc để tăng khả năng xay chà, nhiều máy đánh bóng chà xát và nhiều máy đánh bóng cọ xát được sử dụng, miễn cần ít sức ép và cọ xát để loại bỏ cám từ hạt, tránh làm nát hạt. Các máy xay chà liên hợp này vẫn tốt hơn loại máy xay chà thép, vì bóc vỏ và loại bỏ cám riêng rẽ nhau.

Tại các nhà máy xay chà lớn, bộ phận đánh bóng thường là các loại chà xát và cọ xát. Một cách tổng quát, loại máy bóc vỏ bằng trục cao su liên hợp với bộ phận đánh bóng cọ xát hoặc chà xát cho chất lượng gạo cao hơn, với bình quân 62% gạo nguyên và ít phó sản tấm.  

6.   TỒN TRỮ LÚA

Đối với nhà nông, tồn trữ là một hoạt động nông nghiệp rất quan trọng liên hệ đến (i) an ninh lương thực trong những lúc chưa thu hoạch mùa tới, (ii) một phương cách chờ đợi để bán ra thị trường với giá cao và (iii) tránh thất thoát do sâu bệnh, chim chuột phá hại. Tồn trữ lúa hữu hiệu và quản lý tốt làm giảm bớt thất thoát và tăng chất lượng trong giai đoạn biến chế. Sự tồn trữ này được lâu dài hay không là do điều kiện lúc thu hoạch và phơi sấy cũng như điều kiện và bản chất kho vựa. Thời gian tồn trữ tùy thuộc vào thị trường, bình quân từ 5 đến 8 tháng. Ở những nơi dùng kỹ thuật tân tiến, lúa sau khi sấy xong và trước khi đem tồn trữ, không mang các mầm sâu bệnh. 

6.1.      Nguyên tắc tồn trữ

Ở Việt Nam, mùa thu hoạch thường gặp mưa nên có ẩm độ không khí cao, cũng như hạt lúa chứa ẩm độ 24-25% hoặc lớn hơn. Tình trạng này rất lý tưởng cho hạt lúa bị phá hại, nhứt là tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm ướt, do (i) các côn trùng và nấm bệnh, (ii) hạt lúa biến đổi tính chất sinh hóa: hạt gạo mềm chua hoặc nẩy mầm, và (iii) dễ bị nứt bể. Để giảm thiểu các vấn đề này, tồn trữ lúa gạo cần phải chú ý đến các yếu tố như nhiệt độ, ẩm độ, côn trùng phá hại và vấn đề vệ sinh (UNIFEM, 1994).

-          Ẩm độ: Ẩm độ là yếu tố quan trọng nhứt ảnh hưởng đến lượng và phẩm hạt lúa, như đã thảo luận trong phần sấy lúa. Ẩm độ lý tưởng cho lúa tồn trữ là 14% và hạt giống là 12%, nhưng ẩm độ hạt lúa có khuynh hướng đạt đến tình trạng cân bằng với ẩm độ không khí.

-          Nhiệt độ: Các kho vựa thường có nhiệt độ từ 25 đến 35oC do ánh sáng mặt trời làm tăng sinh hoạt thở của hạt lúa và hoạt động côn trùng. Do đó, kho vựa phải được che chở, thoáng khí hoặc giữ nhiệt độ thấp.

-          Bảo vệ kho vựa: Chống các côn trùng và thú phá hại, đặc biệt chim, chuột, kiến, mối và các côn trùng kho vựa. Cho nên, kho vựa phải được xây cất, che kín đáo bằng ván gỗ, phên nứa và tốt hơn hết bằng kim loại; hoặc dùng biện pháp phun khói để phòng ngừa côn trùng; bẫy mồi chống chim chuột bên ngoài... 

-          Vệ sinh: Giữ kho vựa sạch sẽ bên ngoài và bên trong sẽ đóng góp làm giảm thiểu phá hại côn trùng, nấm bệnh, cầm thú... Lúa tồn trữ phải sạch sẽ, không có nhiều chất dơ bẩn như bụi, cát, đất, đá, trấu, hạt chưa đủ chín, hạt lép, hạt cỏ dại...    

6.2.      Phương pháp tồn trữ cổ truyền

Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết cách tồn trữ lúa gạo để có thể lưu giữ thức ăn lâu dài trong các thạp, bình, vại (Hình , lu bằng đất sét, ngay cả hầm đất thời Cổ Đại hầu tránh muôn thú và côn trùng phá hại. Ở thôn quê, nông dân còn chứa lúa trong những chiếc bồ bằng tre nứa; bao bố (Hình 9); hoặc trong các thùng silo bằng tre nứa (Hình 10), lát sậy hoặc bằng đất sét + ciment; dưới mái nhà và trên bếp (Hình 11) để dùng khói xông kho chứa… 

6.3.      Phương pháp tồn trữ tiến bộ

-          Bao plastic: Nhựt Bổn thường tồn trữ lúa trong các bao plastic, nên có thể theo dõi tình trạng lúa trong bao (Hình 12).

-          Thùng silo nhỏ (thùng dầu) kim loại: Ở Trung Mỹ, có 230000 thùng silo nhỏ kim loại được dùng để tồn trữ lúa và các hạt khác vì rẽ tiền, dễ sử dụng, dễ phun khói, không bị phá hại bởi chim chuột, không bị thất thoát. Những thùng này có thể chứa từ 0,2 đến 2 tấn lúa (Hình 13). Tùy theo kích thước và địa lý, giá mỗi thùng từ 10 đến 100 Mỹ kim cho sức chứa từ 200kg đến 2000kg. Tuy nhiên, lúa phải có ẩm độ 14% trước khi chứa (Mejia, 2003).

-          Thùng silo kim loại: Thùng có hình trụ và có thể chứa đến 5 tấn lúa. Những silo kim loại nhỏ có hệ thống gió được đặt trên đỉnh silo. Những loại silo này rất đắt giá (Hình 14).

-          Thùng silo gạch cốt sắt: Loại thùng này thích ứng với các nước nhiệt đới khô và ẩm ướt, nhưng phải có mái che mưa. Thùng được xây bằng gạch trên nền beton cốt sắt được sơn bằng các dầu sơn căn bản cao-su hoặc chất nhựa đường.

-          Thùng silo ciment cốt sắt: Loại thùng silo này được xây dựng bằng cát và ciment trên nền có hai lớp beton cốt sắt cách nhau bởi một lớp nhựa đường, hoặc plastic hoặc lớp kim loại (Thái Lan). Loại silo này có hình nón, che mưa, kín gió và khả năng chứa từ 4 đến 6 tấn lúa.  

          Hình 10: Bồ phên tre                        Hình 11: Kho vựa có mái

               (UNIFEM, 1994)                                      (UNIFEM, 1994)

 

                                       Hình 12: Bao Plastic (UNIFEM, 1994)

 

 

 

 

 

 

 

Hình 13: Thùng kim loại (UNIFEM, 1994`)

 

   Hình 14: Silo kim loại

        (UNIFEM, 1994)

7.   SỬ DỤNG VÀ BIẾN CHẾ LÚA GẠO

Cây lúa là loài thảo mộc đa năng, vừa cung cấp thực phẩm cho hơn 96 triệu dân trong nước vừa mang đến hàng triệu việc làm ở nông thôn và các lãnh vực liên hệ, đồng thời mang về ngoại tệ cho đất nước từ xuất khẩu. Tất cả các bộ phận cây lúa gồm thân, lá, hạt và các phó sản của hạt được con người sử dụng triệt để, không loại bỏ bất cứ thành phần nào. Qua hàng thế kỷ, nhiều sáng kiến và kinh nghiệm từ nông dân mộc mạc đến các nhà khảo cứu nhiệt tâm đã tạo ra hàng loạt các sản phẩm chế biến từ gạo và phó sản để cung ứng cho nhân loại tiêu dùng, cải tiến tình trạng dinh dưỡng và nâng cao lợi tức người sản xuất. Vào thời đại Hùng Vương, dân tộc Việt đã biết làm bánh chưng, bánh dày để cúng tổ tiên, biết dùng gạo nếp nấu rượu. Từ đó, người dân lần lượt biết dùng các bộ phận khác của cây lúa và các phó sản sau khi xay chà. Những hình ảnh giã gạo được khắc ghi trên hoa văn trống đồng Đông Sơn, cho thấy những phó sản cám, tấm, trấu nát do giã gạo có thể được dùng nuôi gia súc.

Cây lúa sau khi gặt xong cho rơm rạ. Kỹ nghệ xay chà sản xuất gạo và các phó sản trấu, tấm và cám. Tất cả sản phẩm này đều được con người đặc biệt sử dụng trong đời sống hàng ngày để tạo lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Rơm rạ dùng để làm thực phẩm gia súc, phân compost, cung cấp năng lượng nông thôn, trồng nấm rơm, làm vật liệu xây cất... Vỏ trấu được dùng trong nhiều lãnh vực, chủ yếu sản xuất năng lượng như nhiệt, điện và gas, tạo ra các loại than trấu, vật liệu xây dựng, thức ăn nuôi gia súc, sản xuất chất silica, làm phân bón... Cám là thức ăn bổ dưỡng cho cả người và gia súc, sản xuất dầu cám, dược phẩm. Gạo và tấm dùng làm thức ăn cho người, gia súc và có thể chế biến ra nhiều loại thức ăn phổ thông, như bột gạo để làm các loại bánh tráng, bánh phồng, bánh đút, bún, bánh bột gạo, các thức ăn nhanh như cớm, gạo sấy, gạo ép, gạo nở, cơm hộp, thính, hoặc dùng để chế tạo mạch nha, rượu gạo và một số sản phẩm khác.

Phương pháp sử dụng các bộ phận cây lúa và phó sản trấu, cám và tấm được đề cập chi tiết sau đây (Juliano and Hicks, 1994; Lozare, Hicks và Kouthon, 1996; RAP/FAO, 1997a; RAP/FAO, 1997b (Rice by-products in Asia) và Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế - IRC, FAO, Rome) (Xem thêm chi tiết ở Trần Văn Đạt, 2005: Chương 11: Sử dụng cây lúa và phó sản lúa gạo, tr 237-248): 

7.1.      Rơm rạ

Rơm rạ là thành phần dư thừa sau khi gặt lúa, gồm có thân, bẹ và lá. Rơm rạ có thể chiếm từ 50 đến 70% tổng sản lượng mỗi hecta trồng lúa, tùy theo chỉ số thu hoạch của từng giống lúa (tổng số lượng hạt khô trên tổng số lượng các chất khô sau khi thu hoạch gồm cả hạt và cây lúa). Chỉ số thu hoạch của giống lúa cổ truyền từ 0,2 đến 0,3 và giống lúa hiện đại 0,4 - 0,5. Giống lúa cổ truyền có thể sản xuất đến 70% rơm rạ và chỉ có 30% hạt hoặc ít hơn, các giống lúa cao năng cho rơm rạ khoảng 50-60% tổng sản lượng chất khô. Cuộc điều nghiên của FAO cho biết rằng sử dụng rơm rạ có tính cách cổ truyền, thích ứng cho nhu cầu người dân nông thôn.   

Rơm rạ được dùng trong nhiều lãnh vực liên hệ đến đời sống như sau (RAP/FAO, 1997b): 

·         Thực phẩm gia súc: Đa số nông dân dùng rơm phụ thêm cỏ để nuôi trâu bò mặc dù chất lượng rơm rất kém về protein, cao silica, nhiều lignin. Đối với trâu bò sữa, người ta còn bổ túc thêm những thức ăn phó sản có nhiều chất bổ dưỡng như bánh dầu, cám, v.v. Nông dân thường gom rơm rạ khô chất thành đống quanh nhà dành cho trâu bò ăn hoặc dùng để nấu nướng . Rơm rạ được ủ với urê để tăng mức tiêu hóa cho trâu bò đã gây chú ý giới chăn nuôi. Phương pháp này gồm tưới nước loãng có 4-5% urê vào rơm với tỉ lệ rơm-nước urê 1:1 để có ẩm độ 55-60%, đem ủ 6 tuần lễ trong một nơi kín, ít không khí. Độ tiêu hóa của loại rơm ủ này tăng từ 5-7% và giúp thú ăn nhiều hơn.100%

                 Hình 15: Đống rơm   Nấm rơm:

Rơm còn được dùng che đất trồng rau cải và sản xuất nấm rơm quy mô ở Việt Nam.

Nấm rơm (Volvaria esculenta) và nấm hào (oyster mushroom) (Pleurotus ostreatus) là loại nấm sản xuất từ rơm, có chất lượng dinh dưỡng cao và khẩu vị ngon. Hiệu năng biến đổi sinh học khoảng 10,5% cho nấm Volcariella ở ngoài trời và 25% ở trong nhà; 60% cho nấm Pleurotus và cao hơn nữa khi cám được thêm vào (RAP/FAO, 1997b). Loại nấm rơm này được khám phá vào năm 1937 bởi Giáo Sư Kahn Jalavicharana ở Thái Lan trong khi nghiên cứu về nấm rơm với phương pháp tân tiến (Lozara et al., 1996). Nhưng mãi đến 1972, trường Đại Học Kasetsart thành lập một “Tổ Làm Nấm” để khai triển chương trình trồng nấm rơm trong nước, được dân chúng ưa chuộng khi nấm rơm được dùng để nấu canh chua Thái (tom yam).

Tại Việt Nam, vào đầu thập niên 1960, Bà Ngyễn Thị Oanh, thuộc Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp bắt đầu nghiên cứu sản xuất meo nấm rơm và Sở Khuyến Nông thuộc Bộ Canh Nông Miền Nam phổ biến và hướng dẫn nông dân phương pháp trồng nấm rơm đơn giản với hiệu quả cao. Phong trào trồng nấm rơm có lúc sôi động như chương trình cá rô Phi, phát triển rộng rãi ở Miền Nam từ đầu thập niên 1970s.

·         Phân bón: Rơm rạ được chôn trong đất sau khi thu hoạch ở những vùng có khí hậu nóng và ẩm ướt có thể làm tăng năng suất lúa vào vụ kế tiếp. Độ 4-5 tấn rơm có thể làm tăng 0,4 t/ha lúa. Theo Ponnamperuma (1984), rơm rạ có ích lợi cho các nơi trồng lúa nước vì một tấn rơm có thể cung cấp 9 kgN, 2 KgP và S, 25 KgK, 70 KgSi, 6 kgCa và 2 kgMg.

·         Compost: Rơm được ủ trong các hầm với nước phân thú hoặc pha trộn với urê sẽ trở thành loại phân hữu cơ tốt cho cây lúa và rau hoa. Rơm compost dùng để tránh ảnh hưởng xấu trực tiếp của thành phần hữu cơ đối với hoa màu, do quá trình làm cố định chất đạm và giảm độ pH của đất. Trong quá trình phân hóa rơm rạ, chất carbon giảm lần trong khi chất N tăng lên, C/N dưới 20%, N 2% và giảm tỉ lệ chất đường dưới 35%. 

·         Năng lượng và xây cất: Rơm được dùng thay thế năng lượng để nấu nướng ở các vùng nông thôn. Sản xuất xăng gasohol ở California, Brazil. Một máy sản xuất gasohol được xây dựng ở tỉnh Đồng Nai. Vật liệu xây cất: Rơm pha trộn với đất bùn, đất sét và trấu để làm vách tường cho nhà cửa ở nông thôn.

Ngoài ra, rơm rạ còn dùng để sản xuất giấy, chất silica, gas sinh học, chất chống vi khuẩn, sản xuất chất cellophane và chất đệm xúc tác (catalyst support). 

7.2.      Vỏ trấu (Hình 16)

Vỏ trấu là một sản phẩm cuối cùng của công nghệ biến chế xay chà lúa, thường chiếm từ 16-28% trọng lượng hạt khô tùy theo giống lúa, loại hạt lúa, đất đai và khí hậu; nhưng bình quân 20%. Vỏ trấu có rất ít chất protein thô và chất béo. Carbon chiếm 40%, oxy 36% và hydro 5%. Tro trấu sau khi đốt chiếm 18,24% và được cấu tạo bởi 90-97% silica, cùng với Ca, Mg, K, Na, P, S, Al, Mn và Fe (RAP/FAO, 1997b).

Đối với những nhà máy xay chà tân tiến, vỏ trấu được tách ra khỏi hạt trong giai đoạn đánh bóng hạt, do đó trấu được thải bỏ gần 100%. Vỏ trấu có hàm lượng silica cao nên cứng chắc, được dùng làm vật liệu xây cất. Vỏ trấu còn có trị giá nhiệt lượng cao đến 3 000 kilocalo/kg trấu, cho nên dùng để thay thế nhiệt lượng trong nấu nướng ở nông thôn và sản xuất nhiệt điện. Ngoài ra, do tỉ trọng của vỏ trấu rất nhẹ, khoảng 120kg/m3, chi phí vận tải rất cao. Cho nên, trấu ít được dùng làm năng lượng ở một vài nơi, thường bị vất bỏ bừa bãi và gây ra ô nhiễm cho môi trường xung quanh nhà máy xay lúa, nếu không được xử lý kịp thời. Vỏ trấu được sử dụng trong các trường hợp sau đây (Lozare et al., 1996):

                               Hình 16: Vỏ trấu (ảnh Dantri.com.vn)

·         Năng lượng: Vỏ trấu dùng thay thế năng lượng trong đời sống hàng ngày qua hàng ngàn năm, khi con người biết dùng hạt lúa gạo để ăn hàng ngày trong gia đình và nhà hàng. Dùng trấu để sản xuất năng lượng bằng 3 phương pháp: đốt cháy, quá trình nhiệt hóa và quá trình sinh hóa; nhưng chỉ có sự đốt cháy là thông dụng vì giản dị, thích hợp cho đời sống nông thôn, còn phương pháp sinh hóa chưa thành công. Lò trấu[19], một loại dụng cụ sản xuất nhiệt lượng, được dùng ở nhiều nước để nấu nướng lâu đời. Loại lò trấu Việt Nam nhỏ, dễ di chuyển, được IRRI cải tiến với hiệu năng cung cấp năng lượng cao, dễ dàng chế tạo ở thôn ấp và phù hợp với khả năng tài chánh nông dân; nên được phổ biến rộng rãi ở châu Á, chủ yếu ở Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh, v.v. trong thập niên 1990s (Hình 17). Ở Tây Phi, nhiều nước dùng nguyên tắc lò trấu Việt Nam để chế tạo dụng cụ sử dụng trấu ở nông thôn.

Hình 17: Lò trấu Việt Nam cải tiến bởi IRRI, đang được sử dụng tại một gia đình Phi Luật Tân (Quick, 1996)

·         Sản xuất nhiệt điện: Vào thập niên 1980s, vỏ trấu đã được dùng như nhiên liệu cung cấp cho hoạt động của các nhà máy xay chà lúa ở Việt Nam và một số nước châu Á như Trung Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Philippines, Ấn Độ, v.v.

·         Sản xuất gas: Quá trình nhiệt-hóa dùng để biến đổi từ khối chất khô thành những thành phần khác qua phương pháp hóa hơi (gasification) và phân giải (pyrolysis). Hơi hóa nhiệt lượng là quá trình biến đổi trấu thành nhiên liệu gas để sử dụng đốt cháy động cơ. Mặt khác, quá trình phân giải bao gồm biến đổi trấu thành gas, nhiên liệu than hóa cứng và các sản phẩm chất lỏng. Quá trình này được thực hiện dưới 500-900oC và sản xuất ra dầu phân giải, gas nhiên liệu và than làm chất đốt.

·         Briquettes (than trấu): Sản xuất than trấu hay briquettes đã được phổ biến mạnh ở các nước đang phát triển thiếu nhiên liệu, than đá, củi đốt; với mục tiêu cuối cùng làm giảm bớt nạn phá rừng lấy gỗ đốt. Than trấu được sản xuất từ vỏ trấu do quá trình than hóa và tiếp theo làm thành viên. Ngoài ra, than trấu còn có tỉ trọng cao 400kg/m3 so với 130kg/m3 của trấu, cho nên vận tải ít tốn kém hơn (RAP/FAO, 1997b).

·         Vật liệu xây cất: Vỏ trấu được dùng làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam, bằng cách trộn lẫn lộn với đất sét hoặc với đất sét và phân trâu bò để làm phên vách hoặc chất độn (làm cho nhẹ) cho nhà cửa, làm kinh dẫn thủy, trám những chỗ bị thoát nước. Trấu còn được dùng chế tạo ra chất cách nhiệt (hỗn hợp của loại resol, resin phenolic, cáp bằng kính, hạt, và vỏ trấu). Trấu còn dùng làm gạch chống ẩm độ và có độ cứng cao. Gạch được chế tạo bằng trấu với ciment, hoặc có thêm đất; bằng trấu, vôi và đất sét; bằng tro trấu trộn với ciment cho độ cứng cao.

·         Tro trấu: Vì trấu chứa bách phân silica cao, nên tro trấu có 90% silica được dùng nhiều như chất lọc trong kỹ nghệ cao su, và chất cách ly trong kỹ nghệ thép. Tro trấu còn dùng để sản xuất chất ciment, gạch cách ly, phân bón. Tro trấu trộn với thuốc sát trùng để phun rau cải, và dùng để cải thiện đất phèn.

·         Các sử dụng khác: Trấu còn được dùng làm thức ăn cho gia súc, nhưng lại kém chất lượng. Gần đây, trấu được chế biến bằng những quá trình vật lý, hóa học và sinh học để tạo thức ăn gia súc với protein cao. Trấu còn được dùng trong nông nghiệp, như làm phân bón (vỏ trấu và tro trấu có nhiều chất kali), compost (trấu với cặn bã nước thải có tỉ lệ: 1,35: 1 căn bản chất khô), lót ổ (cho gà, vịt, ngựa), chất đệm cho hạt giống nẩy mầm (20-30% tro trấu).

Vì trấu có nhiều chất sợi (cellulose và hemicellulose) độ 48%, nên có thể dùng để biến chế thành những chất đường, rượu ethanol qua các quá trình phân giải bằng các enzym. 

7.3.      Cám

Cám là sản phẩm do từ đánh bóng hạt gạo của nhà máy xay chà, chiếm từ 5 đến 8% trọng lượng hạt lúa và 2-3% hạt gạo lứt. Cám gồm có biểu bì, quả bì và chủng bì (nucellus), một phần phôi nhủ, phôi và mầm. Màu sắc hạt gạo là do lớp chủng bì. Cám chứa rất nhiều chất dinh dưỡng như lipid, protein, chất khoáng và sinh tố; cho nên, có giá trị dinh dưỡng cao cho các gia súc. Tuy nhiên, cám rất hiếm được người dùng trực tiếp vì không ổn định lâu dài và thường lẫn lộn với những chất khác trong quá trình xay chà như trấu nát, chất lạ, nấm, vi khuẩn nguy hiểm. Thành phần của cám tùy theo các loại máy xay chà, giống lúa, phơi sấy và cách điều chế hạt lúa trước khi xay như lúa hấp, chẳng hạn. Trong cám còn chứa chất có thể ăn được hoặc dùng trong công nghệ. 

  • Dầu cám: Cám chứa độ 20% dầu. Trong những cuộc nghiên cứu gần đây, dầu cám có khả năng làm giảm bớt chất cholesterol trong máu, nên được nhiều người chú ý đến. Dầu cám được trích ra bằng dung dịch hòa tan như hexane và đôi lúc còn dùng cả dầu ether. Sau khi được trích ra từ cám, dầu còn phải lọc lại trước khi dùng để làm thực phẩm. Cách lọc này dùng để loại bỏ các chất lạ, acid, khử màu và loại bỏ chất sáp. Dầu cám có các chất béo tự do cao dùng để chế tạo xà bông. Hàm lượng chất béo trong dầu cám trên thị trường tùy thuộc vào chính sách quản lý mỗi nước. Ở Ấn Độ, dầu cám chứa dưới 15% chất béo đối với loại dầu ăn. Một trong những khó khăn lớn trong trích dầu cám là cấu tạo các chất béo do enzym lipase, nhưng loại enzym này có thể trở nên bất động do nhiệt độ cao như đun nóng. Cho nên, công nghệ chế dầu thường dùng chất ổn định để làm tăng chất dầu trích từ cám.
  • Thực phẩm gia súc: Cám và cám sau khi trích dầu rất được thông dụng trong kỹ nghệ chăn nuôi gà vịt, trâu bò, heo,... ở đa số các nước châu Á. Tại Pakistan, chất lượng cám được cải thiện bằng cách dùng hơi nước nóng loại bỏ những chất ngăn trở trypsin và hoạt động của enzym lipase.
  • Dược phẩm: Tại Trung Quốc và Philippines, dầu cám được dùng để chế tạo dược phẩm. Dầu cám chứa độ 2 đến 3% oryzanol có thể làm giảm chất cholesterol trong máu và giúp ích cho người bi xáo trộn thần kinh. Phương pháp trích cám với 95% rượu ethyl có thể dùng chế tạo vitamin B complex đậm đặc. Do đó, chất trích từ cám có thể ngăn ngừa được bệnh phù thũng, bệnh thiếu chất thiamine của các bà mẹ nuôi con. Quá trình sản xuất từ cám còn cung cấp chất tocopherol có chứa vitamin, một loại chống oxyd hóa ngừa trị cancer (RAP/FAO, 1997b).
  • Áp dụng khác: Hiện nay, cám được chế biến ra rất nhiều loại như: Cám nở (extruded), cám sấy khô, cám sấy ướt, cám sấy microwave, bột cám, bột cám có protein cao, cám protein đậm đặc. Cám còn dùng làm môi trường trồng nấm, môi trường cho enzym protease, môi trường lên men cho các sản phẩm khác, chế tạo ethanol, lactic acid/calcium lactate, inositol, chất cải tiến mùi vị, sáp (RAP/FAO, 1997b).

7.4.      Tấm

Tấm là sản phẩm của các phương pháp xay chà và số lượng sản xuất tùy theo giống lúa, máy xay và phơi sấy. Tấm có thể được tách rời khỏi hạt gạo nguyên tùy theo các phương pháp xay chà. Về thương mại, tấm được phân chia làm 3 loại: tấm, tấm hạng 2 và tấm nấu rượu có kích thước khác nhau (RAP/FAO, 1997b):

- Tấm là hạt gạo có kích thước kém hơn ba phần tư của hạt gạo nguyên.

- Tấm hạng 2 là một phần của hạt gạo nguyên có chiều dài tối thiểu của 1/2 hạt nguyên, nhưng ít hơn 3/4.

- Tấm nấu rượu là một loại hạt bể đã lọt qua sàng máy xay 1/2 hoặc chiều dài hạt tấm ít hơn phân nửa hạt nguyên.

Thường tấm nấu rượu được loại ra khỏi gạo, còn hai loại tấm kia dùng để sản xuất các loại gạo thương mại khác nhau theo ý muốn nhà máy xay. Hiện nay, các nhà máy tân tiến tách rời các loại tấm ra khỏi hạt gạo nguyên, sau đó pha trộn lại để có các hạng gạo như: 0, 5, 10, 15, 25, 35 và 40% tấm. 

Do phương pháp chế biến và tiêu thụ, tấm được dùng chế tạo ra bột, rượu, thực phẩm cho người và động vật. Trong thương mại, tấm có thể chiếm từ 5 đến 40 % hạt gạo nguyên. Gạo trên thị trường có thành phần tấm càng nhiều giá trị càng thấp. Do đó, các giới nghèo trong xã hội thường tiêu thụ loại gạo có thành phần tấm từ 25% trở lên. Vì có giá trị thấp, tấm được dùng để sản xuất các sản phẩm có giá trị cao hơn, như nuôi heo, gà hoặc biến chế thành những sản phẩm khác.

·         Bột gạo: Gạo tấm thường được xay nhuyển bằng phương pháp khô hoặc ướt để thành bột gạo dùng chế biến ra những sản phẩm khác như bún, bánh đút, bánh tráng, bánh phồng tôm, bánh há cảo…

·         Bún và bánh bột gạo (pasta):  Bột gạo thường dùng để làm bún dưới hai hình thức bún tươi hoặc khô rất phổ biến. Ngành sản xuất bún xuất hiện ở khắp nơi từ thôn ấp với những kỹ thuật xay, ép bằng tay với kỹ nghệ cấp thấp cho đến những kỹ nghệ cấp trung tại các thành thị. Ở Việt Nam, bún, hủ tiếu và bánh phở là những món ăn rất được ưa chuộng. Hiện nay, bún khô, bánh phở, hủ tiếu khô trở nên phổ biến hơn vì có thể tồn trữ lâu dài so với sản phẩm tươi và có thể trở thành thức ăn hàng ngày cho các gia đình có lợi tức cao như “spaghetti” ở nước Ý vậy.

·         Bánh gạo ăn nhanh: Có rất nhiều loại thức ăn nhanh, được chế tạo sẵn để ăn ngay làm bằng bột: gạo nở (crispy) hoặc gạo ép (flake), cớm dùng làm thức ăn sáng với sữa tại nhiều nước Âu Mỹ. Các loại gạo có thể trở thành gạo ép hoặc gạo nở do rang nóng hoặc rang chung với cát. Ở Mỹ, gạo flakes thường được trộn thêm vitamin B và các chất khoáng. Tấm còn được rang cháy và xay nhuyển để làm “thính” dùng trong các món ăn như bì hoặc pha trộn với mắm cá để tăng hương vị.

·         Mạch nha và rượu gạo: Tấm dùng sản xuất đường mạch nha chế tạo rượu bia hoặc các loại rượu khác. Tấm gạo nấu rượu đòi hỏi ít chất amylose và chất béo, nhằm giúp keo hóa tinh bột ở nhiệt độ thấp để sản xuất rượu trong suốt.

·         Thức ăn gia súc: Các loại tấm có chất lượng kém còn được dùng làm thức ăn gia súc, nhứt là ở các trại gà. Tấm còn được pha trộn chung với các phó sản khác của lúa.  

Nhìn chung, khâu thu hoạch và hậu thu hoạch lúa đóng vai trò quan trọng trong an ninh lương thực quốc gia và liên hệ đến tình trạng thịnh vượng của nông thôn và nông dân trồng lúa. Thật đáng tiếc khi đầu tư cho các công trình phát triển và các kỹ thuật tân tiến để tăng sản xuất lúa gạo mà không quan tâm đúng mức đến thất thoát lúa gạo và đầu ra trong các quy trình hậu sản xuất. Điều đó có thể gây nên lãng phí to lớn cho quốc gia. Ngoài ra, cần phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm, làm tăng thu nhập người trồng lúa, giới thương mại, và đáp ứng yêu cầu người tiêu thụ. Do đó, các giới liên hệ cần thúc đẩy cải tiến các yếu tố chi phối chất lượng, chủ yếu ẩm độ hạt lúa, nhiệt độ trong kho vựa, các côn trùng và vi sinh vật phá hại.

Quản lý sản xuất, thu hoạch và chế biến cũng cần phải được quan tâm nhiều hơn để làm giảm bớt những chất lạ dơ bẫn, hạt cỏ, những hạt chưa chín, giống lạ làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gạo. Cho nên, cần có sự phối hợp chặt chẽ trong các lãnh vực khảo cứu, khuyến nông, thương mại và nông dân để làm giảm thiểu sự mất mát lúa và suy giảm chất lượng trong thời kỳ sản xuất, thu hoạch và hậu thu hoạch. Cần huấn luyện và cung cấp thông tin kỹ thuật cập nhựt để trang bị nông dân và cán bộ kiến thức đầy đủ về các vấn đề quan trọng liên quan đến khâu này. 

Hơn nữa, khâu biến chế gạo và tấm có thể làm tăng trị giá loại sản phẩm này trên thị trường. Ở Việt Nam, vẫn còn nhiều cơ hội để bành trướng thêm các thực phẩm biến chế ăn nhanh mới mẻ để đáp ứng nhu cầu đời sống ngày càng hiện đại, đa dạng của dân tộc và phục vụ xuất khẩu. Hiện nay ngành lúa gạo cần thêm óc sáng tạo trong lãnh vực này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Andales, S.C. 1996. Problems and priorities of grain drying in the Philippines.  In Proceedings of an International Conference on Grain Drying in Asia, 12-20 October 1995, Bangkok, Thailand, FAO, Bangkok.
  2. Calverley, D.J.B. 1994. Programme for the prevention of food losses: A study of eleven projects in Asia concerned with rice. Final Report, FAO, Rome.
  3. Chitchfield, H.J. 1974. General climatology. Prentice Hall, Englewood, N.M., pp 154.
  4. Dissanayake, A.K. 1991. Computer model for selecting rough rice drying systems.  Asian Institute of Technology, Bangkok, Thailand.
  5. Dumont, R. 1995.  La culture du riz dans le delta du Tonkin. Printimg House in Bangkok, Thailand, pp 592.
  6. FAO/Inpho on line. 2004
  7. Juliano, B.O. and Hicks, P.A. 1994. Utilization of rice functional properties to produce rice food products with modern processing technologies. In Proceedings of the 17th Session of the Inter. Rice Comm, 4-9 Feb. 1990, Goiania, Brazil, FAO, Rome, p 163-178.
  8. Juliano, B.O. 2003. Rice chemistry and quality. Philippine Rice Research Institute, Island Publishing House, Inc., Manila, pp 480.
  9. Lozare, J., Hicks, A. and Kouthon, G.D. 1996. Rice by-product utilization. In Proceedings of the 18th Session of the Inter. Rice Comm, 5-9 Sept-1994, Rome, Italy, p 132-145.
  10. Mejia, D.J. 2003. An overview of rice post-harvest technology: use of small metallic silos for minimizing losses. In Proceedings of the 20th Session of the International Rice Commission, 23-26 July 2002, Bangkok, FAO, Rome, p 207-217.
  11. NAPHIRE. 1997. Technical guide on grain post-harvest operation. Munoz, Nueva Ecija, Philippines, National Post-Harvest Institute for Research and Extension (NaPHIRE).
  12. Phan Hiếu Hiền, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Hùng Tâm, Lê Văn Bạn và Trương Vĩnh. 2000. Máy sấy hạt ở Việt Nam. NXB Nông Nghiệp, T.P. Hồ Chí Minh, 116 tr.
  13. Ponamperuma, F.N. 1984. Straw as a source of nutrients for wetland rice. In Proc. Int. Conf. Organic Matter and Rice, 1982, IRRI, Los Banos, p 117-136.
  14. Quick, G.R. 1996. Advances in rice mechanization: small-scale production and income-enhancing engineering technologies. In Proceedings of the 18th Session of the Inter. Rice Comm, 5-9 Sept-1994, FAO, Rome, Italy, p 82-91. 
  15. RAP/FAO. 1997a. Rice products in Asia. RAP publications 1997/38, FAO, Bangkok, pp 43.
  16. RAP/FAO. 1997b. Rice by-products in Asia. RAP publications 1997/39, FAO, Bangkok, pp 81.
  17. Singh, G. 1994. Rice mechanization for small farmers in Asia. In Proceedings of the 17th Session of the Inter. Rice Comm, 4-9 Feb. 1990, Goiania, Brazil, FAO, Rome, p 79-95.
  18. Teter, N. 1987. Paddy Drying Manual. FAO Agricultural Services Bulletin No. 70. FAO, Rome, pp 123.
  19. Toquero, Z.F. and Duff, B. 1974. Survey of post-production practices among rice farmers in Central Luzon. Proceedings of Saturday Seminar Paper. IRRI, Los Banos, Philippines.
  20. Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo trên thế giới: Hiện trạng và khuynh hướng phát triển trong thế kỷ 21. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 502 tr.

21.  UNIFEM. 1994. Stockage. Technologies du cycle alimentaire manuel de reférence.

CHƯƠNG 17

TIẾN HÓA

CHÍNH SÁCH SẢN XUẤT &

THỊ TRƯỜNG LÚA GẠO 

Từ thời lập quốc, đất nước phát triển khi nền nông nghiệp tiến bộ. Riêng lúa gạo không những là lương thực chính của dân tộc Việt Nam còn là hàng hóa trao đổi trong và ngoài nước. Do ảnh hưởng các cuộc xâm lăng, nội chiến và thời cuộc đổi thay liên tục trong hơn ba ngàn năm qua, ngành sản xuất lúa gạo phải trải qua những giai đoạn hưng thịnh, trầm thoái do con người và đất nước tác động. Từ lệ thuộc quá nhiều vào sức mạnh Bắc phương và ảnh hưởng Nho học quá lớn, các triều đại quân chủ coi nhẹ ngành thương mại, ít giao thiệp với các nước láng giềng, ngoại trừ Trung Quốc. Cho nên, ngành ngoại thương không phát triển mạnh suốt thời gian Bắc thuộc và Độc Lập phong kiến, nhưng cũng có giai đoạn phồn thịnh từ giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, khi Phố Hiến, Hội An, Gia Định, Nông Nại Đại Phố (Cù Lao Phố) và Mỹ Tho Đại Phố ra đời.

Ngành thương mại quốc gia trở nên năng động hơn từ thời Pháp thuộc để phục vụ quyền lợi người thống trị. Nước ta vốn sản xuất lúa gạo dư thừa và xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới suốt thời kỳ thực dân, nhưng cũng có lúc phải nhập khẩu gạo để đáp ứng nhu cầu nội địa do chiến tranh gây ra. Gần đây, trong chiều hướng phát triển kinh tế hội nhập, ngành sản xuất lúa tiến bộ vượt bực nhờ chính sách đúng đắn, chủ động tưới tiêu, sử dụng phân hóa học và hạt giống tốt, đất nước đã trở lại vị trí xuất khẩu hàng đầu thế giới và đem về một số ngoại tệ đáng kể. Dù thế, đa số thành phần nông dân, chủ yếu người trồng lúa ở các vùng sản xuất dư thừa vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đời sống ngày càng cách biệt với thành thị. Chỉ có chính sách nhà nước hữu hiệu, tư duy đổi mới trong quản lý và hỗ trợ tích cực cho giới nông nghiệp mới mong sớm cải tiến tình trạng hiện nay của họ. 

1.   TIẾN HÓA CHÍNH SÁCH SẢN XUẤT LÚA GẠO

(theo Đào Duy Anh, 1938; Phạm Văn Sơn, 1960; Huỳnh Lứa và cộng sự viên, 1987; TrầnTrọng Kim, 1990; Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000; Viện Khảo Cổ Học, 1999 và 2002; và Lê Thành Khôi, 2014). 

Chính sách nhà nước có khả năng chi phối và tác động quyết định đến mức độ phát triển kinh tế và xã hội quốc gia. Điều đó thể hiện rõ rệt trong chính sách Đổi Mới kinh tế được thực thi thành công ở Việt Nam từ năm 1988. Trên thế giới, các chính sách sản xuất lúa gạo quốc gia và các thỏa hiệp quốc tế quyết định tình hình sản xuất trong nước, ảnh hưởng giá cả nội và ngoại địa, và hình thành khối lượng lúa gạo lưu hành trên thị trường quốc tế. Các nước nhập khẩu gạo thường đặt ưu tiên cao cho chính sách tự túc và sử dụng các giải pháp tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp để kích thích sản xuất trong nước; trong khi các nước xuất khẩu rất quan tâm đến các chính sách bao cấp cho cả khâu sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt bao cấp vĩ đại tại các nước phát triển. Vì vậy các nước đang phát triển làm sao có đủ khả năng tài chánh thực hiện chính sách tương tự để nâng cao đời sống nông thôn và thành phần làm nông nghiệp!

Tại Việt Nam, trong suốt thời kỳ lập quốc và phát triển, các nhà nước thường có chính sách nông nghiệp thay đổi theo thời đại, nhưng chủ yếu có hai khuynh hướng xuất hiện rõ rệt:

  • Từ thời đại Hùng Vương đến trước thời Pháp thuộc, tập trung phát triển nông nghiệp, đặc biệt lúa gạo để đảm bảo lương thực đầy đủ trong nước, thu thuế cho ngân sách quốc gia và tạo việc làm cho người dân; và
  • Từ thời Pháp thuộc đến ngày nay, nhà nước đặc biệt quan tâm đến đa loại hóa sản xuất và ngành ngoại thương để thu về ngoại tệ, ngoài đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Trong cả hai giai đoạn lịch sử nêu trên, nhà nước ít khi chú ý cải tiến thật sự đời sống người sản xuất và nông thôn! Nông thôn vẫn là nông thôn thuở nào của hàng ngàn năm qua tại các nước đang phát triển. Ở các nước phát triển, nông thôn nay không còn nữa, được cải tiến thay đổi để trở thành những thị trấn nhỏ ở vùng xa.

Vào giai đoạn đầu, các triều đại đều có chính sách khuyến khích khai khẩn đất mới, tái canh ruộng hoang, phát triển thủy lợi để tăng sản xuất; đồng thời ban hành các luật lệ cần thiết để thu thuế bổ sung ngân sách nhà nước. Ngoài ra, do ảnh hưởng sâu đậm của Nho Giáo và lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, người Việt chỉ chú trọng đến quan niệm “nhứt sĩ nhì nông”, xem thường ngành thương mại, thiếu tiếp cận với các trào lưu tiến bộ hiện đại; nên trình độ văn hóa kỹ thuật dân tộc ngày càng tụt hậu. 

            Từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến nay, các nhà nước đều có chính sách không những đẩy mạnh phát triển lúa gạo mà còn các cây kỹ nghệ như cao su, cà phê, trà, tiêu, cây ăn quả; chăn nuôi; thủy hải sản; đồng thời nỗ lực phát triển xuất khẩu để thu ngoại tệ. Chủ yếu họ khai thác đồng bằng sông Cửu Long với phát triển kinh rạch và đường bộ, tạo nên hệ giao thông tiện lợi cho tăng gia sản xuất và thương mại nông nghiệp của vùng, nhứt là phục vụ ngành lúa gạo. Năm 2017, Việt Nam xuất khẩu gần 6 triệu tấn gạo và mang về đất nước hơn 2 tỷ Mỹ kim; tuy nhiên, đời sống của người trồng lúa không được cải tiến nhiều kể từ khi Đổi Mới kinh tế bắt đầu.

            Thế giới đang bước nhanh vào thời đại toàn cầu hóa, khuyến khích các quốc gia bãi bỏ hàng rào quan thuế để hàng hóa vận chuyển tự do; nhưng hầu hết các nước vẫn muốn giữ lại chính sách bao cấp nông nghiệp để san bằng giai cấp xã hội trong nước, đặc biệt ở các quốc gia công nghiệp. Vì vậy, các nước đang phát triển rất lo lắng với trào lưu tiến hóa và toàn cầu hóa hiện nay, bởi có nhiều bất lợi cho nền nông nghiệp của họ trong khi sự hỗ trợ nhà nước còn quá yếu kém. Việt Nam đã trở nên một thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - WTO vào đầu năm 2007, đang hết sức phấn đấu đối phó với các làn sóng xâm nhập của các tập đoàn thương mại đa quốc gia, trong khi nội lực cạnh tranh hãy còn yếu, ngay cả trong lãnh vực nông nghiệp dù đã hiện diện lâu đời. Trước tình trạng này, các sách lược ngắn và trung hạn khôn ngoan và thực tế của nhà nước sẽ giúp xứ sở không những vượt qua các trở ngại mà còn lớn mạnh hơn trong tương lai. Sự thành công của Đại Hàn là một thí dụ. 

1.1.   Từ hơn 1 000 trước CN đến 938 sau CN

Ngay từ lúc khởi nghiệp lập quốc, Vua Lạc Long Quân đã quan tâm đến ngành trồng lúa trong nước, dạy dân Việt cày cấy, trồng trọt cây lương thực này để về sau trở thành thức ăn chính của dân tộc. Câu chuyện trái dưa hấu của chàng An Tiêm trong thời đại Hùng Vương cho biết xứ sở lúc bấy giờ đã giao thương với nước ngoài dù còn giới hạn (Lĩnh Nam Chích Quái).

                           Vào buổi đầu Bắc thuộc, nhà Triệu có chính sách bất lợi cho nhà Hán nên bị Lã Hậu cấm vận không cho nhập khẩu các loại nông cụ, gồm lưỡi cày bằng sắt vào nước Nam Việt. Đến nhà Hán, họ thực hiện chính sách đồng hóa dân Việt, nên tổ chức nhiều cuộc di dân, truyền bá Nho học rộng rãi, chuyển giao một số kỹ thuật nông nghiệp lúa để sản xuất nhiều hơn phục vụ kẻ đô hộ. Hàng năm dân Việt phải nộp sưu cao, thuế nặng. Vào đầu thế kỷ I sau CN (đời Hán), Giao Chỉ với dân số độ 746 237 người, hàng năm phải nộp đến 13 600 000 hộc lúa, hay mỗi người nộp 18 hộc (mỗi hộc có 10 đấu, một đấu độ 1 kg), theo sách Quảng Đông Tân Ngữ (trong Bùi Thiết, 2.000). Nghĩa là mỗi người dân phải nộp 182 kg lúa mỗi năm. Nên nhớ rằng vào thời kỳ này năng suất lúa còn rất thấp khoảng 540 kg/ha (xem thêm Chương 8: Phát triển trồng lúa nước thời đại Kim Khí). Do đó, người dân sản xuất lúa chỉ vừa đủ nuôi gia đình sau khi nộp thuế. Bấy giờ họ chỉ trau đổi nhau hoặc mua bán thóc gạo trong cộng đồng nội địa, chứ chưa dư thừa cung cấp cho ngành ngoại thương.

                           Dưới triều đại nhà Tùy, Giao Châu dời đô từ Long Biên tới Tống Bình (Hà nội sau này) từ năm 607, cũng là nơi làm trung gian buổi đầu cho các thương gia Tây phương và các nước láng giềng buôn bán trao đổi hàng hóa với Quảng Châu, Trung Quốc; cho nên ngành thương mại của xứ khá rộn rịp. Năm 679, nhà Đường thành lập An Nam đô hộ phủ (An Nam có nghĩa là phía nam được bình định). An Nam nổi tiếng về khai thác vàng, bạc, dệt tơ lụa, đan lát, đúc đồng và đóng ghe thuyền. 

1.2.   Từ 939-1884 sau CN

Trong thời kỳ Độc Lập phong kiến, các triều đại quân chủ đều lấy nền kinh tế nông nghiệp, chủ yếu lúa gạo, làm nền móng phát triển quốc gia. Họ chú trọng đến chính sách trọng nông, đặt ưu tiên vào khai khẩn đất đai, tái canh ruộng hoang do chiến cuộc, đắp đê chống lũ lụt, và phát triển thủy lợi trong nước để bảo đảm sản xuất nhiều lúa gạo. Gặp những năm mất mùa, chính quyền có lệ giảm hoặc miễn thuế để người thôn quê bớt nghèo khổ. Về chế độ điền thổ, từ thời Đinh Lê ruộng đất trong nước đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua, nông dân chỉ lãnh phần canh tác và nộp thuế mỗi năm. Tuy nhiên, về sau cũng có ruộng đất do tư nhân khai khẩn, nếu bị nhà nước trưng dụng phải chiếu theo giá đương thời mà bồi thường. 

Từ Nhà Lý đến nhà Tây Sơn, các chính sách sản xuất nông nghiệp lúa quan trọng gồm có: chế độ quân điền, khẩn hoang, dùng tù nhân, nô lệ để khai khẩn đất đai, hạn điền để san bằng bất công xã hội, thiết lập đồn điền, chỉnh đốn địa bộ và thu thuế ruộng (Xem thêm Chương 9 & 10: Phát triển trồng lúa thời Bắc Thuộc và Độc Lập phong kiến).

Chúa Nguyễn và triều đại nhà Nguyễn đặt trọng tâm vào chính sách khai khẩn đất đai, lập dinh điền ở miền duyên hải tỉnh Ninh Bình, Nam Định (hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải), đặc biệt hơn hết ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Minh Mạng lập Quỹ Khuyến Nông cho nông dân nghèo vay vốn canh tác, tiếp tục hoàn tất công tác đo đạc địa bộ. Năm 1835, vua Minh Mạng ra chỉ thị về người cày mướn ruộng như sau: “Gặp năm mất mùa, nếu nhà nước miễn thuế cho chủ điền theo tỉ lệ nào thì chủ điền phải theo tỉ lệ ấy mà bớt thu lúa ruộng cho tá điền”. Để giúp nông dân nghèo tránh nạn cho vay lời quá cao, nhà Nguyễn ấn định lãi suất không quá 3% mỗi tháng (Sơn Nam, 2000). Để khuyến khích chương trình khẩn hoang, triều đình Nguyễn đã đưa ra một số biện pháp:

(i)                 Tổ chức các đồn điền,

(ii)               Cho người di dân tự do chọn lấy đất đai để khai phá,

(iii)             Ban nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích, đôi khi cưỡng bức khai hoang lập ấp để tăng tiềm lực kinh tế và thu thuế cho quốc gia.

Vì vậy, dân số Lục Tỉnh tăng mau chóng: từ khoảng 200 000 người vào cuối thế kỷ XVII lên 1,2 triệu người vào giữa thế kỷ XIX. Diện tích trồng lúa từ không đáng kể tăng lên 630 075 mẫu (hay 226827 ha vào năm 1836) trong cùng thời gian (Huỳnh Lứa và cộng sự viên, 1987). 

1.3.   Từ 1885-1954

Trong thời Pháp thuộc, người Pháp có chính sách rất rõ rệt về phát triển lúa gạo tại Việt Nam. Tăng sản xuất lúa gạo ở miền Bắc để tránh nạn đói kém và khai thác đất đai miền Nam nhằm xuất khẩu trục lợi. Với chính sách này, người Pháp lập Đông Pháp Ngân Hàng cho nông dân vay mượn trồng lúa và khai khẩn đất hoang, lấy ruộng đất làm bảo đảm. Về sau, Ngân Hàng này hoạt động không hữu hiệu nên bị hủy bỏ. Chính quyền lập những hội Tương Tế Nông Tín ở mỗi tỉnh, nhưng mục tiêu chính của các hội này là giúp những đại nông gia vay vốn khai thác đất mới ở ĐBSCL. Năm 1927, Chính phủ thành lập những Nông Phố Ngân Quỹ ở các tỉnh do các xã thôn đóng góp để giúp các giới tiểu nông và tá điền, nhưng chương trình này thất bại vì tiền cho vay phần lớn lọt vào tay những kẻ có quyền hành và thân thế lớn (Đào Duy Anh, 1938). Vì thế, khoảng cách biệt giữa giai cấp nghèo và giàu ngày càng lớn hơn. Sau đó chương trình tín dụng đổi thành Nông Tín Tương Tế vào 1933, hoạt động khá mạnh ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã giúp nhiều cho hoạt động hợp tác xã gồm cả ngành lúa gạo (Phạm Cao Dương, 1967).

Chánh quyền thực dân vừa thúc đẩy công tác khẩn hoang để tăng sản xuất kiếm lợi, vừa áp dụng các kỹ thuật khoa học Tây phương như: giống mới, phân hóa học, thuốc sát trùng, máy cày, máy bơm nước, máy đập lúa… Công tác khai thác của thực dân Pháp đã làm thay đổi hẳn bộ mặt nông nghiệp của ĐBSCL lúc bấy giờ. Ngoài ra, họ còn phát triển nhanh công tác xây dựng các đường bộ, nạo vét kinh rạch, đào các kinh mới để tăng tốc sản xuất, di chuyển hàng hóa và củng cố an ninh. Kể từ 1929-1930, các tỉnh Gia Định, Gò Công, Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre, Sa Đéc, Trà Vinh, Tân An… đã được xem như khai phá xong, không còn đất hoang để chuyển nhượng. Đến thập niên 1940, công tác khai hoang được xem như bảo hòa, còn một số vùng trũng sâu như Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng đất U Minh cần có những kỹ thuật cao hơn để khai phá. Diện tích khẩn hoang Nam Kỳ đạt đến khoảng 295 550 ha năm 1868 ha tăng lên 2 050 370 ha năm 1942. Dân số tăng từ hơn 1,2 triệu người vào đầu thời Pháp thuộc lên 5,5 triệu người vào 1946 (Huỳnh Lứa và cộng sự viên, 1987 dựa vào Niên Giám thống kê Nam Kỳ).

 Trong thời Pháp thuộc, chế độ điền thổ bị chi phối bởi luật lệ nước Pháp, nhứt là ở Nam Kỳ. Nông dân có quyền làm chủ đất đai, nhà nước có quyền hành chánh, quyền trưng thu nhưng phải trả tiền bồi thường. Ở Bắc Kỳ, triều đình Huế nhường quyền cho Đông Pháp, do đó chế độ điền thổ do luật lệ Pháp quyết định. Ở Trung Kỳ, chế độ đất đai vẫn tiếp tục như các triều đại trước đây, khi nhà vua trưng thu đất của dân chúng, phải bồi thường thỏa đáng. Do tục lệ chia gia tài lâu năm, ruộng đất trong nước ngày càng bị phân mảnh nhỏ. Cho nên, cần phải có tư duy mới, một chính sách hữu hiệu để củng cố, tích tụ đất đai, bỏ hạn điền; giúp cho ngành sản xuất được cơ giới hóa nhanh, có hiệu năng kinh tế cao, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 

1.4.  Từ 1955 đến nay:

Các chính sách sản xuất lúa gạo và các nông sản khác thay đổi qua 3 thời kỳ quan trọng sau đây:

1)      Từ 1955 đến 1975: Miền Bắc thi hành chính sách tập trung sản xuất, trong khi Miền Nam thực hiện sản xuất theo kinh tế thị trường.

2)      Từ 1976 đến 1987: Cả nước thi hành chính sách sản xuất tập trung qua hợp tác xã hóa các hoạt động kinh tế, làm cho nền kinh tế quốc gia kiệt quệ.

3)      Từ 1988 đến nay: Việt Nam đổi mới, hội nhập kinh tế thế giới và theo sát kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng sự phát triển còn chậm chạp và gặp nhiều vấn đề cơ chế nan giải.

Để có thêm thông tin chi tiết về giai đoạn này, xin xem thêm Chương 12: Phát triển sản xuất lúa hiện đại từ 1954 đến Đổi Mới kinh tế. 

2.   TIẾN HÓA HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA 

2.1.   Từ thời Cổ Đại đến Độc Lập phong kiến

Vào thời sơ sử, người Việt cổ đã biết trao đổi các loại sản phẩm trong cuộc sống liên đới không những ở trong nước mà còn giao thương với một số nước trong vùng, dù rất hạn chế. Trong thời đại Hùng Vương,ngành thương nghiệp đã hình thành với việc trao đổi, mua bán sản phẩm nông nghiệp, chủ yếu lúa gạo, trao đổi vật phẩm như vật dụng, vũ khí… Dấu tích của nền thương mại này là khu mua bán lúa gạo (chợ Lú) ở Việt Trì, Phú Thọ (Lê Thái Dũng, 2010). Ngành ngoại thương cũng xuất hiện với truyền thuyết Mai An Tiêm, một khách buôn ngoại quốc từ phía Nam được vua Hùng thương mến cho làm con nuôi, gả con gái; nhưng tính tình Ông ngỗ nghịch bị vua bắt lưu đài ở đảo hoang. Ông khai phá đất đai trồng dưa hấu và trao đổi thương mại với nhiều thương gia của một số nước láng giềng, cho thấy đảo nầy có một thời thịnh vượng với nhiều thuyền bè thăm viếng và bán buôn tấp nập. Hơn nữa, sự phân bố trống đồng Đông Sơn ở nhiều nước Đông Nam Á và nam Trung Quốc là một bằng chứng cụ thể cho nền ngoại thương dưới thời Hùng Vương. Tình trạng nội và ngoại thương sơ khai vẫn còn tiếp tục trong thời Bắc thuộc và các triều đại quân chủ trong thời Độc Lập phong kiến, chủ yếu giao thương với Trung Quốc. Các nước khác thường mua hoặc trao đổi lúa gạo với Việt Nam gồm có, Nhựt Bổn, Trung Quốc (Hồng Kông), Philippines, Indonesia, Malaysia v.v. Dù thế, ngành ngoại thương vẫn chưa là chính sách quan trọng của các triều đại quân chủ.

Ở Miền Trung, trong nền văn hóa Tiền Sa Huỳnh-Sa Huỳnh (cách nay 3 000-2 000 năm) nghề buôn bán đã nổi bật, giúp cư dân cổ miền này giao tiếp với các miền lân cận của nền văn hóa Đông Sơn ở Miền Bắc và văn hóa Dốc Chùa ở Miền Nam. Do đó, đồ đồng của Đông Sơn và Dốc Chùa đều được phát hiện ở Miền Trung. Sản phẩm của họ gồm đồ sắt, đồ thủy tinh, đồ gốm với kỹ thuật và mỹ thuật cao, qua đường bộ có mặt ở Thái Lan, Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, bằng đường biển đến Hồng Kông, Philippines, Indonesia, Malaysia hoặc đi xa hơn (Viện Khảo Cổ Học, 1999).

Các nhà khảo cổ học xem nền văn hóa Sa Huỳnh là tiền thân của văn hóa Chăm được hình thành từ 192 đến 1693 sau CN. Ngành kinh tế ngoại thương của nước Champa rất quan trọng. Thuở xưa người Chăm rất giỏi về nghề biển. Dọc theo bờ biển Miền Trung, người Chăm lập một hệ thống thương cảng để giao thương với các nước bên ngoài như Ấn Độ, Ả Rập, Trung Quốc, những nước Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương, đặc biệt vào thế kỷ IX-X. Những thương cảng quan trọng của họ được các nhà khảo cổ xác nhận gồm có thương cảng Mai Xá, Quảng Trị; cảng Hội An; cảng Thị Nại, Qui Nhơn; cảng Cách Thử; cảng Hòn Đỏ; cảng cổ ở Phan Rang… (Viện Khảo Cổ Học, 2002).

Các di tích văn hóa Óc Eo ở Miền Tây Nam Bộ cho thấy đây là một thành phố hải cảng rất phồn thịnh từ 200 năm tr CN cho đến thế kỷ VI sau CN. Cư dân đã có hệ thống thuế quan, giao thương rộng rãi với Thái Lan, Ấn Độ, La Mã, Ba Tư, Trung Quốc…

Từ sau thời Hùng Vương đến trước thời Pháp thuộc, nền nội thương Việt Nam rất giới hạn ở từng địa phương vì thiếu phương tiện giao thông. Ở xã thôn thường có họp chợ để người dân trao đổi với nhau các hàng hóa thiết dụng hàng ngày. Ngoài ra, còn có những thương buôn từ xa đến bằng ghe thuyền mang theo các hàng hóa để bán, như vải, cau, thuốc men, thịt... Do nước ta không có giao thương chặt chẽ với nhiều nước láng giềng, ngoại trừ Trung Quốc, cho nên ngành ngoại thương còn rất yếu kém, bị chi phối bởi người Tàu. Nhiều thương lái Hoa Kiều đem hàng hóa của họ như vải, thuốc men cùng hàng ngoại hóa khác vào bán trong nước ta, và thu mua thổ sản như lúa gạo, bông, bắp, đậu, sắn đem đi bán ở các nơi khác. Dần dần họ lại thêm nghề cho vay với lãi suất cao, bóc lột người dân nghèo ở nông thôn.

Vào triều đại nhà Lý, kinh đô được dời từ Hoa Lư về Đại La năm 1010. Việc trao đổi tiền tệ phát triển, nhưng không thống nhứt về trọng lượng và kích thước. Về nội thương, kinh đô có ba chợ ở phía đông, tây và nam. Người châu thổ đem muối và hàng bằng sắt lên miền thượng du để đổi lấy vàng, bạc và các lâm sản. Về ngoại thương chủ yếu buôn bán với Trung Quốc, người Việt tới Ung Châu và Khâm châu để bán gỗ hương, ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, đồng, muối và bạc, mua bông vải, đồ lụa, giấy và bút lông. Họ còn giao thương với Xiêm La, Indonesia trên đảo Vân Đồn, Quảng Yên.

Dưới thời đại nhà Trần, các làng nghề xuất hiện như Ma Lôi, Hải Dương chuyên sản xuất nón. Về sau, Bát tràng và Thổ Hà chuyên về đồ gốm, Huê Cầu nghề nhuộm, Kim Bảng nghề lụa the, Thanh Oai nghề tơ lụa dệt sợi… Cùng với chợ ở kinh đô, còn có các chợ cấp vùng. Các quan chức cao của triều đình cũng tham gia làm thương mại. Ngoài buôn bán với Trung Quốc, người Việt còn giao thương với Java, Sokhothai và Lopburi trên đảo Vân Đồn để thương gia ngoại quốc không xâm nhập nội địa làm gián điệp (Lê Thành Khôi, 2014).

Bộ luật Hồng Đức của nhà Lê qui định các giao dịch trong lãnh vực đất đai cho thấy phát triển kinh tế hàng hóa vào thời kỳ này. Năm 1439, nhà nước quyết định thống nhứt tiền tệ, một tiền trị giá 60 đồng. Họ tiếp tục mở mang đường sá và kinh đào. Nhà Lê còn khuyến khích mở chợ ở cấp làng xã. Ngành ngoại thương với Trung Quốc cũng được nối lại sau khi gián đoạn do chiến tranh, đồng thời tiếp tục buôn bán với các nước láng giềng: Xiêm, Java, bán đảo Mã Lai...

Đến thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, các làng nghề phát triển mạnh ở Đàng ngoài, trao đổi hàng hóa giữa châu thổ và thượng du. Châu thổ bán gạo, muối, tiểu thủ công và mua về đồng, quế, gỗ. Ngành ngoại thương với châu Âu rất được hai Đàng quan tâm, đặc biệt mua vũ khi, đạn dược, thu thuế quan, bên cạnh nhu cầu của tầng lớp giàu có với các hàng xa xỉ ngoại quốc. Đầu thế kỷ XVII, các thương buôn theo các nhà giảng đạo vào nước ta để buôn bán, từ đó ngành ngoại thương bắt đầu mở rộng. Năm 1637, Chúa Trịnh cho phép người Hà Lan lập một thương điếm ở Phố Hiến tỉnh Hưng Yên (Hình 1), với tham gia của người Hoa, Nhựt, Xiêm, Mã Lai, Anh, Pháp. Ở đây có tới 2 000 nóc nhà, nên có câu “Thứ nhứt kinh kỳ thứ nhì Phố Hiến”. Người Hà Lan chuyên mua gạo, bắp của ta đem bán ở Nam Dương và Nhựt Bổn, đồng thời đem vào súng đạn, diêm sinh và các loại nỉ.

Ngoài ra, còn có trao đổi hàng hóa giữa đồng bằng ven biển và cao nguyên miền Trung. Họ đổi các hàng hóa như muối, nước mắm, cá khô, dụng cụ đồng, thép, sắt, đồ trang sức vàng bạc để lấy gia súc, ngà voi, sáp và lâm sản.

Ở Đàng trong, nền thương mại quan trọng nhứt ở cảng Hội An (Faifoo), Đà Nẵng (Hình 2). Hội An trở thành một đô thị lớn sầm uất, nhộn nhịp kể từ năm 1640, với những hiệu buôn của người nước ngoài như Nhựt, Tàu, Xiêm, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Pháp (Đào Duy Anh, 1938). Cảng này bị hai nhóm thương buôn Hoa và Nhựt chi phối về mặt kinh tế. Họ chia thành hai vùng có người cai trị và lối sống riêng với phong tục và tập quán của mình. Khi nước Nhựt bế quan năm 1637, hoạt động thương mại của họ chấm dứt ở Hội An, người Nhựt rời cảng, trong khi người Hoa được hậu thuẩn của các cộng đồng người Hoa ở Trung Quốc và các vùng lân cận nên vẫn còn phát triển làm ăn ở cảng này.

                Hình 1: Phố Hiến ngày xưa (ảnh Internet)

                Hình 2: Phố Hội An ngày nay

                  (https://architech.vn/hoi-an-nhin-tu-tren-cao/)

Trong thế kỷ XVIII, các hoạt động thương mại bắt đầu sôi động ở Miền Nam, nhiều tụ điểm buôn bán và nhiều thị tứ xuất hiện ở nhiều nơi, chẳng hạn, thương cảng Cù Lao Phố tức Nông Nại Đại Phố (Biên Hòa) (Hình 3), thương cảng gạo Sài Gòn (Hình 4), Mỹ Tho Đại Phố (Hình 5), thương cảng Bãi Xàu, thương cảng Hà Tiên… Đầu thế kỷ XIX dưới triều đại nhà Nguyễn, nền kinh tế trong nước có khuynh hướng phát triển mạnh, nhưng chế độ thuế khóa quá nặng. Gia Định sản xuất lúa gạo, gia súc dư thừa, đem ra bán cho Thuận Quảng để trao đổi mua muối, cá mắm, lâm sản và vải vóc, nhiễu điều của người Tàu cho may mặc (Huỳnh Lứa và cộng sự viên, 1987). Thỉnh thoảng Chúa Nguyễn sai các quan đem thuyền buôn sang các nước như Singapore, Indonesia, Bangkok, Calcutta (Ấn Độ), Quảng Đông để bán gạo, đường, lâm sản và mua về vũ khí, đạn dược và xa xí phẩm. Tình trạng phồn thịnh này kéo dài trong triều đại Gia Long và bắt đầu suy yếu vào thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức do tầm nhìn thiển cận, các chính sách bài đạo Thiên Chúa Giáo, và bế quan tỏa cảng sai lầm.

Hình 3: Thương cảng Cù Lao phố, Biên Hòa (ảnh Internet)

Về sau, các chính sách kỳ thị này ngày càng áp dụng khắc khe nên tàu thương buôn Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Mỹ bị từ chối cập bến. Đất nước ngày càng hỗn loạn, suy yếu và cuối cùng bị Pháp đô hộ. Vào triều đại Minh Mạng, nền nội thương không được khuyến khích vì sợ nổi loạn. Năm 1834, vua ra lệnh cấm họp chợ vì sợ dân tụ tập khởi nghĩa. Một số thương cảng và thành phố như Phố Hiến, Hội An, Gia Định,... cũng bắt đầu suy tàn. Chẳng hạn, vào thời vua Gia Long, Gia Định có 10 vạn dân, nhưng đến thời vua Tự Đức chỉ còn vài vạn mà thôi (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Đặc biệt việc buôn bán lúa gạo bị hạn chế với nước ngoài. Triều đình thường xuyên ra lệnh cấm xuất khẩu gạo để giữ giá thấp ở Lục Tỉnh, nhằm tránh nổi loạn ở các nơi tiêu thụ; cho nên, lúa gạo vào thời kỳ này được tiêu dùng tại chỗ và việc buôn bán gạo chỉ có vai trò phụ thuộc. Do đó, nền kinh tế quốc gia trở nên suy yếu rõ rệt.

        Hình 5: Mỹ Tho Đại Phố (ảnh Internet) 

2.2.   Thời kỳ Pháp thuộc

Kể từ giai đoạn này, ngành ngoại thương VN được bành trướng không những đến vùng Đông Nam Á mà còn cả châu Âu, Trung Đông và châu Phi. Trong thời Pháp thuộc, ngành ngoại thương mang bản chất thuộc địa: xuất cảng các nguyên liệu và nhập khẩu các chế phẩm kỹ nghệ từ mẫu quốc. Chỉ 5 ngày sau Pháp chiếm Sài Gòn, Gia Định, Đô đốc Page cho phép mở cảng Sài Gòn để các nước ngoài vào buôn bán và tuyên bố việc buôn bán lúa gạo từ nay hoàn toàn tự do (Huỳnh Lứa và cộng sự viên, 1987). Nhờ đó, ngành thương mại trong nước được phát triển hơn, với các nỗ lực khai thác, phát triển tiềm năng sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ giao thông bằng đường thủy tiện lợi, việc buôn bán giữa các tỉnh ngày càng nhộn nhịp. Những thị trấn thương mại lớn trong nước lúc bấy giờ gồm có Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Sài Gòn và Chợ Lớn. Trước thời Pháp thuộc, do ảnh hưởng của Nho giáo, người Việt khinh rẻ nghề buôn bán, chỉ trọng nể nghề làm quan và nghề nông: “Nhứt sĩ, nhì nông, tam thương, tứ phú”. Vào thời Pháp thuộc, quan niệm hũ nho đã chuyển đổi dần. Ngày nay, người Việt đã dấn thân vào lãnh vực thương mại, giao dịch cổ phiếu với những phương thức hành nghề hiện đại hơn.

Hình 4: Thương cảng gạo Sài Gòn (ảnh Internet)

      Hình 6: Bến Bình Đông: kho gạo Miền Nam thập niên 1930

(https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/s-t-u-v/trang-nguyen/giang-cang-sai-gon-cho-lon)

Đối với ngành kinh tế lúa gạo, có thể nói người Hoa ở nước ngoài có tầm ảnh hưởng lớn không những tại VN mà còn nhiều nước Đông Nam Á khác, như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, v.v. Ở Việt Nam, trước thời thực dân, ngành thương mại trong nước đã bị chi phối bởi người Hoa. Vì vậy, khi Pháp vừa chiếm miền Nam họ có chính sách nhằm khuyến khích sắc tộc này phát triển ngành thương mại để phục vụ quyền lợi kẻ thống trị. Họ dành nhiều dễ dãi cho Hoa Kiều trong vấn đề di dân, vận tải, ngân hàng, địa ốc và buôn bán. Cho nên, số người Hoa ở Sài Gòn-Chợ Lớn đã tăng gấp 4 lần, từ 25 000 lên hơn 100 000 dân trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX đến 1925-35 (Nguyễn Cúc, 2000). Trong gần 100 năm đô hộ, ngành lúa gạo trong nước từ Bắc chí Nam bị người Hoa thao túng và điều khiển chặt chẽ. Miền Nam còn bị ảnh hưởng người Hoa cho đến khi đất nước thống nhất; trong khi miền Bắc thoát khỏi ảnh hưởng này lúc chế độ thực dân không còn. 

      Ngoài ra, phần lớn tiểu nông không có đủ vốn để làm mùa nên phải vay mượn từ chủ điền hoặc thương buôn lúa gạo gọi là lái buôn, lái lúa hoặc thương lái người Hoa. Thường sau khi thu hoạch xong, nông dân phải bán ngay một phần lúa để trả nợ với lãi suất rất cao. Hoặc họ có thể bán lúa làm nhiều lần khi cần tiền để chi tiêu trong gia đình hay chờ giá lúa lên cao. Nhiều lúc họ phải bán lúa non, trước khi lúa được thu hoạch, dĩ nhiên với giá thấp. Giới lái buôn hoặc giới trung gian mua lúa từ nông dân để chuyển giao cho các nhà máy xay chà, chủ nhân các nhà máy này là người Hoa. Họ (còn gọi là Chành) có các kho vựa lớn ở các tỉnh và các thành phố lớn như Sài Gòn, Chợ lớn, Hà Nội và Hải Phòng. Ở Miền Nam, các kho vựa lúa thường nằm dọc theo kinh Rạch Ông và khu Bình Đông (Hình 4&6), nơi cung cấp lúa gạo cho giới tiêu thụ Sài Gòn, vùng phụ cận và cũng để xay chà, biến chế trước khi xuất khẩu.

      Tại mỗi địa phương, chất lượng lúa gạo tùy thuộc vào khẩu vị giới tiêu thụ và ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Do đó, trên thị trường lúa gạo được phân loại ra làm nhiều hạng theo từng địa phương.

Đầu thế kỷ XX, ở Bắc Kỳ, những loại lúa gạo có chất lượng cao được trồng trên vùng đất cao hơn là những vùng đất thấp. Người ta có thể đánh giá chất lượng lúa gạo tùy theo xuất xứ của lúa. Chất lượng được ưa thích giảm từ vùng đất cao xuống thấp, xuất xứ từ Bắc Giang, Phúc Yên, Cẩm Giang, và Vĩnh Yên. Ngoài ra, giới thương buôn còn phân loại gạo như sau (Dumont, 1995):

Hạng nhứt: Sài đường có hạt nhỏ và trong,

Hạng nhì: Bầu có hạt hơi lớn và đục,

Hạng ba: Cút có hạt tròn và lẫn lộn, và

Lúa Tám thơm: có hạt nhỏ và trong, rất được ưa chuộng và giá cao. Gạo Tám thơm hạt nhỏ từ tỉnh Bắc Ninh thường là giống lúa sớm, gặt vào tháng 8 hoặc tháng 9.  

Ở Nam Kỳ, mỗi tỉnh trồng một số giống lúa theo sở thích của dân địa phương. Do đó, người ta có thể xếp loại các tỉnh ra làm 3 nhóm chính theo hình dạng hạt lúa như sau (Trần Văn Hữu, 1927):

Ø  Hạt lúa tròn lớn: Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Cần Thơ, Trà Vinh.

Ø  Hạt lúa dài nhỏ: Sóc Trăng, Bạc Liêu và Rạch Giá.

Ø  Hạt lúa trung bình: Vĩnh Long, Sa Đéc và Tân An.

Hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc dành cho loại lúa nổi, thuộc loại lúa có hạt tròn và lớn nhưng chất lượng kém. Tùy theo địa dư, gạo thương mại được phân chia ra làm 3 loại:

-          Loại gạo Gò Công,

-          Loại gạo Bãi Xàu và

-          Loại gạo Vĩnh Long (hoặc Long Hồ)

Trong đó, loại gạo Cà Đung Gò Công rất được thị trường thế giới ưa thích vì hạt gạo tròn lớn có bề ngoài gần giống gạo Japonica (Capus, 1918). Trong suốt thế kỷ XIX, Gò Công được xem là vựa lúa lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long khi các tỉnh Hậu Giang chưa khai phá hoàn tất. Mỗi loại gạo nêu trên lại được phân ra làm ba hạng: 1, 2 và 3 và có giá cả từ cao xuống thấp để thích ứng các tầng lớp xã hội tiêu thụ trong nước. Giá cả lúa gạo thay đổi tùy theo mức cung-cầu địa phương, từng vụ mùa, từng năm, giống lúa, cách biến chế (ẩm độ, hiệu suất xay chà, lẫn lộn chất lạ) và thương lái.  

2.3.   Sau thời kỳ thực dân

Khi chế độ thực dân chấm dứt, thị trường thương mại ở Miền Bắc không còn nữa, chỉ có nhà nước thu mua lúa và phân phối lúa gạo qua các hợp tác xã cho đến thời Đổi Mới kinh tế. Miền Nam cũng theo chính sách này từ 1975 đến thời kỳ Đổi Mới. Hiện nay, thị trường lúa gạo trong nước đã được tự do, giá cả được quyết định một phần theo mức cung cầu nội địa, một phần do quản lý nhà nước trong khâu xuất khẩu, và thị trường thế giới.

Nhằm bảo vệ quyền lợi người sản xuất cũng như giới tiêu thụ, nhà nước đã ấn định giá sàng, nhưng trên thực tế khả năng không cho phép nhà nước thi hành rốt ráo, nên người trồng lúa vẫn còn bị thiệt thòi. Gần đây, nhà nước ấn định mức lời cho nông dân trồng lúa trên 30% giá vốn (giá thành), nhưng chưa được thực hiện đứng đắn, đặc biệt trong việc ấn định giá thành và kiểm soát doanh nghiệp, thương lái thi hành. Giá lúa tại nông thôn nhiều khi xuống dưới giá tối thiểu và nông dân trông đợi sự quan tâm nhiều hơn của giới hữu trách.

Việt Nam là nước xuất khẩu gạo từ nhiều thế kỷ qua, nhưng cũng có lúc trở thành nước nhập khẩu vì chiến tranh và chính sách sai lầm. Do tầm ảnh hưởng lớn trong thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước, khâu xuất nhập khẩu lúa gạo được phân tích và thảo luận chi tiết trong phần tiếp theo. 

3.   GIAI ĐOẠN XUẤT KHẨU LÚA GẠO THẬT SỰ THỜI TIỀN CHIẾN (1860-1961)

3.1.   Vấn đề xuất khẩu và chất lượng

Trước thời thực dân, lúa gạo được đem bán hoặc trao đổi với các nước láng giềng, như Trung Quốc (Hồng Kông), Singapore, Indonesia, Philippines, Nhựt Bổn và Ấn Độ qua biên giới Việt-Trung và các cửa khẩu Hải Phòng, Hội An, Sài Gòn,... Trong thời thực dân, thị trường xuất khẩu lúa gạo được bành trướng qua châu Âu (Pháp, Đức, Anh, Hà Lan,...) và các thuộc địa của Pháp Quốc ở châu Phi do các hoạt động thương gia châu Âu. Về phương diện kinh tế, người Pháp đặc biệt chú ý đến ngành sản xuất lúa và tiềm năng xuất khẩu lúa gạo để thu lợi, ngay khi họ vừa chiếm Nam Kỳ. Từ năm 1867, người Pháp đã đem lúa gạo Nam Kỳ tham dự triển lãm thế giới, nhưng chất lượng còn quá kém (Capus, 1918).

Vào đầu thế kỷ XX, nhờ đất đai rộng lớn và dân số còn ít nên cả Miền Nam và Miền Bắc có quá trình xuất khẩu gạo đáng chú ý, nhưng chất lượng lúa gạo xuất khẩu còn kém so với các loại lúa gạo trên thế giới, ngay cả Miến Điện và Thái Lan thuộc địa Anh. Chất lượng kém là do lẫn lộn nhiều giống lúa, hạt cỏ dại, chất dơ, tỗn trữ kém làm hạt lúa trở vàng, gạo bể nhiều,... Đó là do người trồng và nhất là kỹ thuật biến chế cổ hủ của các nhà máy xay chà bản xứ. Hơn nữa, các thương gia thường pha trộn các loại lúa tốt và xấu với nhau để kiếm lợi nhuận nhiều hơn. Chẳng hạn, gạo Nàng Hương bán tại các chợ có nhiều hạng khác nhau do pha trộn của các nhà máy xay chà hoặc thương lái. 

Do sự cố này, Phòng Thí Nghiệm Di Truyền và Cục Túc Mễ Đông Dương được thành lập vào đầu thế kỷ XX để cải tiến năng suất và chất lượng trong giai đoạn sản xuất ngoài đồng và các giai đoạn biến chế sau thu hoạch. Chất lượng lúa sau đó được cải tiến nhiều cho đến thời kỳ thực dân chấm dứt, nhưng vì chiến tranh còn tiếp tục và các nhà máy xay chà trở nên cổ lỗ, chất lượng gạo xuất khẩu sau đó bị giảm sút hẳn. 

3.2.   Xuất khẩu của Đông Dương     

Tài liệu thống kê của Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (tiền thân của FAO) ở Rome thường báo cáo tình trạng xuất nhập khẩu lúa gạo cho toàn vùng Đông Dương, gồm Nam Kỳ, An Nam (Trung kỳ), Bắc Kỳ, Cam-Bốt và Lào. Xuất khẩu lúa gạo Nam Kỳ chiếm hơn 

Bảng 1: Diện tích, sản lượng, năng suất và xuất-nhập khẩu lúa và gạo ở Đông Dương, 1927-1942 

Năm

Diện tích (ha)

Sản lượng lúa (tấn)

Năng suất (t/ha)

Nhập khẩu

(tấn)

Xuất khẩu

(tấn)

 

1927

5.446.685

6.503.000

1,19

9,4 a/

29 b/

62.561a/

1.473.829b/

1928

5.553.229

5.740.100

1,05

24,7 a/

0,1 b

92.923a/

1.540.638b/

1929

5.620.986

5.948.400

1,06

1,2 a/

23 b/

16.785a/

1.314.522b/

1930

5.804.552

5.811.000

1,01

0,4 a/

7 b/

9.716a/

1.015.410b/

 

 

 

 

 

 

1930-34

5.423.000

5.831.900

1,06

460 a/

130 b/

67.590 a/

1.066.780b/

1935

5.460.000

6.064.200

1,11

1.400 a/

220 b/

317.750 a/

1.323.550b/

1936

5.644.000

6.316.200

1,12

1.730 a/

1.390 b/

224.290 a/

1.417.210b/

1937

5.580.000

6.330.850

1,13

1.750 a/

680 b/

139.990 a/

1.258.430b/

1938

6.012.000

7.133.600

 

1,19

4.250 a/

7.680 b/

37.650a/

913.720 b/

1939

-

-

-

4.180 a/

25.150 b/

326.640 a/

1.252.870b/

 

1940

-

 

 

-

-

60.060 a/

1.473.060b/

1941

 

6.783.800

 

0

0

170 a/

932.320 b/

1942

 

7.175.400

 

3.490 a/

6.030 b/

50 a/

957.140 b/

Nguồn: Viện Nông Nghiệp Quốc Tế, 1927;  a/ lúa  b/ gạo      

50%. Năm 1909, Đông Dương xuất khẩu được 916 888 tấn gồm 23 127 tấn lúa và 893 761 tấn gạo. Xuất khẩu cao nhất là 1 633 561 tấn lúa và gạo (gồm có 92 923 tấn lúa) vào năm 1928, tăng gần 100% trong vòng 20 năm. Số lượng lúa gạo Đông Dương còn tiếp tục xuất khẩu từ 1 triệu đến 1,5 triệu tấn cho đến khi Thế Chiến thứ II xảy ra. Năm 1942, Đông Dương còn xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn lúa gạo (Bảng 1). Số lượng này giảm dần đến khi chế độ thực dân chấm dứt.  

3.3.   Xuất khẩu ở Bắc Kỳ

Vào khoảng 1920-29, Miền Bắc xuất khẩu độ 145 000 tấn gạo mỗi năm, trong đó phần lớn là lúa thơm, đặc biệt qua Hồng Kông, sau đó vào Trung Quốc để tái xuất khẩu qua Nhựt Bổn có lợi nhiều hơn. Một số lượng lúa nhỏ hơn được chở qua Tây Ban Nha để xay chà và pha trộn với gạo tốt hơn của xứ này, sau đó  đưa vào Pháp tiêu thụ cho hợp khẩu vị địa phương. Chỉ một số lượng nhỏ được xuất khẩu thẳng qua Pháp độ 7 500 tấn gạo mỗi năm (Dumont, 1995). Miền Bắc gián đoạn xuất khẩu từ năm 1932 (King, 1977) đến giữa thập niên 1950. Năm 1957-59, Miền này tái xuất khẩu được 87 000 tấn, năm 1960 112 000 tấn, sau đó giảm dần chỉ còn 2 000 tấn vào 1963. 

3.4.   Xuất khẩu ở Nam Kỳ

Miền này xuất khẩu độ 56 950 tấn lúa và gạo vào năm 1860, tăng lên 1 370 900 tấn năm 1925 (Bảng 2), 1 320 000 tấn trong 1934 -38, chỉ còn 166 000 tấn trong 1952 - 56 (Angladette, 1966). Riêng năm 1915, Nam Kỳ xuất khẩu 833 435 tấn, trong đó có 777 739 tấn gạo trắng, 7 328 tấn gạo lứt và 48 368 tấn lúa; qua Hồng Kông (226 531 tấn), Indonesia (178 573 tấn), Singapore (176 883 tấn), Pháp (125 351 tấn), Philippines (105 341 tấn) và một số xứ khác như Nga (châu Á), châu Phi và châu Âu (Service des affaires économique, 1916) (Bảng 3). Lúa gạo xuất khẩu Nam Kỳ phần lớn phải qua ngõ Sài Gòn và Chợ Lớn. Đầu thế kỷ XX, có 10 nhà máy xay chà ở hai vùng này chuyên xuất khẩu lúa gạo, trong đó chỉ có 2 nhà máy xay chà thuộc người Pháp, còn 8 nhà máy khác do người Hoa làm chủ (Capus, 1918).

Bảng 2: Diện tích trồng lúa và xuất khẩu lúa gạo ở Nam Kỳ, 1860-1925 

 

Năm

 

Diện tích trồng                                                   (ha)

 

Xuất khẩu (tấn)

1860

 

56.950

1868

215.000

128.894

1870

522.000

293.207

1890

854.000

540.998

1900

1.174.000

747.635

1910

1.528.000

1.144.644

1920

1.939.000

1.020.399

1921

1.955.000

1.532.721

1922

1.845.000

1.260.374

1923

1.906.000

1.145.315

1924

1.975.000

1.101.609

1925

-

1.370.900

      Nguồn gốc: Trần Văn Hữu, 1927

Ngoài ra, cũng nên biết một số thông tin về thị trường lúa gạo thế giới trong giai đoạn này. Trong thời tiền Cách Mạng Xanh, tổng số lượng xuất khẩu trên thế giới từ 6 đến 8 triệu tấn gạo mỗi năm so với thời hậu CMX từ 18 triệu đến hơn 40 triệu tấn gạo trong thời gian 1996-2016 (FAO, 2017). Miến Điện dẫn đầu và Thái Lan đứng hàng thứ hai trong xuất khẩu gạo từ đầu thế kỷ XX đến thập niên 1960. Sau đó, Thái Lan vượt lên hạng nhứt cho đến 2017. Vào thập niên 1930, Miến Điện xuất khẩu độ 3 triệu tấn gạo mỗi năm và Thái Lan độ 1,4 triệu tấn (Angladette, 1966). Trong cùng thập niên trên, Nam Triều Tiên xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo, Đài Loan 0,67 triệu tấn, Hoa Kỳ 72 000 tấn, Ba Tây 54 000 tấn, Ai Cập 100 000 tấn, Madagascar 4 000 tấn, Ý 150 000 tấn, Tây Ban Nha 36 000 tấn và Úc Châu 13 000 tấn (Viện Nông Nghiệp Quốc Tế, 1939).      

Bảng 3: Sản lượng lúa, gạo trắng, gạo lứt xuất khẩu Nam 
Kỳ năm 1915 

 

Nơi đến

 

Gạo lứt          (tấn)

 

Gạo trắng

     (tấn)

 

    Lúa

   (tấn)

 

Tổng cộng

(tấn)

 

Pháp

Cửa khẩu

Các thuộc địa

 

      1.517

-

 

91.700

14.511

 

      32.154

-

 

125.351

  14.511

Châu Âu

-

-

2.885

    2.885

Philippines

-

105.332

9

105.341

Indonesia

-

178.573

-

178.573

Singapore

1.446

166.081

9.356

176.883

Trung Quốc

(Hồng Kông)

 

4.365

 

219.797

 

2.369

 

226.531

Nhựt Bổn

-

-

-

      -

Châu Phi

-

-

1.620

    1.620

Ấn Độ

-

-

-

-

Nga (Châu Á)

-

    1.745

-

    1.745

 

Tổng cộng

 

 

7.328

 

777.739

 

48.363

 

833.450

  Nguồn: Service des affaires économiques, 1916 

4.   GIAI ĐOẠN NHẬP KHẨU LÚA GẠO THẬT SỰ (1962-1988)

Giai đoạn này kéo dài 26 năm, Việt Nam vẫn còn xuất và nhập khẩu lúa gạo cùng lúc, nhưng số lượng nhập nhiều hơn, được gọi là nhập khẩu thật sự. Trong thời gian trên, Việt Nam đã nhập khẩu 13,8 triệu tấn gạo trị giá hơn 3 tỷ Mỹ kim (Bảng 4). Trong 1961, Việt Nam chỉ còn xuất khẩu 182 251 tấn gạo và nhập khẩu 18 500 tấn. Kể từ 1962 cho đến 1988, nước ta phải nhập khẩu gạo thật sự từ Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, v.v. mới đủ nuôi dân chúng vì chiến tranh và áp dụng các chính sách kinh tế không hữu hiệu ở Miền Bắc. Nhập khẩu gạo nhiều nhứt, trên một triệu tấn trong thời gian từ 1967-1970 (Bảng 4). Ở Miền Nam, có độ 800 000ha ruộng bỏ hoang vì lý do an ninh trong thập niên 1960 và bán thập niên 1970. Số lượng gạo nhập khẩu cao nhất là 1 260 000 tấn năm 1970. Đất nước chấm dứt nhập khẩu gạo thật sự trong 1989 nhờ chính sách Đổi Mới kinh tế. 

Bảng 4: Số lượng và trị giá nhập khẩu gạo từ 1961-2016 

Năm

Số lượng (tấn)

Trị giá (x1.000 Mỹ kim)

1961

1962

1963

1964

1965

1966

1967

1968

1969

1970

1971

1972

1973

1974

1975

1976

1977

1978

1979

1980

1981

1982

1983

1984

1985

1986

1987

1988

1989

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

18.500

211.500

450.000

420.000

329.593

894.194

1.250.000

1.230.000

1.030.000

1.260.000

690.000

880.000

850.000

910.000

350.000

147.700

197.000

70.000

250.000

201.400

12.000

197.000

42.000

322.000

336.100

482.500

322.500

199.500

55.125

1.900

6.168

1.700

750

0

11.000

0

0

1.300

5.200

0

2.600

40.000

2.251

55

340

575

2.080

683

847

983

2.409

27.600

6.251

15.286

18.742

26.591

3.475

43.048

51.300

47.250

42.647

129.291

200.000

220.000

165.000

186.000

87.000

115.000

175.000

340.000

200.000

191.500

69.000

28.000

97.000

84.500

3.000

60.000

15.000

81.000

81.000

63.691

44.113

50.210

15.363

500

1.234

510

220

0

3.300

0

0

280

1.700

0

650

5.500

619

46

215

305

1.119

731

586

767

1.295

10.447

4.350

37.134

34.029

35.501

Tổng cộng

  13.783.923

    3.029.426

            Nguồn: FAOSTAT, 2018

5.   GIAI ĐOẠN TÁI XUẤT KHẨU LÚA GẠO THỜI ĐỔI MỚI KINH TẾ (1989 đến nay)

Năm 1988, nhà nước cho thi hành chính sách Đổi Mới, qua Nghị Quyết số 10. Một năm sau, Việt Nam bắt đầu tái xuất khẩu thật sự với số lượng 1 420 000 tấn gạo, trị giá 290 triệu Mỹ kim. Trong thập niên 1990, xuất khẩu bình quân khoảng 2-4 triệu tấn gạo mỗi năm, đa số gạo xuất khẩu thuộc loại 15% hoặc 25% tấm, hoặc lớn hơn. Dĩ nhiên giá gạo xuất khẩu luôn thấp hơn Thái Lan đối với gạo cùng hạng. Gần đây, gạo 5% tấm của Việt Nam xuất hiện thường xuyên trên thị trường thế giới, ngoại tệ thu về cũng cao hơn. Nước ta xuất khẩu nhiều nhứt khoảng 7 và 8 triệu tấn gạo vào năm 2011 và 2012, thu được 3,6 tỉ Mỹ kim mỗi năm. Sau đó, xuất khẩu giảm xuống còn từ 4 đến 6 triệu tấn mỗi năm do cạnh tranh thị trường khó khăn, chất lượng gạo chưa cao và không có thương hiệu gạo nổi tiếng (Bảng 5). Mặt hàng xuất khẩu thường gồm có: gạo trắng, gạo lứt, lúa, tấm, bột…, nhưng gạo trắng chiếm tỉ lệ cao hơn hết. Các xứ nhập gạo Việt Nam gồm có Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Malaysia, Iran, Iraq, Cuba và một số nước châu Phi. Gần đây, Nhựt Bổn và ít nước Nam Mỹ cũng nhập gạo dài Việt Nam. Trong thời Đổi Mới kinh tế, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 120 triệu tấn gạo trị giá 43 tỉ Mỹ kim trong thời gian từ 1989-2017 (Bảng 5).

Năm 2017, Việt Nam đã xuất khẩu với số lượng 5,89 triệu tấn gạo, với trị giá 2,66 tỉ Mỹ kim và tiếp tục đứng vào hàng thứ ba xuất khẩu gạo thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu Việt Nam luôn thấp hơn gạo đồng hạng và đồng chủng loại của Thái Lan từ 50 đến hơn 100 Mỹ kim mỗi tấn. Cũng cần nhắc lại năm 1999, mặc dù xuất khẩu gạo mang về cho đất nước khoảng một tỉ Mỹ kim, nhưng các công ty quốc doanh bị lỗ vốn và nông dân bị thiệt thòi! Hiện nay các doanh nghiệp lớn nhà nước chỉ “ngồi không hưởng lợi” và kém khả năng linh hoạt kinh doanh quốc tế, gây thiệt hại cho giới sản xuất. Các doanh nghiệp nầy cần phải tổ chức lại hệ thống thu mua lúa gạo hữu hiệu hơn, từ ruộng nông dân đến nơi xuất khẩu để tránh bớt giới trung gian, thương lái làm ăn độc lập bóc lột nông dân. Tốt hơn hết ngành xuất khẩu gạo và các nông sản khác nên được tư nhân hóa, nhà nước phụ trách chính sách cân đối và quy hoạch hợp lý có lợi cho nông dân và đất nước.

Bảng 5: Số lượng và trị giá xuất khẩu gạo, 1989-2017

Năm

Số lượng (tấn)

Trị giá (x1.000 Mỹ kim)

1989

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017*

1.420.000

1.624.000

1.033.000

1.945.800

1.722.000

1.983.000

1.988.000

3.003.000

3.574.804

3.730.000

4.508.277

3.476.983

3.729.458

3.240.932

3.813.000

4.063.000

5.250.000

4.642.000

4.558.000

4.735.170

5.968.586

6.892.959

7.112.000

8.010.925

3.939.076

6.552.745

6.832.181

5.210.843

5.890.000

290.018

304.637

234.482

417.742

363.000

425.000

530.000

855.000

870.892

1.019.739

1.025.095

666.667

624.710

725.535

719.916

950.315

1.407.229

1.275.895

1.489.970

2.895.938

2.666.062

3.249.502

3.656.807

3.673.654

1.673.955

2.990.707

2.846.522

2.286.819

2.660.000

Tổng cộng

120.449.739

42.795.808

                Nguồn: FAOSTAT, 2018, *Số sơ khởi 

Những xứ xuất khẩu lúa gạo quan trọng trên thế giới được ghi nhận trong Bảng 6. Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Pakistan và Hoa Kỳ là những nước xuất khẩu lớn thế giới trong thập niên qua. Ngoài ra, còn có một số nước xuất khẩu gạo thường trực, nhưng với số lượng ít hơn, như Brazil, Trung Quốc, Cambodia, Myanmar, Úc Châu và Ai Cập. Hiện nay, số lượng lúa gạo xuất khẩu Việt Nam đang có dấu hiệu giảm bớt với sách lược cải tổ cơ cấu sản xuất lúa gạo nội địa. Từ 2005, Ấn Độ nhanh chóng trở thành nước xuất khẩu lớn có lúc đứng hàng đầu thế giới, nhưng bất thường, đã làm cho giá gạo thế giới sút giảm khá nhiều. Giá gạo 5% tấm có lúc chỉ còn 250 Mỹ kim mỗi tấn! Thái Lan luôn là nước dẫn đầu xuất khẩu gạo quốc tế từ thập niên 1960 đến 2018, ngoại trừ thời gian từ 2012 đến 2015, Ấn Độ đứng hàng thứ nhứt với số lượng xuất khẩu 10-11 triệu tấn gạo.

 Bảng 6: Các nước xuất khẩu quan trọng thế giới và gạo xuất khẩu (triệu tấn), 1995-2016 

 

Xứ

 

 

1995

 

2000

 

2005

 

2010

 

2015

 

2016

Thái Lan

5,28

6,19

6,42

8,91

9,78

9,87

Ấn Độ

4,91

1,20

3,70

2,24

10,95

9,87

Việt Nam

1,99

4,00

5,25

6,89

6,83

5,21

Pakistan

1,85

2,20

2,83

4,18

4,05

3,95

Hoa Kỳ

3,05

3,00

4,60

3,75

3,27

3,32

Brazil

0,02

0,03

0,27

0,42

0,88

0,63

Trung Quốc

0,26

3,06

0,67

0,61

0,34

0,56

Canbodia

0

0,01

0

0,05

0,47

0,53

Myanmar

0,37

0,50

0,03

0,59

0,31

0,28

Úc Châu

0,54

0,50

0,05

5,40

0,33

0,17

Ai Cập

0,16

0,39

1,11

0,60

0,14

0,05

Thế giới

22,42

23,39

29,40

33,62

42,42

40,27

                                            Nguồn: FAOSTAT, 2018 

Do sự xuất khẩu gạo ngày càng gặp nhiều khó khăn cạnh tranh trên thị trường thế giới, và trong sách lược tái cơ cấu nông nghiệp được khởi sự từ 2013, nhà nước đề ra chiến lược mới vào tháng 7-2017 nhằm cải tiến và phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030 (Lâm Nguyên, 2017):

-       Bãi bỏ quy hoạch thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo;

-       Điều chỉnh giảm dần lượng gạo hàng hóa xuất khẩu, tăng tỷ lệ gạo xuất khẩu trực tiếp và mang thương hiệu gạo Việt Nam;

-       Đến 2030, chỉ xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn/năm; tỷ trọng gạo trắng thường chỉ chiếm khoảng 25% tổng lượng xuất khẩu; gạo chất lượng thấp và trung bình không vượt quá 10%; gạo thơm, gạo đặc sản, gạo japonica chiếm khoảng 40%; gạo nếp chiếm khoảng 25%; 

-       Đến 2030, xuất khẩu gạo đến thị trường châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, thị trường châu Phi khoảng 25%, thị trường Trung Đông khoảng 5%, thị trường châu Âu khoảng 6%, thị trường châu Mỹ chiếm 10%.

Ngoài ra, ngày 18-12-2018, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chính thức công bố nhãn hiệu (logo) gạo Việt Nam (Hình 5) để thúc đẩy phát triển sản xuất lúa gạo trong nước và nâng cao uy tín xuất khẩu trên thế giới. Đây là lần đầu tiên lúa gạo VN có nhãn hiệu quốc gia và là bước đầu trong quá trình xây dựng thương hiệu của mình sau khi tham gia thị trường xuất khẩu thế giới từ 1989. Tuy nhiên, chất lượng lúa gạo cần phải thật sự cải thiện, nếu không sẽ gây tổn hại uy tín nhãn hiệu quốc gia.

Về sử dụng nhãn hiệu chứng nhận gạo Việt Nam, Quyết định 1499/QĐ-BNN-CBTTNS 2018 của Bộ NNPTNT nêu rõ các tổ chức, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện: được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư có nội dung đăng ký hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm gạo. Đồng thời “…các tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ: chỉ được sử dụng nhãn hiệu chứng nhận cho các loại sản phẩm gạo đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận; đảm bảo chất lượng sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận và duy trì, bảo vệ, phát triển giá trị tài sản trí tuệ đối với nhãn hiệu chứng nhận; thông báo đến đơn vị quản lý nhãn hiệu chứng nhận khi không còn nhu cầu sử dụng nhãn hiệu chứng nhận; nộp chi phí theo quy định cho hoạt động cấp và duy trì hiệu lực giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận…” (Trung Chánh, 2018). 

Tóm lại, Việt Nam có truyền thống xuất khẩu lúa và gạo lâu đời. Trong gần 2 thế kỷ qua, ngành xuất khẩu lúa gạo của nước không liên tục: tăng nhanh chóng vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, đạt đến đỉnh cao nhứt vào thập niên 1920 và 1930, sau đó sút giảm cho đến cuối thời kỳ thực dân Pháp. Theo tài liệu hiện có, Việt Nam xuất khẩu độ 1 500 000 tấn gạo vào thập niên 1920, 1 320 000 tấn trong 1934-38, chỉ còn 268 000 tấn trong 1957-59, 452 000 tấn trong 1960. Sau đó, nước ta nhập khẩu trung bình 246 000 tấn gạo mỗi năm, và tái xuất khẩu từ 1989, đạt đến gần 6 triệu tấn vào 2017.

Dù thế, khâu xuất khẩu lúa gạo Việt Nam không làm thay đổi nhiều bộ mặt nông thôn, mức sống người trồng lúa vẫn còn thấp trong suốt thế kỷ qua và đầu thế kỷ XXI; nhưng lại mang lợi tức to lớn cho những người làm trung gian và các doanh nghiệp xuất khẩu nhà nước - Thật không công bằng chút nào! Ngoài ra, còn đáng tiếc khi thấy sau 30 năm xuất khẩu thương hiệu lúa gạo quốc gia vẫn chưa được xây dựng tích cực. Chẳng lẽ tình trạng này mãi tiếp tục khi đất nước đã bước vào thế kỷ mới và hội nhập kinh tế toàn cầu? 

Miền Nam đã trở thành vựa lúa lớn nhứt cả nước từ đầu thế kỷ XX, sản xuất chiếm hơn 50% và xuất khẩu 90% tổng số lượng cả nước. Tuy nhiên, lúa gạo với chất lượng kém, không có thương hiệu quốc gia, giá thành cao, và quản lý yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước đã làm thiệt hại quyền lợi nông dân và đất nước.

Hiện nay, thị trường thế giới đang chuyển hướng về loại lúa gạo có chất lượng cao, đặc biệt tại các nước phát triển và Trung Đông. Ở các xứ này, người dân có khuynh hướng đa dạng hóa thức ăn hàng ngày; họ ưa thích gạo hạt dài và thơm (nhưng không quá thơm). Trong khi đó, Việt Nam hiện nay xuất khẩu loại gạo có chất lượng trung bình và thấp, cho nên cần phải cải tiến khâu hậu thu hoạch, công nghệ biến chế, quản lý thị trường, và xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam để tăng trị giá gia tăng, giúp nông dân trồng lúa hưởng được lợi nhuận nhiều hơn (Xem thêm Phụ bản 3: Xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam). Giới quan sát nhận định rằng:

1)              Lúa gạo có chất lượng cao như Basmati của Ấn Độ, Pakistan; Jasmine và Khao Dawk Mali 105 của Thái Lan, hoặc Malagkit Sungsong của Philippines, Badshahog của Bangladesh thường được giới tiêu thụ thế giới ưa chuộng và có giá gấp đôi ba lần giá xuất khẩu bình quân của Việt Nam. Hiện nay giá gạo thơm từ 500-1 000 Mỹ kim mỗi tấn.

2)              Dù xuất khẩu với số lượng nhỏ và chất lượng cao, nhưng ngoại tệ kiếm được vẫn bằng hoặc cao hơn xuất khẩu với số lượng lớn và chất lượng kém.

3)              Vấn đề chuyên chở, biến chế, bao bì và tồn trữ các loại lúa gạo chất lượng cao cũng sẽ ít tốn kém hơn. 

4)              Ấn Độ, Pakistan và Thái Lan có chính sách tăng xuất khẩu gạo chất lượng cao như Basmati, Khao Dawk Mali, Jasmine và các loại tương tự khác. Còn Việt Nam đến bao giờ?!

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Angledette, A. 1966. Le riz. Limoges, France, pp 930.
  2. Bùi Thiết. 2000. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
  3. Capus, G. 1918. Les riz d’Indochine. In: Annales de Géographie, Librairie Armand Colin, Paris, 5e, 27: 25-42.
  4. Dumont, R. 1995. La culture du riz dans le delta du Tonkin. Printimg House in Bangkok, Thailand. pp 592.
  5. Đào Duy Anh. 1938. Việt Nam văn hóa sử cương. NXB Xuân Thu, Texas (tái bản 1976), 345 tr.
  6. FAO, 2017. FAOSTAT, Rome, Italy
  7. Huỳnh Lứa, Lê Quang Minh, Lê Văn Năm, Nguyễn Nghị và Đổ Hữu Nghiêm. 1987. Lịch sử khai phá đất Nam Bộ. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 275 tr.
  8. King, R. 1977. Land reform - A world survey. G. Bell & Sons LTD, London, pp 446.

9.      Lâm Nguyên. 2017. Phấn đấu vào năm 2030 xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo

  1. Lê Thái Dũng. 2010.Tìm hiểu Văn hóa Thời Đại Hùng Vương. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 254 trang.
  2. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr. 
  3. Nguyễn Cúc. 2000. Sài Gòn - 300 năm cũ. NXB Tiếng Sông Hương, Texas, Mỹ, 417 tr.
  4. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  5. Phạm Cao Dương. 1967. Thực trạng của giới nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. NXB Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 255 tr.
  6. Service des affaires économique. 1916.

Bulletin économique de l’Indochine, No. 117, Jan-Fev. 1916, imprimerie d’Extrême-orient, Hanoi, Haiphong.

  1. Sơn Nam. 2000. Lịch sử khẩn hoang Miền Nam. NXB Xuân Thu, California, Hoa
  2. Trần Văn Hữu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, pp 31.

18.  Trung Chánh. 2018. Việt Nam chính thức có thương hiệu gạo quốc gia (https://www.thesaigontimes.vn/td/283015/viet-nam-chinh-thuc-co-thuong-hieu-gao-quoc-gia.html).

  1. Viện Khảo Cổ Học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà nội, 555 tr.
  2. Viện Khảo Cổ Học. 2002. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo Cổ Học Lịch Sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà nội, 519 tr.
  3. Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1927-1941. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.
  4. Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1927-1945. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.
  5. Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International Institute of Agriculture) (Former FAO). 1939-1941. International Yearbook of Agricultural Statistics, Rome, Italy.

KẾT LUẬN

 

Lúa gạo là lẽ sống của dân tộc, đang nuôi dưỡng hơn 96 triệu người VN (2017) và gắn liền với tình trạng thịnh suy đất nước hàng thiên kỷ, từ tình trạng ngừng đọng trong thời đại Đá Mới đến tiến bộ chậm chạp qua các nền quân chủ phong kiến, tiếp theo những thay đổi theo hướng tiến bộ kỹ thuật tích lũy trong thời kỳ thực dân, độc lập và thống nhất xứ sở. Thành tựu ngành khảo cổ học và nhiều nguồn thư tịch trong và ngoài nước đã giúp chúng ta hiểu biết được phần nào lịch sử tiến hóa của nền nông nghiệp, đặc biệt ngành trồng lúa bản xứ, mặc dù còn rất nhiều giới hạn về chất lượng và dữ liệu thông tin. Dù thế, bức tranh về lịch sử ngành sản xuất lúa gạo VN cũng hiện rõ những nét đại cương, nhưng cần có thêm thông tin cập nhựt để có sức thuyết phục nhiều hơn. Rõ ràng lịch sử trồng lúa VN đã trải qua ít nhứt 8 thời kỳ quan trọng của đất nước: 

(1) Hái lượm-săn bắt, thuần hóa cây lúa hoang trong nền nông nghiệp sơ khai của nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn cách nay ít nhứt 10 000-8 000 năm;

(2) Sáng tạo và phát triển trồng lúa rẫy bởi các bộ lạc trên vùng đất cao trong nền văn hóa Bắc Sơn-Đa Bút cách nay ít nhứt 7 000-5 000 năm;

(3) Phát triển trồng lúa nước trong thời đại Hùng Vương-An Dương Vương qua các nền văn hóa Phùng Nguyên, Cầu Sắt-Suối Linh, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn cách nay khoảng 4 000-2 178 năm với nền văn minh lúa nước rạng rỡ, bên cạnh nghề trồng lúa rẫy lâu đời;

(4) Ngành trồng lúa cổ truyền với sự giao thoa giữa nền văn hóa Đông Sơn và Hán tộc thời Bắc thuộc (179 tr CN-938);

(5) Mở rộng ngành trồng lúa nước trong cuộc Nam tiến dưới thời Độc Lập phong kiến (938-1884);

(6) Phát triển trồng lúa cải tiến với làn gió mới kỹ thuật Tây phương trong buổi giao thời dưới thời Pháp thuộc để chuẩn bị cho tương lai (1884-1954); 

(7) Phát triển sản xuất lúa hiện đại vượt bực ngoạn mục từ 1954 đến Cách Mạng Xanh và Đổi Mới kinh tế; và

(8) Tái cơ cấu ngành trồng lúa từ 2013 đến nay để làm thay đổi bộ mặt nông thôn và nâng cao đời sống nông dân. 

Ngành trồng lúa được phát triển liên tục cùng với tiến trình hình thành đất nước và bành trướng lãnh thổ theo không gian và thời gian. Loại Hòa thảo này đã phát triển từ cây hạt trần (angiosperms), tiến hóa như loài người hôm nay, đã trải qua hành trình hàng triệu năm. Tổ tiên cây lúa hoang có mặt trên quả địa cầu nguyên thùy Gondwanalands cách nay khoảng 130 triệu năm và có thể hiện diện trên nước Việt cổ ít nhứt 18 000 năm, sau thời kỳ băng giá cực đại thế giới. Theo giả thuyết nguồn gốc đa trung tâm của Viện lúa quốc tế IRRI với đồng thuận của giả thuyết Đông Nam Á, Miền thượng du Bắc Việt có thể là một trong những trung tâm nguồn gốc xuất hiện cây lúa trồng, bên cạnh những trung tâm khác như đồng bằng sông Hằng, Ấn Độ, vùng biên giới miền bắc giữa Miến Điện và Thái Lan, bắc Lào và tây nam Trung Quốc. Vì vậy, ngành trồng lúa rẫy có thể xuất hiện trước nghề trồng lúa nước ở Việt Nam và Đông Nam Á. Tuy nhiên, theo giả thuyết mô hình một trung tâm gần đây, dù dữ liệu dùng nghiên cứu còn giới hạn, lưu vực phía nam sông Dương Tử có thể là nơi duy nhứt xuất phát cây lúa trồng châu Á để từ đó lan truyền đến những vùng khác trên thế giới, cho nên giả thuyết này cần có thêm nghiên cứu mới để xác nhận.

Tại Việt Nam, thành tựu khảo cổ học cho biết dấu vết các loài phấn hoa họ đậu, cây ăn quả trong một số hang động và công cụ hoạt động làm bằng đá cuội, đá mài, rìu Bắc Sơn là những chứng tích của nền nông nghiệp sơ khai được phát hiện trong nền văn hóa Hòa Bình cách nay ít nhứt 10 000 năm. Các nhà khảo cổ học còn phát hiện một mảnh đá có khắc lá Hòa thảo mà nhiều chuyên gia cho là hình lá lúa. Ngoài ra, ở biên giới phía bắc giữa Thái Lan và Myanmar, các nhà khảo cổ tìm thấy vết tích vỏ trấu và hạt lúa trên mảnh gốm có niên đại phóng xạ cách nay ít nhứt 6 000 năm; những hạt lúa và chiếc liềm bằng vỏ sò ở vùng gần đồng bằng trung châu Thái Lan cách nay từ 8 000-6 000 năm. Do đó, các nhà nghiên cứu Việt Nam tin rằng cư dân Hòa Bình có thể biết ít hoạt động quản lý cây ăn quả, củ, đậu hoặc hái lượm hạt lúa hoang để có thêm thức ăn; cho nên nền nông nghiệp sơ khai bắt đầu xuất hiện, bên cạnh sinh hoạt săn bắt và hái lượm vẫn là chủ lực.

Tiếp theo, cư dân thuần hóa một số thảo mộc và sau đó động vật quanh nơi cư trú. Qua hàng trăm năm sau các bộ lạc trồng lúa ra đời nhiều nơi trong nước và một số nước Đông Nam Á vào cuối thời đại Đá Mới khoảng 6 000-5 000 năm trước trong nền văn hóa Bắc Sơn và Cầu Sắt-Suối-Linh, đã mang đến phần nào đời sống ổn định cho cư dân; đây là yếu tố cơ bản cho sự tiến bộ và văn minh dân tộc sau này. Nhờ dụng cụ đá mài, rìu mài, mảnh tước, họ có thể chặt cây, phá rừng để khai thác nông nghiệp nương rẫy; dao đá, liềm đá để thu hoạch ngũ cốc. Đến nền văn hóa Phùng Nguyên, kỹ thuật làm đồ đá đạt trình độ cao với rìu và bôn hình tứ giác nhỏ, đồ trang sức bằng đá mài nhẵn, với kỹ thuật cưa đá và tiện đá lão luyện, đặc biệt là sự xuất hiện lưỡi cày cuốc bằng đồng và kỹ thuật luyện kim, đã tạo nên phong trào Cách Mạng Kim Khí mới. Đồng thời, mực nước biển lùi dần góp phần biến chuyển lớn trong nông nghiệp từ trồng lúa rẫy qua lúa nước sơ kỳ; hình thành các cơ sở vật chất và tinh thần sơ khởi của thời đại Hùng Vương-An Dương Vương. Do những lợi ích thiết thực, nền nông nghiệp lúa nước ngày càng sung túc, với bằng chứng phát hiện những hạt gạo cháy, vỏ trấu và các hầm thóc mục thối ở di chỉ khảo cổ Đồng Đậu và Gò Mun có niên đại 3 000-3 300 năm, các phấn hoa của một giống lúa nước ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng) cách nay khoảng 3 500 năm và gần đây vỏ trấu của mảnh gốm An Sơn, Long An có niên đại hơn 4 000 năm.

Vào thời Cổ Đại, cư dân Việt đã có một số kinh nghiệm và hiểu biết về trồng lúa, chủ yếu là trồng lúa nước theo thủy triều lên xuống, biết trồng lúa hai vụ, cấy lúa, dùng sức kéo trâu bò để cày xới đất và khai thác thủy lợi. Thời kỳ này đã tạo ra nền văn minh Việt cổ đáng chú ý, còn gọi là văn minh lúa nước với nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, mở đầu kỷ nguyên mới cho đất nước cũng như sự trưởng thành của dân tộc trong quá trình dựng nước. Tầm quan trọng của cây lúa, chủ yếu lúa nếp ngày càng lớn do cây lúa có chức năng đa dạng, thích ứng tốt với nhiều vùng sinh thái khác nhau và đặc biệt hạt lúa tương đối dễ bảo quản, nên có thể đáp ứng nhu cầu kinh tế, an ninh lương thực của cư dân cổ ngày càng thêm đông. Đây là biến chuyển mới của nền văn minh Việt cổ, với các tiến bộ quan trọng về tinh thần và vật chất để hình thành các cơ cấu xã hội và đời sống có tổ chức con người. Nhờ có nền nông nghiệp trồng lúa, đời sống cư dân Việt ổn định và tập trung phát triển thôn làng khắp nơi.

Tiếp theo là thời kỳ Bắc thuộc, sự tiếp xúc va chạm giữa văn hóa Bắc phương và văn hóa Đông Sơn cũng như du nhập lưỡi cày sắt đã giúp nền nông nghiệp phần nào khởi sắc và ngành trồng lúa nước bành trướng khả quan; nhưng chính sách đô hộ hà khắc, thô bạo và bất nhân đã làm cản trở bước tiến hóa và phát triển bản sắc dân tộc Việt.

Giai đoạn phát triển sản xuất lúa gạo trong thời kỳ độc lập phong kiến với loại lúa tẻ ngày càng trở nên quan trọng do năng suất cao hơn nếp, gạo cho cơm nhiều hơn, chiếm ưu thế từ thế kỷ XVII. Nhưng do ảnh hưởng Nho giáo sâu đậm và các cuộc xâm lăng không ngừng của Bắc phương, kỹ thuật trồng lúa không tiến bộ nhiều trong thời gian dài hơn một ngàn năm. Dù vậy, sản xuất lúa gạo trong nước vẫn tăng liên tục do các chương trình khai khẩn đất mới và bành trướng lãnh thổ về phương Nam.

Sau đó, đất nước lại rơi vào vòng Pháp thuộc, tiếp cận với nền văn minh Tây phương nên ngành canh tác lúa bắt đầu thay hình đổi dạng, thấm nhuần kỹ thuật mới và khoa học thực hành để chuẩn bị cho cuộc Cách Mạng Xanh sau này, bên cạnh các nỗi đau khổ triền miên của dân tộc do kẻ thống trị gây ra. Thật vậy, các cơ sở nghiên cứu nông nghiệp và sản xuất lúa được thiết lập, các kỹ thuật, khoa học và quản lý sản xuất tiến bộ đã được du nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho nền nông nghiệp và ngành lúa gạo bước vào giai đoạn mới để hội nhập trào lưu tiến hóa nhân loại.

Trong thời Cách Mạng Xanh (bắt đầu từ 1968), phát triển sản xuất lúa gạo đạt đến tầm cao nhờ ứng dụng triệt để kỹ thuật tân tiến, đưa năng suất bình quân của nước tăng vọt từ 2 t/ha lên hơn gần 6 t/ha và sản lượng lúa tăng lên mau lẹ trong thời gian 50 năm, nhứt là khi đất nước bước vào thời kỳ Đổi Mới kinh tế và trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, ngành sản xuất lúa gạo trong nước hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, chủ yếu tìm kiếm đầu ra thế giới cũng như đời sống nông dân và tình trạng nông thôn không được cải thiện trong nhiều thập niên qua. Cho nên, năm 2013 Việt Nam bắt đầu thực hiện đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, trong đó đề án “Tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt và thi hành.

Nhìn tổng thể, những cột móc thời gian đáng ghi nhớ về tiến trình lịch sử trồng lúa ở Việt Nam có thể được tóm lược từ thời nguyên thủy đến hiện đại như sau:

1)      Khoảng 11 000 năm trước: Cuộc Cách Mạng Đá Mới bắt đầu.

2)      Khoảng 10 000 năm trước: Nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện.

3)      Khoảng 8 000-7 000 năm trước: Thuần hóa cây lúa hoang song song với cây ăn trái và cây củ đậutrong nền văn hóa Hòa Bình.

4)      Khoảng 7 000-5 000 năm trước: Trồng lúa rẫy chiếm ưu thế so với lúa nước và các bộ lạc trồng lúa xuất hiện (rìu đá Bắc Sơn, Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).

5)      4 000-3 500 năm trước: Chú ý khai thác lúa nước do mực nước biển bắt đầu thoái dần. Cư dân tràn xuống định cư thành lập thôn làng ở các thung lũng, đồng bằng dọc theo sông và bờ biển. Họ tập trung trồng lúa nước vì sản xuất nhiều hơn và bảo đảm thu hoạch tốt hơn so với lúa rẫy, nhưng một số nơi còn trồng lúa rẫy du canh truyền thống (Các di tích Phùng Nguyên (thời đại Hùng Vương), Cầu Sắt-Suối Linh, Đồng Đậu và Gò Mun, Viện Khảo Cổ Học, 1999).

6)      3 000-2 700 năm trước: Biết cày ruộng, gieo hạt, cấy lúa nếp theo thủy triều lên xuống với hệ canh tác cố định (Thủy Kinh Chú, Lĩnh Nam Chích Quái).

7)      3 000-2 500 năm trước: Dùng cày, cuốc, rìu bằng đồng trong các hoạt động nông nghiệp (di vật khảo cổ, Viện Khảo Cổ Học, 1999).

8)      2 500-2 100 năm trước: Dùng trâu bò để kéo, đánh bùn (di vật khảo cổ, Viện Khảo Cổ Học, 1999).

Bắt đầu đắp đê đập để chống lũ lụt (Phạm Văn Sơn, 1960; Bùi Thiết, 2.000), trồng lúa nước cổ truyền trong nền văn hóa Đông Sơn.

9)      2 200-1 800 năm trước hoặc sớm hơn: Dùng lưỡi cày bằng sắt (Phạm Văn Sơn, 1960; Bùi Huy Đáp, 1980 và 1999) nông nghiệp lúa tăng gia sản xuất. Trồng 2 vụ lúa; lúa Chiêm (+lúa sớm) và lúa Mùa (Di vật chí).

10)  930-1 127 năm trước: biết dùng bừa trục (Chang, 1985).

11)  Khoảng 1 600 năm trước: Trồng lúa tẻ nhiều hơn lúa nếp vì năng suất cao và cho cơm nhiều gấp đôi (Sách Quảng Đông Tân Ngữ theo Bùi Huy Đáp, 1999).

12)  1886: Nghiên cứu nông nghiệp đầu tiên (Dumont, 1995).

13)  1909: Tuyển chọn giống lúa để trồng (Carle, 1927).

14)  1913: Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại Cần Thơ (Trần Văn Hữu, 1927).

15)  1917: Lai tạo giống lúa đầu tiên Tàu hương x Carolina (Carle, 1927).

16)  1968: Cách Mạng Xanh bắt đầu xảy ra ở Việt Nam (Trần Văn Đạt, 2001 và 2002).

17)  1988: Thời kỳ Đổi Mới kinh tế bắt đầu.

18)  2013: Tái cơ cấu nông nghiệp lúa.

Dù Việt Nam đã đạt bước tiến bộ lớn trong nông nghiệp lúa, xuất khẩu lúa gạo đứng vào hàng thứ hai hoặc ba của những nước xuất khẩu thế giới trong ba thập niên qua, đời sống của đa số nông dân vẫn còn cơ cực, nhứt là ở những vùng sản xuất dư thừa. Ngoài ra, khoảng cách đời sống giữa đô thị và thôn quê ngày càng giãn nở, môi trường sống lành mạnh càng bị đe dọa khi nền kinh kế phát triển nhanh thiếu kiểm soát cân bằng. Các thách thức càng trở nên to lớn đối với nông dân và nhà nước khi Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO, thế giới đang bùng phát khuynh hướng toàn cầu hóa, kinh tế thị trường tự do, và đối diện nghiêm trọng tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt hiện tượng nước biển dâng cao nhập sâu vào đất liền hàng năm và sự sụt lún ở ĐBSCL. Do đó, tư duy mới, việc tái cơ cấu và chính sách hỗ trợ nông nghiệp rất cần thiết trong giai đoạn này, nhứt là đối với ngành trồng lúa, có tính cách quyết định cho cải thiện đời sống nông dân, tình trạng nông thôn và chuyển hướng làn gió văn minh đổi mới tiến về thôn ấp.


ENGLISH

SUMMARY

 

 

HISTORY OF

RICE CULTIVATION

IN VIET NAM

 

Cây lúa là loại thảo mộc thực phẩm quan trọng của Việt Nam và thế giới, với hơn 3 tỉ người tiêu dùng, hay hơn phân nửa dân tộc thế giới và 112 nước trồng lúa. Cây lúa không những đóng góp vào an lương thực quốc gia của nhiều nước, mà còn cung cấp nguồn lợi tức cho hàng triệu người ở nông thôn và bảo vệ môi trường.Rice is an important food of Viet Nam and the world, with over 3 billion consumers, or more than half of world population in 115 countries. Rice does not only contribute to national food security in the country, but also provides income for millions of rural people and environmental protection.Tuy nhiên, nguồn gốc của cây lúa vẫn còn nhiều tranh cải, vì nó xuất hiện lâu đời trong thời tiền sử. However, the origin of rice is still controversial, because it appeared in prehistory.Theo một số nghiên cứu trong và ngoài nước, các cư dân ở Việt Nam có thể biết đến cây lúa cách nay ít nhứt 10.000-8.000 năm trong nền văn hóa Hòa Bình và nước ta có thể là một trong những trung tâm nguồn gốc cây lúa trồng độc lập của Châu Á, theo thuyết đa trung tâm của Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc tế - IRRI (Chang, 1985). According to some studies in Viet Nam and overseas, inhabitants in our country could know how to gather wild rice grains for food, besides legumes and root tubers at least 8,000 years in Hoa Binh - Bắc Sơn culture; and North Viet Nam could be one of the independent original centers of cultivated rice in Asia, according to the multi-center theory formulated by the International Rice Research Institute - IRRI (Chang, 1985 and 1993) and others.

Over thousand years, rice plant has evolved from wild type to modern one, affecting all aspects of the society and people life, while the Vietnamese civilization continued slow advancement from a primitive form with rice tribes appearance in the end Neolithic period to old wetland rice development during the nation establishment, traditional rice production under Northern invasion-and-independence period, and modern rice dissemination during the last Green Revolution and Economic Reform.

Hence, rice is a way of life for the Vietnamese. In Viet Nam, rice is recognized not only for its nutritional value, but also as an integral political and cultural feature of society. The multitude of local rice festivals and rituals in the country attests to the value its society place on rice. For more than 3,000 years, Vietnamese livelihoods have been with the status of annual rice production; good harvests have brought prosperity while a bad harvest, combined with high rice prices, have sometimes triggered widespread famine in remote areas, and political and social instability in urban closely associated areas. During the last two decades, the Economic Reform and the recently-ended Green Revolution have not only helped the country to make progress in food security, but also improve its economy through rice exports. However, national policies often favour consumers and export markets, not the farmers who are still living in poor rural areas.

The present challenges for decision makers, developers and scientists are to improve the efficiency and productivity of present rice-based production systems; to improve rural people’s life quality; to conserve natural resources; and to response properly to global climate change.

 

1.   RICE CULTURE, NUTRITION, EMPLOYMENT AND BIODIVERSITY    

Rice has been used as human food for over 15,000 years according to Korean scientists’ discovery in 2003 (IRC, 2003). It is the second largest cereal crop, and the staple food for more than half of the world’s population. Rice contributes to over 20% of the total calorie intake of the human population. More than 2 billion people in Asia alone derive from 35 to 59% of their calories from rice (Juliano, 1993). Recently, the popularity of rice as a healthful food has increased in a number of countries in Africa, America, and other regions where rice is not traditionally a major food crop. In the high-income countries of Europe and North America, rice consumption is increasing in the context of food diversification. In Viet Nam, the importance of this crop in relation to food security and socio-economic development is evident and increasingly recognized in religious and social ceremonies.  

Rice and culture: Rice is equivalent to life for all of the Vietnamese who depend on it. The diverse agrobiodiversity of the country and the rich cultural heritage of rice are due to the nation’s diverse agro-ecosystems, regional topography, and the presence of a large number of ethnic minorities (54 tribes) that have each developed their own rice culture and recipes. Rice is present in many traditional ceremonies, socio-religious practices, costumes, literary works, poems, paintings, folk songs, and, of course, it has a predominant place in the kitchen of every Vietnamese household.       

From the Hung kings to Nguyen’s dynasties, governments have always given high priority to the agricultural economy, with particular emphasis on rice production. Every year they dedicated ceremonies to the rice-growing season (Tich Dien or Ha Dien) in May and to the period after the harvest, literally, “New Rice” (Gao Moi) in October. The King usually presided over the Tich Dien ceremony and high-level officers presided over the others. At present, a number of villages still observe rice celebrations. These occasions provide a traditional forum for promoting social activities, including friendly visits, family visits, games, and even a social venue for dating amongst young people. Traditionally, during transplanting season, workers would read poetry or hold singing and oral contests in the rice fields, which would echo widely in the air throughout the villages.

Glutinous rice plays a special role in Vietnamese culture and is very popular in every ceremony. Yellow, pink and red cooked rice can also be offered on these occasions. During Tet, the lunar New Year, banh chung and banh day (Vietnamese rice-based cakes) appear in markets, family meals and ancestral altars. Different Vietnamese wines made from various kinds of glutinous rice are commonly used in public and private ceremonies and parties. Glutinous rice is also the staple food for many mountainous ethnic tribes. 

Aromatic rices are traditionally grown under strict supervision and are only used during festivals or special occasions. In early times, these rices were only consumed by royalty and nobility. While non-aromatic rice can be produced in bulk, aromatic rice is produced in small quantities and is greatly prided by the village that grows it. These rice types and other speciality rices such as red rice, black rice, soft rice, wine rice, boutique rice and organic rice meet the requirements of both palate and market; those that are rare fetch premium prices. On the contrary, wild rice is not only reserved for special markets, but also provides additional food for the poor in the Mekong River Delta.

Rice for nutrition: Actually, 86 million Vietnamese depend on rice as its major daily source of calories (50%) and protein (35-40%); its per-capita consumption was 248 kg paddy per year in 2007 (FAOSTAT, 2010). Rice grains mainly consist of carbohydrates; they provide food energy, several vitamins, minerals, and a good quantity of dietary protein. In general, rice is boiled and eaten as a main dish; however, with the development of the processing industry and increased national prosperity, it is processed to create a variety of products. Rice-based products are also used in a wide range of snack foods, baked products and beverages. Rice bran oil lowered blood cholesterol more effectively than did safflower, corn and safflower oils (Juliano and Hicks, 1994). 

Rice for employment, income and landscape: Rice is not only a key source of food energy, but also a major employer and income generator for the poor. Rice production activities provide employment for many millions of people who either work directly in rice production or in related support services. Post-production operations: harvesting, threshing, drying, milling, storing, processing and trading of rice provide employment for numerous people. Rice farming produces straw and husk residues, which are used as renewable energy sources, compost, animal feed, and construction materials; rice production systems also play a role in carbon sequestration. Rice cultivation creates beautiful landscapes that are attractive to tourists and recreationalists, thereby further contributing to the many ways in which rice and livelihoods are linked (Tran van Dat, 1999). It is noteworthy that many Vietnamese rural families derive much of their gainful employment and income from non-farm and off-farm activities. This non-farm component is particularly important for rural women and in rainfed rice systems.

However, in the past two decades, international rice prices have followed a marked declining trend, both historically and relative to other cereal crops. This tendency has been fostered by technical improvements, which have resulted in lower production costs per unit and sizeable gains in global production through the late 2000s. These gains exceeded world effective demand and drastically lowered rice prices, at great cost to producers. This phenomenon has seriously affected famers’income.

Rice and biodiversity: Biodiversity is a component contributing to the agricultural multi-functionality. Each species in an agro-ecosystem is part of the ecological relationships connected by flow of energy and materials. Biodiversity is involved in sustaining many different agro-ecosystem functions and environmental processes (nutrient cycling, decomposition, competition, pollination, etc.) either directly or indirectly (Pimpert, 1999). Natural paddy fields provide habitats to many insect pests and natural enemies in rice canopies and many living organisms, including fish, worms, snails, frogs, water weevils, bacteria, phytoplankton, etc, and wild animals such as birds, quail, rabbits, etc.

The use of modern technologies, such as improved early-maturing varieties, machinery, and agro-chemical inputs tends to convert the traditional diverse farming systems into mono-cropping. In the Green Revolution, the rapid replacement of traditional varieties with a few high yielding varieties is the major cause of genetic erosion in agriculture. It is important to mobilize resources for the biological diversity conservation and habitats protection in the country. The Fourth International Conference on Plant Genetic Resources held in Leipzig in 1996 has called for national and international efforts for the collection, evaluation and utilization of plant germplasm, including wild plant species for potential use, in addition to gene collection and mapping for enhancing crop improvement.

 

2.  NGUỒN GỐC CÂY LÚA TRỒNG Ở VIỆT NAM2.   ORIGINS OF PLANTED RICE IN VIET NAM

The origins of domesticated rice are still controversial. India reported the discovery of rice fossils, which were at least 6,000 BC, in its northern regions (Sahara and Sato 1984, Nanda, 1999 and Sharma et al., 2000). China reported that people from Jiangxi province have been growing rice since at least 7,000 - 6,000 BC (Bellwood, 2005). Some scientists believe that rice existed in Southeast Asia and South China at least 8,000-6,000 BC. Several reports indicate that Northern Viet Nam, together with Northern India, the northern border areas between Myanmar and Thailand, and Laos were the first rice-producing regions in the world.Nguồn gốc của cây lúa trồng là đề tài thảo luận sôi nổi tại Việt Nam và thế giới, đặc biệt từ hai nước: Trung Quốc và Ấn Độ.Có rất nhiều chuyên gia thế giới đã nghiên cứu và đề ra nhiều giả thuyết với nhiều địa điểm nguồn gốc khác nhau, tùy theo lề lối suy luận, phương pháp khảo cứu và các tư liệu thu thập được từ lịch sử, công trình khảo cứu hoặc dân gian. Several international experts have put forward theories to different origin locations, depending on their reasoning, research methods, and data collected from history, also their folklore studies.Cho đến thập niên 1950, các nghiên cứu mới có cơ sở vững chắc hơn khi kỹ thuật di truyền tế bào được áp dụng. Since the 1950s, new research has solid basis as the genetic engineering of cells is applied.

Địa điểm nguồn gốc xuất phát cây lúa trồng đầu tiên tại một nơi phải hội đủ 4 tiêu chuẩn sau đây:            Location origin of cultivated rice in the early days must meet the following four criteria:

 

1)      Tổ tiên trực tiếp của cây lúa hay lúa dại phải hiện diện hoặc đã xuất hiện nơi đó; Direct ancestor of rice or wild rice must be present or where it appears;

2)      Di tích khảo cổ xác nhận cây lúa đã được trồng nơi đó; Confirmed archaeological rice was grown there;

3)      Sự hiện diện của loài nguyên thủy của cây lúa trồng; và The presence of the original species of cultivated rice, and

4)      Biến đổi di truyền giữa lúa trồng và lúa dại phải khác biệt ở nơi đó. Genetic variation between cultivated rice and wild rice must be different.

Tại Việt Nam, lúa dại rất phong phú và hiện diện rải rác trên khắp lãnh thỗ, từ thượng du Bắc Việt đến đồng bằng sông Cửu Long, từ Tây Nguyên đến các vùng ven biển Miền Trung.            In Viet Nam, wild rice is a rich presence scattered across the country, from the upper North Vietnam to the Mekong River Delta, from the Highlands to the Central Coast.Sự phân phối của một số giống lúa dại ở Việt Nam, như Oryza rufipogon, Oryza nivara, Oryza officinalis, Oryza granulata được ghi nhận trong Bảng 1. Lúa dại đa niên O. The distribution of some wild rice species in Viet Nam, such as Oryza rufipogon, Oryza nivara, Oryza officinalis, Oryza granulata are recorded in Table 1. Perennial wild rice O. rufipogon and arufipogon và lúa dại hàng niên O.nnual wild rice O. Nivara là những loài nguyên thủy, tổ tiên của các giống lúa trồng ngày nay Indica và Japonica, đã hiện diện lâu đời ở nước ta. Nivara, which are the original species, the ancestors of today's rice varieties for both Indica and Japonica (Sinica) rice, are present in our country for a long time.Đó là một trong những yếu tố quan trọng xác nhận cây lúa có nguồn gốc ở Việt Nam. Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ cũng tin tưởng Miền Bắc Việt Nam là một trung tâm nguồn gốc lúa trồng của thế giới (Liên lạc cá nhân, 2000) (Trần Văn Đạt, 2005). This is one important factor confirming rice plant origin in Vietnam. Prof. Pham Hoang Ho also believes North Viet Nam is an original center of cultivated rice (personal communication, 2000) (Tran Van Dat, 2002). 

Bảng 1: Phân phối các giống lúa dại ở Việt Nam (Tài liệu thu thập từ 1998) Table 1: Distribution of wild rice in Viet Nam (collecting documents from 1998) 

Số No.

Loài Species

Genome Genome

Phân phối Distribution

1 1

Oryza rufipogon Oryza rufipogon

AA AA

Thung lũng Điện Biên Phủ, cao nguyên Trung Phần, vùng bờ biển miền nam Trung Phần, và đồng bằng sông Cửu Long Dien Bien Phu valley, the Central Plateau region in central southern coast, and the Mekong River Delta

2 2

Oryza nivara Oryza nivara

AA AA

Cao nguyên Trung Phần The Central Plateau

3 3

Oryza officinalis Oryza officinalis

CC CC

Cao nguyên Trung Phần, đồng bằng sông Cửu Long Central Highlands, the Mekong River Delta

4 4

Oryza granulata Oryza granulata

Chưa biết Unknown

Tây bắc, Đông bắc, vài nơi ở cao nguyên Trung Phần Northwest, Northeast, few places in the Central Plateau

Nguồn : Nguyễn Hữu Nghĩa et al ., 2000.   Source: Nguyen Huu Nghia et al., 2000.

Tuy nhiên, các di vật khảo khổ học thu thập được đến nay còn giới hạn, do sự khai quật còn nhỏ hẹp và phương pháp nghiên cứu còn cổ xưa.           

However, the artifacts that were collected to study are now limited, due to small-scale excavations. Dù thế, thành quả của hơn một thế kỷ khảo cổ học trong nước và các nước lân cận trong vùng Đông Nam Á cùng nghiên cứu của Viện Lúa IRRI đã giúp chúng ta tin tưởng thêm về nguồn gốc độc lập, bản địa của nông nghiệp, đặc biệt ngành trồng lúa.Over a century, archaeologists’ work in our country and neighboring nations in Southeast Asia together with IRRI in the Philippines have helped us to gain more confidence on the independent original center of indigenous agriculture, particularly rice in Viet Nam.

In Southeast Asia, including Viet Nam, a few large-scale excavations were carried out for archeological studies, compared with such activities in China and India; therefore, the hypothesis and archeological work of this region have not had much resonance to convince Western archaeologists. Also, from the 10th to 6th Millennium, low-lying plains along the Pacific coast and Indian Ocean coast, such as Red River Delta, Mekong River Delta, Central Plain of Thailand... were advanced by marine transgression, sometimes up to 5 m above the present sea level, so swamped and washed away many artifacts during 4,000 years.

In the 20th century, many researchers hypothesized the origin of planted rice in Southeast Asia, besides the hypothesis of China and India.

Ông Hamada (1949) và Burkill (1953) xem Đông Dương là trung tâm xuất hiện của cây lúa vì cây lúa phân hóa sâu rộng hơn hết ở vùng đất này.            Mr. Hamada (1949) and Burkill (1953) suggested that Indochina would be the original place of planted rice, as rice has broadly evolved in this area (many types of rice).

Ông Vavilov (1951) cho rằng một số hoa màu gồm cả lúa bắt nguồn từ trung tâm Hindustan, gồm có Ấn Độ Assam và Maynmar (Miến Điện).            Mr. Vavilov (1951) believed that a number of crops including rice derived from Hindustan centers, including Assam (India) and Myanmar (Burma).

Ông Barrau (1966) cho rằng cây lúa có thể đã được thuần hóa ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương vì có rất nhiều lúa dại nổi tiếng ở vùng này.            Mr. Barrau (1966) suggested that rice may have been domesticated in India - the Pacific Ocean because there are many famous wild rice in this region.

Trong 1952, nhà địa chất học Carl Sawer đưa giả thuyết thảo mộc đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á.            In 1952, geologist Carl Sauer hypothesis put the world's first plant domesticated in Southeast Asia.Ông Solheim II , Giáo Sư nhân chủng học và học trò Chester Gorman thuộc Đại Học Hawaii muốn chứng minh giả thuyết này qua nhiều cuộc khai quật tại miền bắc Thái Lan, đặc biệt ở Non Nok Tha. Mr. Solheim II, Professor of Anthropology and his student Chester Gorman of the University of Hawaii want to prove this hypothesis through excavations in northern Thailand, particularly in the Non Nok Tha area.Họ đồng ý với Ông Sawer và tin tưởng nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong nền văn hóa Hòa Bình cách nay ít nhứt 8.000 năm tại miền bắc biên giới Thái Lan và Miến Điện, tuy nhiên cần phải khảo cứu nhiều thêm để đánh giá xác nhận (Solheim II, 1971). They agreed with Mr. Sauer and trusted primitive agriculture had appeared in Hoa Binh culture at least 8,000 years ago in the northern border of Thailand and Burma, but more studies are required to confirm the hypothesis (Solheim II, 1971).

Ông Moringa (1972) nêu giả thuyết rằng cây lúa có thể bắt nguồn từ vùng núi non và thung lũng Đông Nam Á hơn là từ Ấn Độ, vì nhiều nền văn hóa cổ xưa xuất phát từ vùng núi non này.            Mr. Moringa (1972) suggested that rice plants can be derived from the mountains and valleys of Southeast Asia rather than from India, as many ancient cultures appeared from this mountainous region.Sau khi lai giống giữa những giống lúa ở chân núi Hymalaya như Nepal, Bhutan và Shikkimu với các giống lúa ở 6 vùng sinh thái như (i) japonica ở vùng ôn đới; (ii) aus (hè-thu), (iii) boro (đông-xuân), (iv) aman (mùa) ở vịnh Bengal; (v) tjereh và (vi) bulu (javanica) ở Indonesia, Ông ta suy đoán rằng lúa trồng xuất phát từ miền đông nam chân núi Hymalaya và bành trướng đến 6 vùng sinh thái trên. Lúa boro (đông-xuân), aus (hè-thu), aman (lúa mùa) và tjereh thuộc nhóm lúa indica. After hybridizing between rice varieties at the foothill of Mount Himalaya like Nepal, Bhutan and Sikkim with rice varieties in six ecological zones such as (i) temperate - japonica (ii) aus (summer-autumn), (iii) Boro (winter-spring), (iv) aman (season) in the Bay of Bengal, (v) tjereh and (vi) bulu (javanica) in Indonesia, he speculated that rice varieties appeared from eastern and southern foothills of Himalaya and expanded to the above six eco-regions: Boro, aus, aman and indica tjereh rice.

Ông Chang (1976), sau khi quan sát 34.000 giống lúa thế giới ở ngân hàng gen IRRI, nhận thấy rằng có biến đổi rộng lớn trong các đặc tính và sinh thái của các giống lúa thu thập ở vùng núi non Đông Nam Á, gồm có Nepal, Shikkim, Assam (Ấn Độ), Bangladesh, Bắc Myanmar, Bắc Thái Lan, Bắc Lào và Tây Nam Trung Quốc.            Mr. Chang (1976), after observing the world's 34,000 rice varieties at IRRI gene bank, has found that large variations in the characteristics and ecology of rice varieties collected in the mountainous region in Southeast Asia, including Nepal, Sikkim, Assam (India), Bangladesh, North Myanmar, northern Thailand, northern Laos and southwestern China.

Ông Nakagahra (1976) căn cứ trên nghiên cứu về sự phân bố của 12  loại lúa  isozymes từ các vùng khác nhau ở châu Á, nhận thấy có sự biến đổi lớn của các giống lúa từ Assam đến Laos và cho rằng nguồn gốc của lúa trồng ở vùng núi non Đông Nam Á như Myanmar, Thái Lan và Vân Nam của Trung Quốc.            Based on his studies on the distribution of 12 rice isozymes from different regions in Asia, Mr. Nakagahra (1976) realized that a major transformation of rice varieties from Assam to Laos and that planted rice originated in the mountainous region of Southeast Asia, such as Myanmar, Thailand and Yunnan of China.

Mr. Higham (1989) reported shell sickle and rice hulls were found at Khok Phanom Di near the Gulf of Thailand, with radioactive dating about 6,000-4,000 BC.

Ông Watanabe (1997), sau khi nghiên cứu trên các vỏ trấu trong các lâu đài xưa cổ đổ nát để tìm lộ trình của lúa ở Á Châu, cho rằng trung tâm nguồn gốc trồng lúa ở vùng Assam-Vân Nam.            After research on the rice husk found in the ancient castle ruins to find the route of rice in Asia, Mr. Watanabe (1997) suggested that the origin center of planted rice would be in Assam-Yunnan region.

Multi-center hypothesis: In 1985, Dr. T.T. Chang, IRRI's rice geneticist, reviewed all information and data from scientific facts, archeology, evolutionary biology, systems biology and agricultural history to conclude that rice cultivation in Asia could originate from multiple locations independently and synchronously, because many species of wild rice and cultivated rice live in the same environment.Những địa điểm này khởi đầu từ đồng bằng sông Ganges đến miền bắc Myanmar, miền đông bắc Thái Lan, bắc Lào, bắc Việt Nam, miền nam và tây nam Trung Quốc , và những vùng lân cận khác. These locations spread from the Ganges River Delta to northern Myanmar, northeastern Thailand, northern Laos, northern Viet Nam, southern and southwestern China, and other surrounding areas.Cũng nên nhắc lại rằng ông Morinaga (1955) cũng nêu giả thuyết đa nguồn của cây lúa trồng vì nhiều biến đổi di truyền của cây lúa ở Châu Á.Điều này cũng có thể đúng cho nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện độc lập, vì sự di chuyển xuyên quốc gia hoặc lục địa còn rất giới hạn trong thời kỳ cách đây 8-10 thiên niên kỷ. North Viet Nam is possibly an original center of planted rice in Asia.

However, according to the theory of one original source, a few American researchers believe the current planted rices in Asia were first originated from Yangtze river’s southern area in China, although rice samples used in their studies are not enough to represent for Asian rice (News Network Archaeography, 2011).

In 2018, the “3000 rice genomes” project was carried out by IRRI in the Philippines in cooperation with the Institute of Crop Science under the Chinese Academy of Agricultural Sciences (CAAS), BGI-Shenzhen and 13 countries, sponsored by the Bill & Melinda Gates Foundation. On May 24, 2016, they reported the results of the study in Nature No. 557: In the two main rice groups Indica and Japonica, data analysis showed the presence of several rice populations that have previously never been reported to have a unique geographical origin. Other evidence suggests that Asian rice has been independently and manytimes domesticated for thousands of years (Wensheng Wang et al., 2018). 

3.   RICE: HISTORY AND CIVILIZATION

Viet Nam has been a rice-based civilization for at least 3,000 years. Archeological evidence such as the mineralized teeth of prehistoric humans (Homo erectus) were found in the caves of Tham Hai, Tham Khuyen (To Lieu village, Lang Son), Tham On (Thuan Chau village, Nghe An). These fossils indicate that for the 250,000 years spanning the Middle Paleolithic and Neolithic periods, primitive humans subsisted on hunting and gathering techniques. No archeological fossils related to agriculture have been found in this period (Vien Thanh Tuu Khoa Hoc Xa Hoi, 1981). In 2017, Archaeologists found many tools such as cutting tools, spearhead (single-sided, double-sided), typical hand axes and many meteorites in Go Da, Roc Tung of An Khe Town, Gia Lai province; thus upright gibbon people could live here about 800,000 years ago (Văn Công Hùng, 2017).

For more than 100 years of work, Viet Nam Institute of Archaeology have definitely identified the ancient cultures in relation to agricultural development and rice evolution in the country, at least from Hoa Binh - Bac Son cultures to Dong Son culture.Ngành trồng lúa có nguồn gốc bản địa, tiến hóa không ngừng dù chậm chạp từ thời cổ sơ đến thời kỳ lập quốc, Bắc thuộc, ngưng đọng trong thời Độc lập, tiến bộ nhanh hơn trong thời Pháp thuộc và tiến vượt bực trong cuộc Cách Mạng Xanh vừa qua và thời kỳ Đổi Mới gần đây. Rice production is native, though constantly evolving, slowly since early prehistoric period up to the national establishment (Văn Lang), Chinese domination period; stagnantly during the National Independence; faster in the French colonial time and outstandingly in the Green Revolution and recent Economic Reform (Doi Moi). 

3.1.   Rice Domestication and Cultivation from Early New Stone Age to Bronze Age (before National Establishment)

The New Stone or Neolithic Revolution refers to the primitive agriculture and domestication of plants and animals just after the end of a long era of Old Stone Age (Paleolithic) about 9,000-8,500 BC in Southwest Asia (the Levant), 7,000-6,000 BC in East Asia (China) (Bellwood, 2005) and Southeast Asia. This is a real turning point for the human life and its cultural evolution. Without this Revolution, the later civilizations could not exist.    

(1)   Hoa Binh culture: Primitive Agriculture and Domestication

Hòa Bình culture discovered by Mrs. Madeline Colani (1926) appeared in our country as well as Southeast Asia, like Laos, Thailand, Cambodia, Myanmar, Malaysia and Indonesia 8,000-6,000 BC or the beginning of Neolithic Revolution.Con người còn sống từng bầy nhóm, lấy hang động làm đơn vị cư trú. People lived by tribes or bands, taking stone cave and hut as residence unit.Phần lớn hái lượm và săn bắt là nền kinh tế chủ yếu của họ. Most hunting-gathering was their principal economy. Đời sống luôn phải di chuyển để tìm lương thực vì chưa biết trồng loại cây kinh tế cố định. Their life was always on the move to find food because they did not know how to grow economic crops.Vào buổi đầu thời kỳ này, con người đã có ít khái niệm chống chế thiên nhiên và có ít sáng kiến trong công việc chế tạo dụng cụ sản xuất hữu hiệu hơn để có nhiều thức ăn hơn. At the beginning of this period, people knew little natural defense concept and had less initiative in making effective production tools to have much more food.Cũng giống như nền văn hóa Sơn Vi trước đó, công cụ của nền văn hóa này làm bằng đá cuội để chế tạo ra các công cụ gỗ tre, nhưng có phần tốt hơn. Like the previous culture - Son Vi culture (16,000-9,000 BC), the tools of this culture were made of boulders to produce the tools of wood and bamboo for cutting, cleaving, scraping, etc. However, artifacts found from the Hoa Binh demonstrate more skilled and advanced handiwork.Các nhà khảo cổ xem các dụng cụ ghè đẽo một mặt, còn giữ nguyên một mặt vỏ đá cuội là đặc điểm của nền văn hóa Hòa Bình . Archaeologists consider tool smashed one side and kept intact the other side of boulders as characteristics of Hoa Binh culture.Trong nền văn hóa này chưa có hoặc rất ít đồ gốm. In this culture there was no or very little pottery.

Di tích động vật của nền văn hóa Hòa Bình gồm có các loài nhuyễn thể như ốc núi, ốc suối, loài trai.            Fauna artifacts of Hoa Binh culture consists of mountainous snails, stream snails, oysters. Các nhà nghiên cứu cho rằng các loại ốc này là đối tượng chính trong hái lượm của cư dân văn hóa Hòa Bình do ít nguy hiểm. The researchers said that these snails are the main object in gathering culture of the Hoa Binh inhabitants. There wereXương động vật có xương sống còn rất ít, gồm các loài hoang dã chưa thuần thục như vượn, khỉ, nhím, chuột, hươu, hoẵng, nai, bò rừng, trâu rừng, lửng, vòi hương, hổ và rất ít voi cổ, tê giác và lợn rừng (Vũ Thế Long, 1984). a few backbone animals, including wild species not domesticated, such as apes, monkeys, porcupines, mice, deer, wild deer, gaur, forest buffalo, badger, tigers and ancient elephants, rhino and boar (Vu The Long, 1984). Kết quả phân tích bào tử phấn hoa của nền văn hóa Hòa Bình cho thấy có tới 22 loài bào tử và trên 40 loài phấn hoa khác nhau, trong đó chưa gặp các loại thảo mộc được con người thuần dưỡng (Trần Đạt, 1987).   

Analysis results of pollen spore in Hoa Binh culture show 22 species of spores and over 40 different species of pollen, out of which no plants have not been domesticated by man (Tran Dat, 1987). This indicates that wild food plants account for a significant position in gathering activities.Tuy nhiên, lớp trên của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn đã có các rìu mài lưỡi có thể dùng phát hoang để trồng trọt. However, axes with sharpen blade, which were found in Hoa Binh and Bac Son cultures could be used to clear lands and forest for cropping. Điều này cho biết thức ăn thực vật hoang dã chiếm vị trí đáng kể trong hoạt động hái lượm.

Trong các nghiên cứu phân tích phấn hoa, người ta tìm thấy với số lượng cao của các giống cây họ Đậu (Leguminoceae) ở các di tích hang Bưng, Hòa Bình; họ rau Muối (Chenopediaceae) ở hang Con Moong và xóm Trại, Hoà Bình và họ Cà Phê (Rubiaceae) ở hang Con Moong. Ngoài ra, các di tích của nền văn hóa Hòa Bình còn có các loài hạt quả như hạt gắm ( Gnetum montanum ), hạt cọ ( Livistona cochinchinensis ), hạt côm ( Elaeocarpus sylvestris ), hạt me ( Phyllanthus emblica L.), hạt trà ( Thea sp.), trám tre ( Canarium tonkinensis ) và trám ( Canarium sp.).In the study of pollen analysis, the researcher found high amounts of legumes (Leguminoceae) in Bung cave, Hoa Binh; Chenopediaceae in Con Moong and Trai hamlet caves, Hoa Binh and coffee family (Rubiaceae) in Con Moong cave. In addition, the cultural artifacts of the Hoa Binh consist of fruit nuts like gắm grain (Gnetum montanum), palm kernels (Livistona cochinchinensis), côm seeds ( Elaeocarpus sylvestris), tamarind seeds (Phyllanthus emblica L.), tea seeds (Thea sp.), trám tre (Canarium tonkinensis) and trám (Canarium sp.).Tại các di chỉ Hạ Sơn (Thái Nguyên) trong tổng số 38 hạt, dương xỉ có tới 9 hạt, phấn hoa thực vật hạt kín là 20 hạt, chủ yếu là : Lithoiagus, Quercus, Magnolia, Corylus, Betula , Graminae, Araceae (Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận, 1981). At the sites of Ha Son (Thai Nguyen), in total 38 seeds, there are 9 fern seeds, 20 grains of angiosperm pollen, mainly Lithoiagus, Quercus, Magnolia, Corylus, Betula, Graminae, Araceae (Nguyen Dich Dy and Dinh Van Thuan, 1981).

Ở hang Ma (Spirit cave) thuộc miền biên giới Thái Lan và Miến Điện, nhà khảo cổ học Chester Gorman (1969) đã tìm thấy được 28 loại bào tử phấn hoa của các loài cây ăn trái khác nhau, di vật hóa than như hai hột đậu Hòa Lan, củ năng, hột ớt, những đoạn dây bầu bí và dưa chuột, cùng với những dụng cụ bằng đá của những người dân có nền văn hóa Hoà Bình xuất hiện cách nay ít nhứt khoảng 6.000 - 8.000 năm.In the Spirit Cave located at the border of Thailand and Burma, archaeologist Chester Gorman (1969) found 28 types of pollen spores of different fruit species and carbonized relics of two pea seeds, chestnut, pepper grains, cucumber line portions, along with Hoabinhian stone tools appearing at least 6,000-8,000 years ago.Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu vết vỏ trấu trên những mảnh gốm ở Non Nok Tha thuộc vùng Korat với niên đại phóng xạ cách nay khoảng 6.000 năm (Solheim II, 1967). Moreover, he found traces of rice husk and grains on a piece of pottery at Non Nok Tha in the Korat with radioactive dating back at least 4,000 BC (Solheim II, 1967). Also, artifacts of shell sickle and rice hulls were found at Khok Phanom Di near the Gulf of Thailand, with radioactive dating about 6,000-4,000 BC (Higham, 1989).

Tại Việt Nam, dù chưa có di tích thực vật rõ rệt, nhưng sự hiện diện của các rìu cuốc đá sơ cổ trong nền văn hóa Hòa Bình giúp các nhà nghiên cứu phỏng đoán thời kỳ nông nghiệp sơ khai có thể xuất hiện ở Việt Nam đồng thời với nhiều nước trong vùng Đông Nam Á.In Viet Nam, although no obvious plant artifacts were found, the presence of ancient stone axes - hoes, major stake in Hoa Binh culture helped researchers predict early agriculture that may appear in Viet Nam simultaneously with other Southeast Asian countries.Con người bắt đầu thuần dưỡng một số thảo mộc và loài thú hoang dã, ngoài sinh hoạt hàng ngày với hái lượm và săn bắt để có nhiều thực phẩm và tránh bớt nguy hiểm từ thú dữ. People began taming wild plants for additional foods in order to avoid dangerous predators outside their caves, besides daily gathering-hunting activities. Hence, the Hoa Binh engaged in primitive agriculture and probably witnessed the first Green Revolution in human history. Rice was a minor crop, while roots, tubers (taros), and food grain legumes were their predominant source of sustenance. Đây có lẽ là cuộc “Cách mạng xanh” đầu tiên của những cư dân trên đất Việt Nam lúc bấy giờ vì từ một cuộc sống hoàn toàn theo thiên nhiên trở nên cuộc sống với hýớng ði mới: nghề nông nghiệp .At that time human life changed from a completely natural dependence to the new way of life: agricultural occupations.Họ là những người nông dân đầu tiên ở Việt Nam. They started plant domestication and were the first farmers in Viet Nam. It is also called Neolithic Revolution. 

(2)   Nền văn hóa Bắc Sơn (cách nay 6.000-5.000 năm) tiếp theo sau nền văn hóa Hòa Bình, đặc biệt ở các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên và trong nhiều vùng của nền văn hóa Hòa BìnBac Son culture: Upland Rice Cultivation (4,000-3,000 BC)

This culture represents a continuation of Hoa Binh culture, especially in Lang Son, Thai Nguyen and many other places originally inhabited by the Hoa Binh. During this period, the inhabitants reduced the time they spent in their caves and roof of karsts rocks, began to spend more time outdoors. They still maintained the tradition of fabricating pebble tools, but they also knew how to sharpen an edge and make cleavers. Sharpened tools enabled them to chop, cleave and cut forest trees for upland cropping. Bac Son axes (rìu) are famous in this culture. Manual primitive porcelains also began to appear (Vien Khao Co Hoc, 1999).

Among the archeological artifacts found in Bac Son culture, a piece of stone has been discovered in Hoa Binh that contains a sketch of a leaf. The depicted leaf resembles the leaf of a rice plant, which would attest to the importance of rice in addition to legumes and root tuber crops in early prehistory (Colani, 1930 and Bui Huy Dap, 1980). The rice importance has gradually increased because rice plants can sustain various adverse conditions, such as mountainous lands, submergence, drought, alkaline water, saline, acid soils, etc. and rice grains can be relatively stored for a long period of time; thus it should be able to meet the economic demands of the ever-increasing population.

The apearance of many rice tribes possibly occurred at the end of the Neolithic period, about 4,000-3,000 BC (Bui Thiet, 2000; Nguyen Phan Quang and Vo Xuan Dan, 2000). At this time there were no domestic animals, and human labor was the only means to manage nature. Tribesman chopped down tree, burned forests and weeds, using “slash-and-burn” methods for land clearance and farming. They used stone axes to cut trees and sticks to open holes for sowing seeds. They covered seeds with soil and then awaited rice maturity to gather grains. They also used sharp stone hoes to break and stir soils in the valleys or swamplands surrounding their living areas to grow rice. This was an important period in  primitive civilization, and the development of agriculture radically altered human life. With the development of rice cultivation, human life become more stabilized and the society was better organized than it had been in the days of hunting-gathering. Their social life began, local tradition was freely developed, family structures were established and the individual mind evolved with time, due to the cultivation of rice, other crops and livestock for daily additional foodstuff.

Archeologists have found evidence of the existence of rice tribes from the Northern to Southern part of the country, notably the Ha Long culture (Quang Ninh and Hai Phong) with artifacts of handled hacks and auger; Bau Tro Cultures (Nghe An, Ha Tinh and Quang Binh) with artifacts of large grinding tables and stone hoes with handles; and Cau Sat Culture (Xuan Loc, Dong Nai) with hacks containing a smooth shoulder, triangular hacks, and semicircular or half-moon shaped stone knives, called "sickle knife" or “picking knife” that can be used to harvest rice (Nguyen Phan Quang and Vu Xuan Dan, 2,000). 

Nền Văn hóa Đa Bút/Quỳnh Văn (văn hóa ven biển: 6.000-3.000 năm cách ngày nay)(3)   Da But / Quynh Van Culture (coastal culture in 4,000-1,000 BC)

Sau thời kỳ văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, biển tiếp tục lùi dần, các đồng bằng sông Hồng và Cửu Long bắt đầu tái lập và các tập đoàn cư dân mở rộng tầm hoạt động xa hơn, di chuyển từ đồi núi, vùng cao xuống đồng bằng và ven biển để sinh sống dễ dàng.After Hoa Binh - Bac Son culture, the sea continued to retreat, the Red River and Cuu Long River Delta began to re-establish, inhabitants expanded further their activities, moving from the mountainous regions to valleys, delta and coastal plains for better life.Do đó, vào thời đại đá mới có hàng loạt văn hóa ven biển xuất hiện, đáng kể hơn hết là văn hóa Đa Bút phân bố ở Thanh Hóa (6.000-5.000) và nền văn hóa Quỳnh Văn xuất hiện ở Nghệ An và Hà Tĩnh, có niên đại từ 4.000 đến 3.000 năm trước CN. Therefore, the Neolithic culture triggered a series of coastal cultures, particularly Da But culture distributed in Thanh Hoa and Quynh Van culture appeared in Nghe An and Ha Tinh, dating from 4,000 to 3,000 BC.

Cư dân sống trong môi trường gần biển và cửa sông nên nguồn thức ăn chính là các ốc sò nước lợ chủ yếu là loài hến , hay nước biển như sò gai, điệp, ngao .Residents living in the environment near the sea and estuaries were fed on brackish water shell mainly mussel species, or sea shells such as scallop, oyster.Ngoài ra, họ còn săn bắt ở các khu rừng xung quanh mà di vật tìm được như xương răng thú rừng: hươu, nai, trâu, bò, lợn, nhím… Điều đáng chú ý là một số nhà nghiên cứu đã nhận ra vài động vật được con người nuôi dưỡng như trâu và lợn (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Kỹ nghệ gốm cũng bắt đầu phát triển với những di vật đồ đựng thô, chất liệu pha nhiều sạn sỏi to, đáy tròn, không chân đế. Các di vật đồ đá tiến bộ hơn như cưa, đục, chì lưới, rìu mài. In addition, they hunted in the surrounding forests, so that artifacts of wild animals’ tooth bones: deer, cattle, pigs, porcupines... were also found at this early ancient site. It is worth noting that some researchers have recognized several domesticated animals as buffalo and pig (Patte 1932 and Vu The Long, 1979). Ceramic technology also began to develop with crude pot, mixed with gravel, round bottom and no base. The other stone artifacts were more progressive as saws, chisels, lead grid, and ground axes. GroundRìu mài, chì lưới cho thấy kỹ nghệ đá và trình độ của Đa Bút tiến bộ hơn văn hóa Bắc Sơn và những dụng cụ này được dùng để sản xuất nông nghiệp và đánh cá . axes and lead grid reveal that stone industry and Da But culture were more advanced than Bac Son culture and the instruments were used for agriculture and fishing.

Trong năm 1979, các nhà khảo cổ khai quật Cồn Cổ Ngựa thuộc xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (gần Đa Bút) và phân tích các mẫu bào tử phấn hoa , đã xét đoán rằng các cư dân ở đây đã biết trồng những cây ăn quả và cây rau, củ (Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980), tuy nhiên còn trong dạng sơ khai .In 1979, archaeologists excavated Cổ Ngựa dune of Ha Linh village, Ha Trung district, Thanh Hoa province (near Da But), analyzed samples of spores, pollen and guessed that the residents here had known varieties of fruit, vegetables and root tubers, but they were still in the simple form (Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980).Sự trồng trọt có thể chưa nhiều để cung cấp đầy đủ thực phẩm cho người dân, mà nguồn thức ăn chính yếu là sò hến, cá đánh bắt được từ sông ngòi và biển cả. The cultivation may not have much to provide adequate food for people, who were fed primarily with shellfish, fish caught from rivers and sea.Không có báo cáo về trồng lúa ở các nơi này. No report was made on rice cultivation at this site.

Tóm lại, các di vật thu lượm từ nền văn hóa Đa Bút như bào tử phấn hoa rau quả củ, xương trâu lợn và đồ gốm sơ khai cho biết trình độ văn hóa của cư dân ven biển tiến bộ khá nhiều so với cư dân lục địa, nhờ thường xuyên giao lưu với các dân tộc đảo biển và quốc gia khác.In summary, the artifacts collected from Da But culture as vegetable pollen spores, pig and buffalo bone, and primitive ceramics indicate the coastal culture are more advanced than continental ones, thanks to frequent exchanges with peoples in the Pacific islands and other countries.Các bào tử phấn hoa được tìm thấy trong nền văn hóa này xác nhận một nền nông nghiệp trồng trọt cổ sơ đã xuất hiện sớm hơn trên các vùng ven biển, trong khi chưa tìm thấy di vật này trong nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn. Pollen spores found in this culture confirmed that an ancient agriculture appeared earlier on coastal areas, while such artifacts were not found in Hoa Binh-Bac Son cultures.Nền nông nghiệp vượt xa hơn các vùng khác khi phát hiện cư dân ven biển biết thuần dưỡng gia súc sớm và biết tạo ra các khu vườn cung cấp thêm thức ăn xung quanh nơi cư trú. This agriculture was more advanced than that in other areas, as coastal residents knew how to domesticate animals early and set up gardens to provide them with additional food.Cũng vậy, đồ gốm thô xuất hiện sớm hơn, biểu hiện đời sống văn hóa vùng ven biển phong phú vượt bực. Also, crude pottery appeared early, manifesting rich cultural life in the coastal regions.

Trong nền văn hóa biển Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) cũng có đồ gốm sơ kỳ ở rải rác dọc bờ biển mà hoạt động chủ yếu của cư dân ở đây là đánh cá, hái lượm. các nhà khảo cổ còn tìm thấy bàn nghiền hạt (Hình 2) , cối và chày đá ở di chỉ Quỳnh Văn thuộc Nghệ An, mà họ tin tưởng chỉ để dùng lột vỏ các hạt - có thể là hạt lúa .In Quynh Van culture (Quynh Luu, Nghe An province) has public records in pottery scattered along the coast where the residents’ major activities are fishing and gathering. Archaeologists also found grain crushing table (Figure 2), stone mortar and pebble in Quynh Van, which they believe only for peeling grains –

possibly rice grains.Trong thời gian này đã có nhiều bộ lạc bắt đầu định cư ở dọc bờ biển, trên núi rừng, hang động; nhờ đó nền nông nghiệp sơ khai bắt đầu tiến hóa dần để ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt khi các bộ lạc trồng lúa xuất hiện. During this period, there have been many tribes began settlement along the coast, mountains, caves, so that primitive agriculture started to become increasingly important, especially when the rice tribes appeared in many places. 

Nền văn hóa Cầu Sắt - Suối Linh được coi là biểu tượng cho giai đoạn phát triển sớm nhứt của thời đại kim khí thuộc lưu vực sông Đồng Nai, do vết tích của loại rìu đá có vai kích thước nhỏ và trung bình với tỉ lệ lớn hẳn các công cụ khác và loại dao hái nhỏ, ghè mài từ những mảnh tước nhỏ có mũi nhọn để làm dụng cụ nông nghiệp.(4)   Cau Sat - Suoi Linh culture

This archeological culture is considered a symbol for earliest stage of development of Metal period, belonging to the Dong Nai River basin, due to traces of shouldered stone axes of small and medium-size with high proportion compared with other tools; and small picking knives ground from small pointed pieces (mảnh tước) to make agricultural tools.Đồ gốm có trình độ kỹ thuật cao, chế tạo bằng bàn xoay và một số khác bằng tay, độ nung cao, thành gốm mỏng…(Phạm Đức Mạnh, 1997). Pottery has a high technical level, made by turntables and some others by hand, high heating degree, thin ceramic layer... (Pham Duc Manh, 1997). The agricultural sector clearly existed in this region.Do đó, niên đại của Cầu Sắt tương đương với giai đoạn Phùng Nguyên ở phía Bắc, tức cách nay độ 4.500 năm - thời đại đồng. Thus, the age of Cau Sat is equivalent to Phung Nguyen period in the North, i.e. about 2,500 BC.

Sự hiện diện dày đặc của các di vật đa dạng như đá, đồng, sắt, gốm, xương, thủy tinh… ở nền văn hóa Đồng Nai cho thấy cư dân sống khá đông đảo cách nay ít nhứt 5.000-4.000 năm .The presence of dense diverse objects as rock, copper, iron, pottery, bone, glass ... in Dong Nai culture shows relatively large populations at least 3,000-2,000 BC.Cư dân Đồng Nai sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp cuốc với các công cụ sản xuất có số lượng rất lớn như rìu có vai hay tứ giác, dao hái, dao cắt khá độc đáo, cuốc đá rất phổ biến (Hình 3 và 4) và nhiều đồ đựng bằng gốm . Dong Nai residents lived mainly on stone hoe agriculture with very large quantities of stone tools, such as shouldered or quadrilateral axes, knives, scythes, quite unique knives, especially very popular stone hoes and ceramic pots.Nông dân dùng những chiếc rìu đá không những để chế tạo dễ dàng hơn những vật bằng gỗ hay tre, mà còn có thể chặt cây, phá rừng trồng trọt trên đất cao, chủ yếu nông nghiệp nương rẫy, làm vườn. Farmers used stone axes not only to make wood or bamboo tools, but also to cut down trees, deforestation for upland cultivation, mainly shifting agriculture and gardening. In 2017, some Vietnamese-Australian researchers published their research results on ancient ceramic pieces of An Son and Loc Giang sites, Long An province with MicroCT technology, showing that domesticated rice plants appeared in the Mekong Delta in the New Stone Age, at least 4 000 years ago (Barron et al., 2017).

Sự hiện diện của các di vật cuốc đá, dao hái, dao cắt khá phong phú ở nhiều địa điểm khảo cổ chứng tỏ nghề trồng lúa rẫy xuất hiện trước ở trên đất cao hoặc sườn đồi núi, sau đó lúa nước có mặt ở nơi trũng thấp hoặc ven sông rạch và trở nên nghề chủ yếu vì sản xuất cao hơn rẫy nương, bên cạnh các hoạt động hái lượm và săn bắt truyền thống ở Miền Đông Nam Phần. Nhờ đó, cư dân có đời sống ổn định hơn, họ thành lập xóm làng lâu đời , với các di vật phát hiện dày đặc là chứng tích.The presence of the plentiful artifacts: stone hoes, knives, scythes, knives in many archaeological sites proves that dry rice cultivation on hills or slopes appeared first, followed by paddy rice in swamps, valleys and along river banks, besides the traditional activities of hunting and gathering in Southeast region. As a result, residents’ life reached more stable status; they established villages for a long time, with the evidence of dense discovered artifacts. 

Nền văn Hóa Phùng Nguyên (4.000-3.500 năm cách ngày nay) :(5)   Phung Nguyen culture (2,000-1,500 BC):

Đây là nền văn hóa rất quan trọng, làm trung gian giữa thời đại đồ đá và thời đại kim khí , mốc ngoặc của nền văn minh vượt bực của dân tộc.This culture is very important, as an intermediary period between the Stone Age and the Metal Era, moving forward outstanding civilizations of the nation.Qua các công trình khai quật và kết quả khảo cổ quý giá đã thu đạt được ở nền văn hóa Phùng Nguyên từ thời Pháp thuộc cho đến nay, các nhà khảo cổ học và sử học khẳng định đã có nhiều bằng chứng cụ thể không những cho sự xuất hiện nền văn hóa Đông Sơn, mà còn xác nhận thực tế “ lịch sử 4.000 năm văn hiến của nước Việt Nam ” và địa bàn hoạt động có thật của “ đất Phong Châu một thời Hùng Vương ” (Viện Khảo Cổ Học, 1999). Through the excavations and valuable archaeological results collected in Phung Nguyen culture from French colonial period to present, the archaeologists and historians have confirmed not only concrete evidence for the appearance of Dong Son culture, but also the fact of “4,000 years of cultural history of Viet Nam" and their actual operating area of "a land of Hung Vuong - Phong Chau” (Vien Khao Co Hoc, 1999).

Nền văn hóa Phùng Nguyên tập trung ở khu vực hợp lưu của các sông: sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thao và sông Đáy, thuộc phía nam tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội và phần phía nam của tỉnh Bắc Ninh.Phung Nguyen culture centered in the confluence area of the Red River, Da, Lo, Thao River and Day River, the southern province of Phu Tho, Vinh Phuc, Ha Tay, Ha Noi and the southern part of Bac Ninh province. Nền văn hóa này xuất hiện và phát triển từ 2.000 năm đến 1.500 năm tr CN.This culture appeared and developed from 2,000 to 1,500 BC.Người Phùng Nguyên thường cư trú trên các gò đồi cao, cách mặt ruộng độ từ 0,5 đến 5-6 m. The Phung Nguyen usually lived on hills or high lands, from 0.5 to 5-6 m above rice fields.Tầng văn hóa không dày lắm từ 0,7 đến 2 m. Cultural layer is not much thick, from 0.7 to 2 m.Về nhà ở chưa được rõ ràng, nhưng các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở Văn Điển (Hà Nội) nhiều hố đất đen hình tròn, kích thước tương tự nhau, ăn sâu xuống đất, trông giống các hố chôn cột nhà. Housing is not clear, but archaeologists have found in Van Dien (Hanoi) many round black holes looking like the buried pillar pits.Họ cũng tìm thấy di tích xưởng chế tạo công cụ đá ở Gò Chè, chế tạo mũi khoan ở Bãi Tự và vòng trang sức ở Tràng Kênh, với trình độ kỹ thuật chuyên môn cao. They also found artifacts of stone tool factory in Go Che, manufacturing drills at Bai Tu and round ornaments in the Trang Kenh, with high technical level.

Công cụ sản xuất gồm có cuốc đá hình tứ giác có lưỡi lệch về một bên, rìu đá tứ giác có lưỡi cân xứng, trong đó có nhiều rìu chế tạo bằng đá ngọc Nephrite có màu sắc đẹp. Ngoài ra, còn có nhiều đục đá chìu dài 3-4 cm, thân rộng hơn 1 cm và bề dày 0,3-0,5 cm, dao đá, liềm đá .Production tools include quadrilateral stone hoes offset to one side blades, quadrilateral stone axes with symmetrical blades, in which there are many pretty stone axes made of Nephrite jade. In addition, there are many stone chisels 3-4 cm long, more than 1 cm wide and 0.3 to 0.5 cm thick, stone knives, and stone sickles. Chiếc liềm đá có công dụng quan trọng trong công việc gặt hái ngũ cốc, cắt cỏ, sự có mặt của liềm đá cho thấy tầm quan trọng của sản xuất thực phẩm ngày xưa (Viện Khảo Cổ Học, 1998The stone sickle is important for harvesting cereals, cutting grass; showing the importance of food production in the old days (Vien Khao Co Hoc, 1998).

Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có cưa đá, mũi khoan đá, bàn mài (bàn mài bằng, bàn mài rãnh, bàn mài trong) , hòn kê, hòn đập, bàn đập .In addition, the other group of production tools includes stone saw, stone drill, grinding table, threshing table...

Hơn 50 địa điểm được tìm thấy có nền văn hóa Phùng Nguyên cho thấy những làng định cư lâu dài có đời sống nông nghiệp, chủ yếu trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và đánh cá .Phung Nguyen culture has been found over 50 locations, revealing that villages were settled for long time with agricultural activities, mainly cultivation, animal husbandry, hunting and fishing.Sự phát hiện lưỡi liềm đá ở Gò Bông và nhiều chiếc rìu nhỏ; cho thấy có nền nông nghiệp trồng lúa phát triển ở ruộng nước và trên đất cao (rẫy). The discovery of stone sickles and minor axes at Go Bong shows development of rice agriculture, particularly upland and lowland rice.Ngoài ra, còn có các đồ đựng gốm có kích thước lớn để tồn trữ ngũ cốc cho thấy cư dân Phùng Nguyên có đời sống định cư lâu dài. Also, large ceramic pots found to store bulk grains, indicate again the Phung Nguyen’s long and stable settlement.

Các nhà khảo cổ cũng tìm được các tượng động vật như tượng đầu gà ở Xóm Rền làm bằng gốm.Archaeologists also found the animal statues, such as chicken head at Xom Ren.Các ngôi mộ khai quật còn tìm thấy hàm lợn ở Lũng Hòa, xương chó ở Tràng Kênh cho biết người Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi nhiều thú vật mà ta có ngày nay . In a tomb excavation, pig bones were found at Lung Hoa, dog bones at Trang Kenh, attesting that the Phung Nguyen have known domestication of many animals we have today.

InTrong nền văn hóa Phùng Nguyên còn xuất hiện kim loại đồng và kỹ thuật luyện kim : hợp kim đồng thau gồm có đồng và thiếc . Phung Nguyen culture, metal and metallurgical engineering also took place, such as brass alloy composed of copper and tin.Một mảnh vòng hay dây kim loại được tìm thấy ở Bãi Tự, Tiên Sơn (Bắc Ninh) (Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn, 1970), dây chì (Diệp Đình Hòa, 1978). A piece of ring or metal wire was found in Bai Tu, Tien Son (Bac Ninh) (Pham Van Thich and Ha Van Tan, 1970), lead wire (Diep Dinh Hoa, 1978).Nền văn hóa Phùng Nguyên mở đầu cho thời đại đồng thau Việt Nam và chuẩn bị cho quá trình hình thành nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, khởi đầu của nhà nước và dân tộc Việt Nam ngày nay. Phung Nguyen culture opened for Vietnamese brass era and prepared for the formation of the famous Dong Son culture, the beginning of Viet Nam today.

At this time, rice tribes were still somewhat migratory, although considerably less than their hunter-gatherer predecessors. They migrated in order to find enough food for daily sustenance under shifting cultivation, which are still practiced by many minority tribes in the highlands and mountainous regions of Northern and Central Viet Nam. Upland rice was probably a dominant crop during this period. In this culture, the stone technologies advanced significantly and the appearance of bronze tools and metallurgy created a foundation of materials and the intellectual development of the Hung Dynasty later. 

(6)   Nền văn hóa Đồng Đậu (3.500-3.000 năm cách ngày n4.6.   4   Dong Dau culture (1,500-1,000 BC)

The archeological sites of the Dong Dau belonging to Minh Tan village, Yen Lac district, Vinh Phuc province were discovered in 1962. This culture is characterized by the metallurgical industry and brass manufacture, such as arrows, pointed with brass. Most of the artifacts found at Dong Dau, Dong Den, Dong Lam, Doi Da, are casting molds and copper pouring pans. Copper axe is also quite common and classified into 3 types: rectangle axe, shouldered axe and axe with blade slightly offset. In addition, the archaeologists also found copper spear, arrows, fish-hooks, file, hammer, while stone tools are still important: stone axes, stone chisels, stone spear, stone dart, and stone artifacts used in makeup: bracelets, earrings, beads chain.

The techniques of copper casting were more advanced, providing new, more effective tools such as pointed spear, dart, arrows, and fishhooks, compared with stone tools. The Dong Dau also used copper to manufacture brass-casting mold, thread maker, pottery and making clay statues of animals like cow, chicken, turtle ... These statues indicate that said animals are the main food source for the existence and development of the Dong Dau residents.
            To Dong Dau culture, archaeologists confirmed that its residents are the agricultural population, farming dry and wet rice fields, growing root tubers, fruits around the residence. At Dong Dau location, 3.40 m depth, archaeologists found much ash and burnt rice grains, dating to 3,050 ± 100 years ago (Vien Khao Co Hoc, 1999); this means that rice is a food source for the Dong Dau. This is the first found traces of ancient rice in Viet Nam. Archaeologists later found rice grains having different shapes in Go Mun with carbon age of 1,120 (± 100 years) BC (Sakurai, 1987). In Trang Kenh sites (Hai Phong), they also discovered a lot of pollens of paddy rice, dating to 3,405 ± 50 years (Nguyen Phan Quang and Vo Xuan Dan, 2000).

These spores, pollen, burnt grains, rice husk found in Dong Dau sites demonstrate the presence of plants, including sweet potatoes, legumes, Cám family, Na family, and Poaceae such as bamboo, rice (Oryza sativa): glutinous rice and non-glutinous rice with round grains (Dat Tran and Dinh Van Thuan, 1984). A study of burnt rice grains at Dong Dau site reported: "10 long slender grains are non-glutinous... a few gross long grains look like glutinous ones … At 1.2 to 1.5 m depth, there are mainly short slender grains like non-glutinous rice (?). In these layers, there are long round grains (glutinous rice) and short round (di, cút). In the late Dong Dau culture, (1.2 to 1.0 m depth) there are two glutinous

short gross and round short grains, besides long slender and short slender (non-glutinous) grains" (Dao The Tuan, 1988). The classification of glutinous rice and non-glutinous rice based on observations on short/long and slender/round shape does not seem to be very accurate, especially for the case of burnt grains. For example, a slender long grain is not necessarily non-glutinous rice, because some glutinous rice has the same shape.     

Besides agricultural activities, they also gathered and hunted, particularly for residents living on high hills. Apart from bones found from dogs, pigs, chickens, livestock, they also hunted wild animals: cattle, pigs, deer and elephants in the forest and caught shellfish, fish, snails, turtles in the swamp, lagoon, lake, and springs around their residence. During this period, the archaeologists found traces of the residents’ houses, with yellow soil compaction, on which there are column holes, but the house may be simpler than that in Dong Son culture. This house is covered with roofs of straw or leaves and protected by surrounding rush or bamboo sheet. The Dong Dau also knew textiles, weaving, furniture made of bamboo, rattan - popular plants in the tropics. Dong Dau’s weaving is subtle, steady and beautiful to create objects containing cereal grains ... (Vien Khao Co Hoc, 1999).


(7)   Go Mun Culture (1,100-800 BC)

Famous Go Mun artifacts were found in Tu Xa village, Phong Chau district, Phu Tho province in 1961. Go Mun culture appeared after Dong Dau culture and before famous Dong Son culture, starting from 1,100 to 800 BC. Its cultural artifacts are allocated on hills, high lands near rivers, marshes, lakes. Traces on the yellow ground floor, compaction, thickness of 0.20 cm and black deep ground holes demonstrate that the residents lived in low house as seen in Dong Dau culture, with straw or thatched roofs and surrounded by grill cover, woven bamboo or straw walls. A notable characteristic of this culture is that residents concentrated in some areas, probably due to increased population; this differs from Phung Nguyen and Dong Dau residents.

            Cultural strata of the Go Mun at 1m thick, black, contain many artifacts: working tools, food, ruined houses, floors, kitchen, fireplace, burial... It is also found cellar, black ground holes that may be grain pits, landfill kitchen...

            Notable characteristics of Go Mun culture are its working tools and instruments in the form of pottery, bronze and stone, whose shape, decorative art has a special cultural style and easy to identify. Go Mun pottery appearance is particularly marked with its mouth style and decorative art (carved lines, print, relief).

            On Bronze objects, cast and metallurgy, mixed materials are innovative making a variety of tools such as axe, spear, arrows, pointed object, hook, hammer, sickles, man statue, bell, bracelets, brooch, earrings, rings ... It is noted that bronze sickle is used to harvest rice more effectively and faster than the stone crescent. Thanks to a mixture of good metal, the bronze of the Go Mun are less likely to find rust, durable and chipped.

            On stone objects, the production tools and some supplies are still important in Go Mun culture, such as quadrilateral axes, shouldered axes, stepped axes, chisels, grinding tables of all kinds, including the axe drilled for insertion of wire, net lead, casting

mold, bracelets, and stone earrings. The Go Mun knew how to apply sawing techniques, drilling, grinding, and turning quite proficiently.

            In Go Mun culture, the archeologists discovered a rotten cereal cellar, proving that the cellar owner produced not only enough rice to feed his family but also excessive reserves in the cellar (Vien Khao Co Hoc, 1999). Go Mun residents handle well agriculture, mainly rice cultivation along with other food crops around their residential areas, especially in coastal regions, hillsides, on the banks of rivers, lakes, swamps with annual alluvial accretion. The Go Mun may grow rice extensively on a large area, like floating rice in the Mekong River Delta, by sowing seed after the first few rains, and then rice plants grow well with rising water and are harvested at maturity.

            Animal husbandry was also quite progressive in Go Mun culture. The archeologist found bone artifacts of both domesticated and wild animals: pigs, chickens, dogs, cattle, elephants ... Although there is no evidence of inhabitants who used cattle in land preparation, some archeologists suggested that they had used cattle to trample on fields, pulling woods for house building. Obviously, the Go Mun knew cultivation, animal husbandry, hunting, and fishing in order to feed their families. 

The Go Mun life is more advanced than the Phung Nguyen and Dong Dau cultures, and has distinct charcteristics to create favorable conditions for the birth of Dong Son culture. In this culture, populations were concentrated in each area, living mainly with upland and paddy farming. This agriculture has higher economic efficiency, thanks to the use of copper production tools. The evolution from primitive agriculture detected in Hoa Binh culture to rice tribes in Bac Son culture indicates clear definition of living in the following cultures of Phung Nguyen, Dong Dau and Go Mun during the period of 3,000-4,000 years.

            In summary, the evolution of the rice cultivation along with human civilization through archeological cultures is as follows:

1)      Hoa binh residents could gather wild rice species for food along with vegetable, beans, rood tubers and they began taming wild rice around their caves and huts. Primitive agriculture appeared at least 8,000-6,000 BC.

2)      Bac Son residents produced pretty much rice on highlands, hill slopes under shifting cultivation. Rice tribes appeared in a few Southeast Asian countries, including Viet Nam about 5,000-3,000 BC.

3)      The Phung Nguyen, Dong Dau and Go Mun planted mainly upland rice and paddy rice to a less extent, from highlands to low-lying areas, river banks and coastal areas. They possibly used buffalos in agriculture about 2,500-1,000 BC. Rice became increasingly important to the residents. 

3.2.   Wetland Rice Development in Ancient Time: Hung Vuong - An Duong Vuong Period (2.000 to 180 BC)

This period started from the development of Bronze tools to initial Iron Age, i.e. probably from the tenth to the middle second century BC. The Hung Vuong and An Duong Vuong are accredited with the early establishment of the primitive Viet country, having an organized society and old civilization. The Hung’s Van Lang country possibly ranged from North Viet Nam, Northern Central Viet Nam to the Southern part of the Quangzhou and Quangxi provinces (Nguyen Phan Quang and Vo Xuan Dan, 2000) and appeared in the first haft of Dong Son culture.

    Dong Son culture (800 BC-200 AD) is a continuation of Go Mun culture and lasted about 1,000 years.

            Dong Son artifacts were unearthed in 1924 by Mr. L. Pajot at Dong Son village, Thanh Hoa province, and they were located in the right bank of Ma River. This culture includes the mountains, plains and coastal areas of the North to Quang Binh, but the principal area is plain areas, midlands of the North (Red River) and northern Central Viet Nam (Red River Delta). Dong Son culture was developed for long time, from the 7-8th century BC to the 1st-2nd century AD. The artifacts were found in many places, but generally distributed over highlands, foothills, along rivers and streams. The average cultural strata vary from 0.60 to 1.00 m thick. In addition to the separate sites of residence, there is a mixture of both residential sites and burial areas.

            Dong Son culture is characterized by all kinds of bronze, iron, stone, glass, pottery, bone and bamboo, wood. Copper accounts for a large number.

            Bronze artifacts: Dong Son culture is best known as a set of bronze artifacts that are plentiful in quantity, shape, level of manufacturing techniques and people’s aesthetics. The most prominent instruments of this culture are bronze drum and bell. Bronze drums are typical artifacts of Dong Son culture, now called Dong Son drums. So far, about 150 big drums and nearly 100 small drums have been detected in northern area of the Dong Son culture and elsewhere in Viet Nam: Thua Thien - Hue, Gia Rai - Kontum, Quang Nam - Da Nang, Binh Dinh, Nha Trang, Binh Duong, Vung Tau, Dong Nai, Kien Giang ... They were widely distributed not only in Vietnam, but also in many Southeast Asian countries such as Laos, Cambodia, Thailand, Malaysia, Indonesia and South China, thanks to regional trades. Bronze drums are classified into 5 categories: A, B, C, D and E, based on size, balanced shape and pattern.
            Dong Son’s bronze tools are rather plentiful, of which axes occupy a significant amount (Vien Khao Co Hoc, 1999). The other bronze tools include bronze plow blade, bronze hoe, bronze chisel, bronze shovel, bronze harvesting tools… These production tools indicate that rice agriculture was more advanced in the Dong Son era. Copper was also used for living activities (bowl, jar, disk, pots ...), jewelry (ear ring, bracelet, brooch set, belt courses, bronze statues...), weapons (spear, dart, arrows, daggers), and music instruments.

  The Hung Vuong and An Duong Vuong period (2.000 BC-180 AD)

During the initial Hung period, the Lac Viet started focusing on rainfed lowland rice as well as animal husbandry, fisheries, ceramics, etc. They migrated from highlands and mountains to lower lands and settled along major rivers, mainly the Red River, Ma River and Ca River. The process of land reclamation and human settlement along the rivers triggered the formation of their societal structure and cultural advance. This process included burning, cutting, and destumping. It required from 3 to 5 years (with present farm tools) to convert a virginal swampland into a rice field. This practice is still found in mangrove rice and swamp rice development in West Africa, mainly Guinea-Bissau, Guinea, Senegal and Sierra leone. Therefore, the people had to live in groups in order to help each other and the village or làng (or láng and lang) was established scatterly along both sides of the rivers. In this way, village life was slowly developed under solidarity spirit.  

            As demographic pressure increased, rainfed lowland rice gradually became more important than upland rice, due to its superior stability and productivity. However, the production system was not fully developed, in terms of cultivars, cultural practices, crop protection and post-harvest operations; resulting in insufficient rice to feed growing population in the Hung dynasty’s early days. 

Archeological artifacts show that stone tools still played a crucial role in food production during this period, reflecting very primitive rice cultivation techniques in the newly-built country. This time, upland rice plants had not yet adapted well to wetland conditions, hence they were less productive. Thereafter, farmers were experienced in growing rice under tidal stream, but rice was not yet the Viet’s staple food. This life conditon was illustrated in a legendary story: “In the initial stage, the Viets did not have enough food to eat, they had  insufficient clothing to wear, they  had to peel tree bark to make clothes, weave cylindrical herbs (rushes) to produce mats to sleep; to produce wine from rice; to use a treenamed “quang lang” to bake cake; they  used domestic animals and fish to make dry food and fish sauce; they used ginger roots to produce salt; used knives to plough; irrigated fields for transplanting glutinous rice; used bamboo tubes to cook rice; used wood to build two-story houses to defend themselves from tigers; and they had hair cuts to make working in forests easier, etc.” (Linh Nam Chich Quai).

Civilization and society rapidly developed in the river deltas because they provided adequate food to support growing population.

In Hung culture, the Lac Viet society was rather well organized into different social classes: Lac Vuong (king), Lac Hau (litterature), Lac Tuong (millitary), Quang Lang (King’s sons), My Nuong (King’ daughters), Bo Chinh (Civil servants), Tu Truong (tribe chiefdom) and Toc Truong (head of families). 

In socio-economic terms, the Red River civilization (or Van Lang civilization) was based on agriculture with a primary focus on wetland rice cultivation and development of village structure. Different types of rice were found, from the short glutinous grains of the Phung Nguyen culture to a mixture of short and long non-glutinous grains in Dong Dau and Go Mun cultures. The appearance of bronze and iron allowed agriculture to develop rapidly, as did the introduction of the plough and animal traction. These improvements completely converted the economy and helped social changes (Vien Khao Co Hoc, 1999). Glutinous rice was the staple food, which was complemented by root crops, food grain legumes, and vegetables for daily diet. In addition, fisheries, animal husbandry, and hunting provided additional food. Engravings on the bronze drums of Dong Son culture illustrate several field activities, such as transplanting, rice pounding and storage, indicating the prosperous period of Wetland Rice Civilization. The identification of many musical instruments such as bronze drums and music bells clearly reflects the advanced state of the Dong Son civilization.  

By the second century BC in Dong Son Culture, stone tools had been replaced by bronze, brass and iron tools. A corresponding increase in the productivity of rice cultivation was made, and rice began to play a prominent role in the national agricultural economy. According to Chinese history, “In the old days, the Giao Chi had not yet been divided into districts, rice crop was grown according to up-and-down (tidle) stream, the people reclaimed wetlands for food production and were called “the Lac” (Thuy Kinh Chu in Tran Van Dat, 2002). In Dong Son Culture, hunting and gathering techniques were still prevalent on hills and mountains, though this practice was gradually less important in the delta. The Hung’s activities were still concentrated on the hills, mountains and valleys; thereafter the An Duong Vuong and other later dynasties moved slowly down to lowlands and settled in the Red River, Ma River and Ca River deltas. 

3.3  Tradional Rice Cultivation during the Northern Occupation Period (179 BC - 938 AD):

The Chinese occupation of Northern Viet Nam and the Han assimilation were marked by extensive and cruel exploitation, human rights abuses, inhuman colonization, etc. At the same time, the Viet also gained exposure to Chinese civilization, including their advanced agricultural technologies. Consequently, Vietnamese agriculture (mainly rice cultivation) was somewhat improved. In addition, the people’s spiritual life and cultural philosophy were enriched by Confucius and Mencius’ teachings.

In the first century, the Viet population was reported in Tien Han Thu (in Bui Thiet, 2000), as follows:

·         Giao Chi district: 92,440 families with 746, 237 persons.

·         Cuu Chan district: 35,743 families with 166,013 persons.

·         Nhat Nam district:15,460 families with 69,485 persons.

Total: 143,643 families with 981,735 

Before the Han invasion, the Viets knew how to use sharpened stones to construct hoes and ploughs. Later, they developed brass tools and constructed dikes, which led to their ability to improve irrigation systems, double cropping and transplanting techniques. Glutinous rice was dominant for both tidal rice (wetland system) and upland rice. Non-glutinous rice was also planted, but to a less extent. They knew the techniques of seed sowing and cropping even in the early civilization and this management could be rather advanced than the Chinese history reported. It was reported that the Chinese colonists introduced iron hoes and ploughs and taught the Viet how to harness animal traction and domestication (Pham Van Son, 1960). The Chinese also introduced the use of night fertilizers (Bui Huy Dap, 1980).

It is worthwhile noting that in 185 BC, China was facing a potentially serious crisis; the Emperess La Hau had dethroned Hue De and was wrongly advised by her surrounding associates to break her relationship with King Trieu Vu Vuong. She ordered the first embargo to Lac Viet. Under the embargo, the Hans were not allowed to trade gold, iron materials and other agricultural iron tools (Pham Van Son, 1960). This would explain the late appearance of gold and iron in Viet Nam. During this occupation, the condition of rice cultivation in Viet Nam was comparable to that of the Chinese. Unfortunately, there are a few, if any, records and documentation relating to Viet agricultural evolution, rice civilization and history before the 12th century AD, because they were destroyed under the Chinese ambitious asssimilation policies.

In Table 2, the conditions of rice cultivation in China (Chang, 1985) and Viet Nam from 1500 BC to 1127 AD did not differ much from the use of cattle, copper and iron hoes, crop management, flood control, irrigation, and harvesting; however, Viet Nam knew rice transplanting earlier than China for more than 8 centuries and double rice cropping earlier than this country. Perhaps, Chinese knew to use iron plow blades and animal draught for farming earlier than Viet Nam shortly. 

Table 2: Comparison of early development of rice cultivation in China and Viet Nam from 1500 BC to 1127 AD

 

PERIOD

 

 

CHINA (*)

 

VIET NAM

 

REFERENCES OF VIET NAM

1500-1100 BC

Animal draught used

Animal used in Phùng Nguyên, Gò Mun and Đồng Đậu cultures (2500-1000 BC)

- Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

1222 BC

Rice cultivation well established

Many burnt rice grains found at Đồng Đậu site, about 1,100 BC

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

1122 BC

Started using hoes

Many copper and iron hoes found in Phùng Nguyên, Gò Mun and Đồng Đậu cultures

- Viện Khảo Cổ Học, 1999 & 2002

700 BC

Controlled floods

Dams and dikes built. A portion of dike of Co Loa City found (at least 200 BC)

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

-Bùi Huy Đáp, 1980

- Maspéro, 1918

600-500 BC

Irrigation applied

- Irrigation work of Basalt rocks at Gio Linh, Quảng Trị, before BC

- Tạ Chí Đại Trường, 1996

400 BC

Iron plough blade, yoke, plough started to use

Copper, iron ploughs used in Đông Sơn culture, 800 BC - 200 AD

- Viện Khảo Cổ Học, 1999

400 BC

Rice specialists” were assigned to guide rice cultivation

King Hùng Vương taught people how to plant rice

- Lĩnh Nam Chích Quái

Trước CN

Deep ploughing, weeding in mid-season already used

-

 

206 BC - 206 AD**

Yield: 0,40 t/ha

> 0.54 t/ha  around BC

Estimated calculation

146-167

Rice transplanting was first mentioned

Vietnamese knew rice transplanting since the Nation newly built – Hùng Vương (700 BC)

- Lĩnh Nam Chích Quái

- Maspéro, 1918

 

618-906

Water pedal wheel was applied

- Already applied at this time

Northern occupation

960-1127

Toothed harrower and axe were used

- Already applied at this time

Northern occupation

960-1279

**

Yield: 1,04 t/ha

May be the same

1 t/ha at the beginning of the National Independence period (10th century)

 

Before and after BC

***

Not yet double cropping

North Viet Nam planted Chiêm rice and Mùa rice

- Bùi Huy Đáp, 1980

- Maspéro, 1918

 

Source: (*) Chang, 1985

 (**) Greenland, 1997             (***) Author added 

3.4. Traditional Rice Production during the National Independence Period (939-1884 AD):

The National independence started from 939 AD, after Ngo Quyen expelled Han invaders, until 1884 when the Hue Court signed a peace treaty named “Patenôtre” with France, recognizing the protection of their land in Northern part and Central part of the country. For nearly a thousand years of independence, occasionally interrupted by cruel invasions of the Northern Country, the Government was gradually consolidated, but the culture was still heavily influenced by Confucianism’s essence. Society was gradually progressive from urban to rural areas, with the development of local customs, village regulations and the emergence of four social classes: scholar, agriculturist, industrialist and tradesman, particularly the appearance of a great gap between the rich and the poor.

            From the beginning of Independence, technical level of Vietnamese rice production is quite high, due to the harmony of Dong Son culture and Han civilization. Most of the agricultural techniques were not much further improved until French colonization, due to the lack of technical and scientific knowledge. Vietnamese people used long-term personal experiences and traditional techniques, such as iron hoe, iron plows, harrows, animal draught for land preparation, bio-fertilizers (azolla, compost, manures...), hand weeding, crop protection, manual harvesting, drying, storage and processing under variable labor-intensive manners. Rice was always the national economy’s central agricultural crop. Indeed, all of the dynasties from Ngo - Dinh - Le, Ly, Tran, Hau Le, Tay Son and Nguyen focused on the agricultural development with emphasis on rice not only to meet the population’s growing demands, but also to reinforce land tax collection.

Therefore, the king from Le, Ly, Tran to Nguyen dynasties regularly organized “Tich Dien” ceremony each year before rice season to encourage people to step up cultivation. In addition, there were other popular festivals, called “Ha Dien”, “Thuong dien”, “New rice” (in October lunar calendar), etc. During the Independence period, paddy farming was well developed and more productive, but not evenly across the country; meanwhile upland rice on hills and mountains has still been practiced under primitive shifting methods until today.

Above all, the following are major policies and activities carried out by various dynasties:

Ly dynasty 1010-1225 AD) pronounced “Ngu binh u nong” policy also called “Military agriculture regime”. Soldiers took turns to return home for taking care of rice farming, with the aim to helping reduce military feeding costs as well as promote production. Tran dynasty (1226-1400) implemented the policies of “Land reclamation” and “Cao dien hoanh” that allowed deploying prisoners for rice cultivation and harvest. Ho (1400-1407) dynasty issued the policy of “Han danh dien”, aimed to restrict former Tran dynasty’s power and influence in the society. Hau Le (1428-1527) dynasty implemented the “Agricultural importance” or “Trong Nông” policy. Trinh-Nguyen civil war (1533-1785) exempted tax for court officers and civil servants’ lands in the North, encouraged new land reclamation in the South. Tay Son (1786-1802) promoted rice production and rehabilitation program under the “Agricultural extension decree”. Nguyen dynasty (1802-1884) carried out the policy of “Ban buc tu dien” and “Dinh dien” to encourage people to reclaim new land for their own property, besides public lands (Trần Trọng Kim, 1971).

In general, all dynasties focused the following policies and measures to increase agricultural production, with emphasis on rice:

1)      Land reclamation and development of naturally-established lands along the coastline;

2)      Restoring the agricultural potential of lands abandoned during the wars;

3)      Building and maintaining dikes and dams;

4)      Development of irrigation and drainage; and

5)      Tax collection systems.

These policies triggered a fast increase in rice production area, but yield improvement lagged behind. Rice area increased from 216,000 ha in around 1st-2nd century AD to more than 800,000 ha in the 1860-70s. Rice yield increased from a few tens kg/ha in the early history to around 0.54 t/ha in the 2nd century BC, 1.0 t/ha in the 10th century AD and 1.2 t/ha in the late 19th century (Tran Van Dat, 2002). 

3.5.   Improved Rice Cultivation during French Colonization (1885-1954):

During French occupation, efforts to improve rice production only served French’s and their collaborative people’s interests. The French realized that North Viet Nam is the most densely populated region; hence, increased rice production is needed to combat starvation and avoid social unrest. Meanwhile, they strongly encouraged land reclamation in South Viet Nam to promote rice production for export earnings (Table 2), through incentive measures: low export taxes, low interest loans, and early land property rights. However, at the same time they brought in the country European civilization, sciences and technologies, improving several aspects of Vietnamese society.

Agricultural research was first introduced to Viet Nam in 1886 and then remained stagnant until 1897. At that time, the French colonists, motivated by commercial interests, resumed studies on industrial crops such as coffee, tea, oil products and grassland for animal husbandry (Dumont, 1995). Next, a series of offices were established in Saigon: Indochinese Agriculture and Commerce Directorate (1898), Nam Ky Agriculture Directorate (1899), Chemical, agricultural and industrial Analytical Laboratory (1898)... (Huỳnh Lúa et al., 1987).
           
However, agricultural research was scattered and lacked coordination; therefore, the Indochinese Institute of Science was established in Saigon and later became the Indochinese Institute of Agronomic Research in 1919.  In 1924, the Institute became the Indochinese Research Institute of Agronomy and Forestry and continued to work until the colonial period ended (Dumont, 1995).
            As rice quality is very important, Rice Seed Selection Laboratory was established in Saigon in 1909 and was later changed to Rice Seed Selection and Genetics Laboratory in 1912. Rice Experimental Center was first established in Can Tho province in 1913. In 1917, the first breeding in Vietnam between “Caroline rice” variety introduced from Java, Indonesia (imported from USA) with local rice variety "Tau Huong" (Carle, 1927).
            Indochinese Rice Bureau (L'Office du riz indochinois), an autonomous body was formally established in 1930, with the aim "to improve rice farming, milling and trade" in the region. After colonial rule ended, the Bureau was renamed Rice Service, composed of three branches: Rice technology, Rice production and Seed laboratory.

Over 80 years of French colonization, rice yield increased from 1.2 t/ha to 1.4 -2 t/ha. This progress was rapid compared to early periods, particularly when rice production was achieved during two thousand years of Northern colonization and National Independence (from 0.4 to 1.2 t/ha). Over more than half century, rice area steadily increased from 215,000 (1868) to nearly 2 million ha (1924) or nearly 15%/year in South Viet Nam; rice export increased from 57,000 tons in 1860 to 1.4 million tons in 1925 (Table 3).

The Vietnamese rural society has inherited a long tradition and was well organized with customs, ceremonies and local festivals, which are aimed at strengthening rural solidarity among villagers. A number of these traditions still exist in many parts of the country. During the rice growing season, rice farmers often lend each other labor for transplanting, manual weeding and harvesting. Women play an essential role in these operations.

During the French colonization, agricultural lands at the village level were classified into two categories. Private rice land referred to farmer-owned land, which could be distributed to their children or relatives at their will. Public rice land or Village-owned rice land was created to help the poor and was reserved as a public good, which was redistributed as the village’s growing population.   This land also supported some public activities (ceremonies, temple, pagoda, etc.) and helped the villages secure a means to pay their taxes.

The establishment of village-owned rice land helped to minimize differences in the Vietnamese social class structure, in contrast to the large class gaps witnessed in the Indian social system, influenced by religion. In a survey carried out in North Viet Nam (Tonkin) in the 1930s, 91% of farmers planted less than 1.8 ha, accounting for 37% of the total rice-cultivated area. The remaining 9% of farmers occupied 43% of total rice lands. Public rice land accounted for the remaining 20% (Gourou, 1955). Rice farmers were classified into three main groups: very poor farmers (ban co nong) had less than 1 mau (3,600 m2) and cultivated 40% of total rice lands; small-scale farmers (tieu nong) (3-5 mau) and medium-scale farmers (trung nong) occupied another 40% of total rice land. Most of the large-scale rice fields were located on the periphery of the Red River Delta, especially in Vinh Yen and Bac Giang provinces (Dumond, 1995). 

Table 3: Cultivated area and rice export in Cochichine, 1860-1925 

 

Year

 

 

Area (ha)

 

Export (tons)

1860

-

 56,950

1868

  215,000

128,894

1870

  522,000

293,207

1890

  854,000

540,998

1900

1,174,000

747,635

1910

1,528,000

1,144,644

1920

1,939,000

1,020,399

1921

1,955,000

1,532,721

1922

1,845,000

1,260,374

1923

1,906,000

1,145,315

1924

1,975,000

1,101,609

1925

-

1,370,900

Source: Tran Van Huu (1927) 

In South Viet Nam (Cochichine), the farmer classification was the same as in the North, but class differences were more pronounced. Small-scale farmers (less than 1.87 ha) represented 71.7% of the farmers, but accounting for only 15% of the total rice area. The medium-scale farmers (5-50 ha) and landlords (above 50 ha) occupied 82% of cultivated lands. The remainder belonged to the public lands (Angladette, 1966). In several Southern provinces, such as Tien Giang, Can Tho, Bac Lieu, and Ca Mau, the landlord possessed thousands of mau of ricelands – “co bay thang canh” (herons fly exhaustedly) - and many large rice stocks (Lẫm luá) that were 4-5m wide and hundreds of meters long each. However, they never deployed improved technologies to increase rice productivity and therefore achieved very low yield of 1-2 t/ha.

Tenant farmer or ta dien is the term for landless farmers or very small-scale farmers who were not able to produce sufficient rice to raise their family. They had to lease their land from landlords and usually rented ricefields were not larger than 5 ha. Landowners sometimes had hundreds or thousands of ta dien who were forced to serve them in various ways, in addition to paying rent. After harvest, ta dien had to pay their landlord in kind or in cash, depending upon various land types; from 5-10 gia of paddy (22kg/gia) for infertile lands to 40-50 gia of paddy/ha for fertile lands (Tran Van Huu, 1927). The landlord often exploited these small-scale farmer for excessive profits! 

3.6.  Modern Rice Production from 1954 to Green Revolution and Economic Reform (Doi Moi)

After July 1954, the war ended and agriculture across the country began to recover in a short time. North Viet Nam experienced through the agrarian revolution, but the population was upset, hence they took corrective action, later moved forward to the establishment of working groups, production teams and built low-level cooperatives. Thus, the classes of landlords and rich farmers disappeared quickly. Meanwhile, South Viet Nam agriculture continued the tradition of French colonial production systems, and paid main attention to new land reclamation program, settlement and land reforms, with emphasis on the Green Revolution.
            After national reunion in 1975, agriculture recovered rapidly, but it did not meet domestic food demand, due to inappropriate national policy on production. Until the Economic Reforn or Doi Moi implemented since 1988, agricultural industry was thriving, especially rice and fishery production have steadily increased and regained exports, bringing a significant amount of foreign currency to the country.

Since Doi Moi, the economic importance of agriculture has been declining compared with other sectors, such as industry and services. Percentage contribution of agriculture to the national GDP declined from 40.2% in 1985 to 22.2% in 2008, although production has increased every year (WRI, 2007 and General Statistics Office, 2008).

From 1958-75, North Viet Nam’s agriculture was strongly influenced by organizing production through agricultural cooperatives from lower to higher level, from rural communes to villages, land collectivization and production inputs thoroughly and quickly. However, "farmers are indifferent with land, with the cooperative, with the collective economy and they distract farming." The number of cooperatives increased from 18 in 1956 to 45 in 1957, 4,823 in 1958, 27,831 in 1959 and 40,422 in 1960 (Nguyen Sinh Cuc, 1995).

Meanwhile, South Viet Nam implemented land reform, but the landlord class, rich farmers were still present, although to a lesser extent, compared with the colonial and feudal periods. Despite the "farmers have farmland” program, many farmers still did not have the land to plow because of farmland shortage.

The last Green Revolution took place in the world from mid-1960s to mid-1990s, thanks to the discovery of a dwarf gene that responds well to fertilizers, produces more grain and reduces plant lodging. In Viet Nam, the Green Revolution started in 1968 and possibly ended in the mid-2000s.

            From 1966 to 1975: Over this period, Viet Nam participated in the Green Revolution, particularly in South Viet Nam. Rice production increased from 8.5 million tons of paddy in 1966 to 10 million tons in 1975 or 2.1% per year. The IR high yielding variety greatly contributed to increased rice production in both North and South Viet Nam. Nevertheless, the Green Revolution was not able to express its full strength due to the war, especially in the North, until the Market Reform took place. In South Viet Nam, the Green Revolution took place extensively as it had a more conducive environment, including the availability of improved seeds, fertilizers and appropriate policies. It is noteworthy that South Viet Nam pursued the market-driven economy until 1975, and that this system was favorable to achieving progress during the Green Revolution.

Historically, the IR8 variety, which was named “Than Nong 8” in South Viet Nam, “Nong Nghiep 8” in North Viet Nam and commonly called “Lua Honda” by farmers, was first introduced to South Viet Nam from the International Rice Research Institute (IRRI) in 1966. In 1967, this variety was commercially planted in Vo Dat district, Bình Tuy province and quickly adopted by Southern Vietnamese farmers who planted 23,373 ha of modern rice in 1968/69. In 1974/75 season, new improved rice varieties reached 950,000 ha or 30 percent of the total rice area, while production accounted for 52 percent of South Viet Nam’s total rice (Tran Van Dat, 2001 and 2002). The rice increase was principally achieved through rice policies, improved varieties, irrigation development and agro-chemical use. The Green Revolution only began in North Viet Nam after 1975, due to an insufficient supply of improved seeds and fertilizers (nitrogen) - two of the four determining factors for Green Revolution’s success. Negative impacts of the Green Revolution in Viet Nam have been identified as increased virulence of pests, “soil mining”, social inequity, and particularly increased flood frequency in the Mekong River Delta.

During the Green Revolution, farmers’ technical level of rice cultivation can be assessed by the acceptance of modern rice, the use of  improved techniques and increased yields over time. According to the study of Tran Thi Ut and Hossain (2000), the modern rice area increased from zero in 1966 to 300 ha in 1967, approximately 1 million ha in 1980 and 6.6 million ha in 1998 or 90% of the total rice growing area. Overall, rice contributed to 37% of family income at the survey site. Irrigated rice brought about 41.5% (587.42 dollars) compared to non-irrigated rice only 18.2% (90.30 dollars).

During the period from 1968 - 2009, average rice yields increased from 1.8 t/ha to 5.2 t/ha, or 4.3% per year. This indicates that farmers' knowledge in rice cultivation from North to South has been improved rapidly during the Green Revolution and Doi Moi, when the modern technology and media are expanded to rural areas. Vietnamese farmers are very smart, with swift and quick absorption of new advanced technologies. Currently, the majority has no longer the conservative nature to modern techniques imported from the outside world. Farmers easily accept new technologies, provided they bring profits to them. From the feudal and colonial era to the Green Revolution, farmers’ technical skills have been significantly enhanced, especially in cropping, soil management, cultivation methods, crop protection and harvesting (Table 4).

 Between 1976 and 1980, the agricultural sector was organized for whole country on a collective basis where all land belonged to the State. Agricultural operations were practiced by work teams that made up the labour force for state farms. The State established quotas, channelled farm inputs, collected taxes and procured paddy at fixed prices through the cooperatives. Under this regime, cooperatives owned all farm equipment including tractors, water pumps, etc. The workers were paid according to the number of hours of work irrespective of their output. Therefore, rice production grew sluggishly (FAO, 1994). 

Table 4: Comparison of traditional rice cultivation (to 1967) and modern farming (from 1968 to present) 

 

No.

 

Traditional Rice Cultivation

(to 1967)

 

 

Modern Rice Cultivation

In the Green Revolution

(from 1968 to present)

1

In South Viêt Nam, there are 3 types of rice: early rice (3-4 months), medium rice (5-6 months) and late season rice (7-8 months). The late season crop is the most important.

Late season rice decreases; Winter-Spring and Summer-Autumn crops become more important.

2

In North Việt Nam: Chiem rice and late season crop. The most important crop is late season rice (Lúa Mùa).

Spring crop largely replaced lúa Chiêm (Winter-spring) and farming systems include two rice crops plus a winter crop.

3

About 640,000 ha of floating rice (deep water) in Dong Thap Muoi and Tu Giac Long Xuyen, with low yield: 2t/ha.

Only less than 30,000 hectares of floating rice, the remaining area was transformed from one to two rice crops/year with modern varieties under irrigation.

4

100% of traditional rice varieties, tall, long and curved leaves, photo-sensitivity, less response to nitrogen, lodging, 1-3t/ha.

Over 90% improved rice varieties, short stature, straight and dark green leaves, little or no photo-sensitivity, high response to N, average yield: 6-8 t/ha

5

On-field seed selection of rice varieties; 23-40 kg/ha of seed (Tran Van Huu, 1927)

Farmers buy improved seeds, but still trade seeds among farmers; 20-40kg/ha of seed

 

6

Transplanting old seedlings (45-60 days) 

Seedling age of 20-30 days (30 days or more in the North (Winter-spring) because of low temperatures)

7

Rice transplanted twice in deep water area (50-100 cm)

Transplanted once as the water level can be controlled and cropping systems adjusted.

8

Transplanting with 5-10 seedlings/hill

2-3 seedlings/hill; direct seeding method increases steadily

9

Wide spacing from 40 x 40 cm to 70 x 70 cm 

Narrow spacing: 20 x 20 cm, 20 x 25 cm, 15 x 20 cm 10 x 15 cm

10

Little or no use of chemical fertilizers (60-30-30), but more natural phosphate, compost, green manure (North and Central Viet Nam)

Heavy use of chemical fertilizers: N, P and K (120-60-60) and less use of organic fertilizers

11

Little or no use of pesticides, herbicides

Using much pesticides, herbicides and IPM

12

Less irrigation

Farmland is irrigated (> 80%)

13

Little mechanization, use much manpower for land preparation, weeding, irrigation, harvesting and processing

Partially mechanized, especially for land preparation, irrigation, harvesting and processing

14

Early harvest due to grain shattering at maturity

Less losses from grain shattering and lodging

15

Farmers often gather dropped panicles and shattered grains in rice fields after harvesting

No longer gather dropped panicles and shattered grains in rice fields after harvesting

16

Extensive farming and rice monoculture

More intensive farming, but still rice monoculture

17

Low productivity and efficiency.

 

Productivity and efficiency are improved, but still low.

 

 

During 1981-1987, the Government started to “rent out” land to individual families, but the cooperatives still remained the focal point for State distribution of farm inputs, tax collection and the procurement of agricultural products. Later “a contractual system” appeared and farmers were paid a “contractual price” for their paddy, but it was operated in the same way as the compulsory procurement system. Most of the paddy produced beyond the family’s direct needs had to be sold to the cooperatives. However, farm families were allowed to retain up to a maximum of 5% of their land as private plots, free of tax and quota obligation. As a result, rice production increased moderately (FAO, 1994).

1988 Market Reform: In April 1988, the recurrent shortage of rice in the country and the regime falls of Eastern Euroupe triggered a number of market reforms or renovation or Doi Moi. A series of enforcement measures has permanently changed the status of domestic agricultural production. Farmers were allowed to lease land for up to 20 years for growing annual crops and 50 years for perennial trees. They are free to decide on their production and purchase of farm inputs (Le Hong Nhu, 1999). In fact, farm inputs were no longer channelled through cooperatives and farmers could acquire them freely from the markets. The removal of administrative constraints and taxes enable products to move freely and be sold on the free market. Thus, in 1989, just one year following the adoption of market reform policies, rice production increased by more than one million tons (or 12%). In the same year, Viet Nam transformed from an importer to a major rice exporter.   

Since 1989, Vietnamese rice production has progressively liberalized. State subsidies for rice production have been virtually eliminated. Farm prices are now increasingly influenced by the world maket. The costs of rice production have risen sharply with increasing use of chemical fertilizers and pesticides. In 1992, cash expenditure per hectare at the national level was estimated to be 40 times higher than that in 1987 (FAO, 1994).  Therefore, while yield has increased, farmers have gained very little in real terms per ton of paddy produced. In fact, their real net income per ton of paddy has decreased. This has been especially pronounced during the low world market prices over the last two decades.

Farmers have intensified the use of modern rice and nitrogen fertilizers to increase productivity and efficiency, and reduce the production cost. However, as world rice prices continued to decline in 1990s and early 2010s, farmers earned less and less; thus many farmers shifted out of rice cultivation. In Tien Giang, Vinh Long and Long Xuyen provinces, several villages have converted rice land to orchards that usually produce higher profit. 

During the Doi Moi, rice production grew from 17 million tons in 1988 to 38.9 million tons in 2009, increasing over 6% per year; area increased from 5.7 to 7.4 million ha, or 30%; and rice yield increased from 3 to 5.2 t/ha, or 73% (Table 1) (General Statistics Office, 2010). This was achieved in the early years of the Doi Moi largely due to policy changes rather than by technical improvements, but later the development of irrigation/drainage and use of chemical fertilizers play more important role in the Green Revolution and Doi Moi. 

In 2017, the country exported nearly 6 million tons of rice; however, it is still encountering several major constraints to increased production, as follows:

1)      low rice prices at farm gate;

2)      farmers’ low incomes and inadequate rural infrastructures;

3)      natural catastrophes especially frequent flooding and drought;

4)      frequent pests and diseases occurrence;

5)      deteriorated irrigation and drainage systems;

6)      high input prices;

7)      land fragmentation;

8)      negative impact on the environment/depletion of the resource base; and  

9)      global climate change (sea water rising and salt intrusion).

Over the Green Revolution and Doi Moi, the structure of rice agriculture has been adjusted and characterized by the following areas:

1)      Conversion of rice transplanting to direct sowing has reached more than 90% of rice growing area in South Viet Nam. This trend continues to expand into Central and Northern part of the country, as it is able to save water, consume less labor, and herbicides are available across the country with an affordable price.

2)      Farmers have also shifted rice fields to orchards and upland crops. Thus, this trend should be encouraged wherever surplus rice production exists, such as the Mekong River Delta - to improve farmers' prosperity.

3)      In the Mekong River Delta, area planted to Winter rice has been reduced, while the Winter-Spring and Summer-Autumn rice areas have increased.

4)      In the Red River Delta, area planted to Winter-Spring rice has been gradually replaced by Spring rice.

5)      For the whole country, Winter-Spring area increased from 1.8 million ha in 1985 to 3.1 million ha in 2009. Over the same period, Summer-Autumn rice was up to 2.4 million ha from 994,300 ha, and the Winter rice (lúa Mùa) area was reduced from 2.9 to 2 million ha (Table 1).

6)      Increased use of early-maturing varieties (90-100 days) has helped crops to avoid flooding or drought occurrences and has facilitated agricultural intensification.

7)      Good quality rice is more focused to increase product value, increasing competitiveness in the domestic and world market.

8)      North Viet Nam has concentrated in disseminating hybrid rice production since 1991, mostly using seeds imported from China, as this rice type has higher yield than traditional ones by 15-20%.

In brief, the evolution of rice cultivation in the country from prehistory to present can be summarized as follows:

1)      About 10,000-8,000 years ago: primitive agriculture was initiated. The early resitents gathered fruits, tubers (taro), food grain legumes and wild rice for additional food, besides hunting. They started domesticating some crops including rice.

2)      About 6,000-5,000 years ago: Rice tribes appeared across the country and Southeast Asia. They grew glutinous rice on highlands, hills and mountains (Bui Thiet, 2.000; Nguyen Phan Quang and Vo Xuan Dan, 2.000). Marine advance and retreat phenomena indicate the predominant upland rice farming in ancient days (Neolithic Age).

3)      4,000-3,500 years ago: The Viets began settlement along major rivers, mainly the Red River, Ma River, Ca River and coastal areas. Wetland rice cultivation was initiated. Upland rice continued predominantly.

4)      3,000-2,700 years ago: The Viets could sow seeds and transplant rice (more glutinous than non-glutinous) in accordance with tidal waves (Thuy Kinh Chu and Linh Nam Chich Quai).  The Hung dynasty began and Van Lang country was newly formed.

5)      3,000-2,500 years ago: The Viets began to use bronze hoes and ploughs (Vien Khao Co hoc, 1,999). Dong Son culture started.

6)      2,500-2,100 years ago: The Viets began to harness animal draught for land preparation (Vien Khao Co hoc, 1,999). Wetland rice civilization was thriving.

7)      2,200-2,000 years ago: The Viets built dikes and dams along the Red River to help prevent flooding (Pham Van Son, 1,960 and Bui Thiet, 2,000).

8)      2,100-2,000 years ago: Iron hoes, ploughs and other small farm instruments were adopted into Vietnamese agriculture (Pham Van Son, 1960 and Bui Huy Dap, 1980).

9)      About 2,000 years ago: The Viets increased rice production by growing two rice crops per year: the Chiem rice and late season rice (Di Vat Chi). They planted glutinous and non-glutinous rice, but the glutinous was most preferred.

10)  930-1127: The Viets used harrows and axles to facilitate puddling, transplanting and weeding (Chang, 1985).

11)  About 1600: The Viets began to favor non-glutinous rice over glutinous rice due to the fact that the former expands more volume during cooking (Book of Quang Dong New Language in Bui Huy Dap, 1999).

12)  1886: Agricultural research began in Viet Nam.

13)  1909: Varietal selection of rice began.

14)  1913: The first Rice Research Centre was established in Can Tho Province (Tran Van Huu, 1,927).

15)  1917: The first rice crossing between Tau Huong (high quality rice of Viet Nam) x Caroline variety (US variety introduced from Indonesia) was made (Carle, 1927).

16)  1968: The Green Revolution and modern civilization began in Viet Nam (Tran Van Dat, 2001).

17)  1988: Market Reform or Renovation (“Doi Moi”): new policies allowed the Green Revolution and national economy to proceed at full strength.

18)  1999-2009: Viet Nam became the second largest rice exporter in the world after Thailand.

19)  Since 2013: Implementation of Rice restructuring Project.

Rice is not only a crop but a symbol of the Vietnamese people; it has enhanced livelihoods and helped build the country, culture and national economy over thousands of years. Meanwhile, wild rice evolved into modern plants, yielding 8-10 t/ha, while Vietnamese civilization continued non-stop advancement even slowed. Wild rice could be domesticated in Nord Viet Nam highlands at least 6,000-4,000 BC in Hoa Binh culture and Southeast Asia. Thereafter, its production and productivity have increased over time with human creativity, experience and the country establishment. Rice tribes appeared across the country at around 4,000-3,000 BC in Bac Son-Dong Nai cultures, bringing stability to the society and creating the basic elements for the advancement of civilization and people later. In ancient times, the Lac Viet had some experience and understanding of rice farming systems, mainly paddy rice cultivation, inducing an old Vietnamese civilization, also known as “wetland rice civilization” or “Bronze Drum civilization”, opening a new era for the people as well as the growth of the nation.

            Followed by a period of Northern domination and independence, rice development was stagnant, due to lacks of technologies and sciences; while the civilization was strongly influenced by Confucianism. Over this period, rice production expanded by only new land development, and extended territory towards the South. After that, the country has slipped into the French colonial past and by access to Western European civilization; hence rice industry was thriving, imbued with modern knowledge and scientific practices, bringing people life to modern civilization in preparation for the coming Green Revolution. In Vietnam, the Green Revolution continued until mid-2000s, due to war and Government policy. The Doi Moi era has strengthened the national food security and enhanced rice export; but farmer livelihoods have not much been improved because of inadequate support policy.

Obviously the history of rice cultivation in Viet Nam has gone through five key periods:

 (1) Hunter-gatherers, primitive agriculture and wild rice domestication in Hoa Binh-Bac Son cultures at least 10000-7000 years ago;

(2) Development of upland rice cultivation in Bac Son-Da But cultures at least 7000-5000 years ago;

(3) Development of wetland rice cultivation in the Hung Vuong-An DuongVuong era, through Phung Nguyen, Cau Sat-Suoi Linh, Dong Dau, Go Mun and Dong Son cultures between 4000-2180 years ago;

(4) Traditional rice cultivation during the period of the Northern occupation (2179-938);

(5) Expansion of traditional rice cutivation during the period off eudal Independence (939-1884);

(6) Development of improved rice during the French colonial period (1885-1954); and

(7) Development and dissemination of modern rice from 1955 to the Green Revolution and Economic Reform.

(8) Restructuration of rice-based production systems (since 2013). 

 

REFERENCES:

1.      Angladette, A. 1966. Le riz. Limoges, France. pp 930.

2.      Barron, A.,Michael TurnerLevi BeechingPeter BellwoodPhilip PiperElle GronoRebecca Jones, Marc OxenhamNguyen Khanh Trung KienTim Senden, and Tim Denham. 2017. MicroCT reveals domesticated rice (Oryza sativa) within pottery sherds from early Neolithic sites (4150-3265 cal BP) in Southeast Asia

(https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5547045/).

3.      Bui Huy Dap. 1980. Cac giong lua o Viet Nam.  NXB Khoa Hoc va Ky Thuat, Ha Noi, pp 563.

4.      Bui Huy Dap. 1999. Mot so van de ve cay lua. NXB Nong Nghiep, Ha Noi, pp 154.

5.      Bui Thiet. 2000. Viet Nam thoi co xua. NXB Thanh nien, Ha Noi, pp 463.

6.      Capus, G. 1918. Les riz d’Indochine. In: Annales de Géographie, Librairie Armand Colin, Paris, 5e, 27: 25-42.

7.      Carle, E. 1927. 1927. Amélioration des riz de Cochinchine. Agence Economique de l’Indochine, Paris, France, 11 pp.

8.      Chang, T.T. 1983. The origins and cultures of the cereal grains and food legumes.  In: Keightley, D.N. (ed.) The Origins of Chinese Civilization. University of California Press, Berkeley, USA, p 65-94.

9.      Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A cases tudy. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.

10.  Clampett, W. V. Nguyen and D.V. Tran. 2003. In Proceedings of the 20th Session of the Inter. Rice Comm., Bangkok, 23-26 July 2002, FAO, Rome.

11.  Colani, M. 1930.  Quelques stations Hoabinhhiennes, Bulletin de l’Ecole Française de l’Orient extrême (BEFE),  XXIX, Hanoi.

12.  Dumont, R. 1995.  La culture du riz dans le delta du Tonkin. Printimg House au Bangkok, Thailand. pp 592.

13.  FAO. 1994. Rice policy in Viet Nam. Prepared by the Intergovernmental Group on Rice, 37th Session, Bangkok, Thailand, 28/11 - 2/12/1994. pp 22.

14.  FAO. 2000-2002. FAOSTAT, Rome, Italy

15.  Glaszmann, J.C. 1987. Isozymes and classification of Asian rice varieties.  Theor. Appl. Genet. 74:21-30.

16.  Greenland, D.J. 1997. The sustainability of rice farming. IRRI and CAB International, pp 273.

17.  Huvio, T., 1999. Women’s role in rice farming. In Proceedings of the 19th Session of the Inter Rice Comm, 7-9 Sep 1998, Cairo, Egypt, FAO, Rome, p 143-149. 

18.  International Institute of Agriculture (Former FAO). 1939. International Yearbook of Agricultural statistics, Rome, Italy.

19.  Juliano. B.O. 1993. Rice in human nutrition.  FAO, Rome, pp 162.

20.  Juliano, B.O and P.A. Hicks. 1994. Utilization of rice functional properties to produce rice food products with modern processing technologies. In Proceedings of the 17th Session of the Inter Rice Comm, 4-9 Feb 1990, Goias, Brazil, FAO, Rome, p 163-178.

21.  Khush, G.S. 1997. Origin, dispersal, cultivation and variation of rice. Plant Mo. Biol. 35:25-34.

22.  King, R. 1977. Land reform - A worl dsurvey. G. Bell&Sons LTD, London, 446 pp.

23.  Lê Thành Khôi. 2014. Lịch sử Việt Nam: từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. NXB Thế giới, Hà Nội, 621 tr.

24.  Le Hong Nhu 1999. Rice production in Vietnam and the policies to promote its development. In: Proceedings of the 19th Session of the Inter. Rice Comm., Cairo, Egypt, 7-9 September 1998, FAO, Rome, Italy, p162-165.

25.  Linh Nam Chich Quai. 1960. NXB Khai Tri, Sai Gon, pp 134.

26.  Matsuo, T. 1997. Origin and distribution of cultivated rice.  Science of the Rice Plant, Vol. 3: Genetics, Food and Agriculture Policy Research Center, Tokyo. p 69-111.

27.  Nanda, J. 1999. Oryza sativa, L., FAO, Rome, 26 pp (manuscript).

28.  Nazar, N.M. 1958. Studies on the origin of cultivated rice Oryza sativa L. Assoc. I.A.R.I Thesis, Indian Agr. Res. Inst., New Delhi, pp 109.

29.  News Network Archaeography. 2011. Rice's origins point to China, genome researchers conclude.
Read more at
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2011/05/rices-origins-point-to-china-genome.html#U6WJE18kxKrGAlp6.99

30.  Ngo The Dan. 2002. Policy support for hybrid rice in Viet Nam. In Adoption of hybrid rice in Asia: Policy support, FAO, Rome, p 123-126.

31.  Nguyen Huu Nghia, Luu Ngoc Trinh and Le Vinh Thao, 2001a. Speciality rice in Vietnam: Breeding, production and marketing. Speciality Rices of the World: Breeding, Production and Marketing. FAO, Rome, pp 176-189.

32.  Nguyen Phan Quang & Vo Xuan Dan. 2.000. Lich su Viet nam tu nguon goc den nam 1884. NXB Thanh Pho Ho Chi Minh, pp 479.

33.  Nguyen Cuc, 1999. Sai Gon - 300 nam cu.  NXB Tieng Song Huong, Texas, USA, pp 417.

34.  Nguyen Sinh Cuc. 1995. Nong Nghiep Viet nam (1945-1995). NXB Thong ke Ha Noi, pp 64.

35.  Nguyen Van Luat. 1994. Progress obtained in research and programmes of rice production in Vietnam.  Paper presented at the 18th Session of the Inter. Rice Comm., 5-9 September 1994, Rome, Italy.

36.  Pham Van Son. 1960. Viet su toan thu.Tu Lam An Quan, Sai Gon, pp 738.

37.  Pingali, P.L. and Rosegrant, M.W. 1996. Confronting the environmental consequences of the green revolution. In Proceedings of the 18th Session of the Inter. Rice Comm, Rome, Italy, 5-7 Sep 1994, FAO, Rome, p 59-69.

38.  Pimbert, M. 1999. Sustaining the Multiple Functions of Agro-biodiversity. FAO background paper for the Conference on the Multi-functional Character of Agriculture and Land, The Netherlands, September 1999, pp. 29.

39.  Sahara, M. and T. Sato. 1984. Rice-based culture in the most ancient period of India.  Archeology J. 228:31-34.

40.  Service des affaires economiques, 1916. Bulletin économique de lIndochine No. 117, Jan-fev 1916, imprimerie d’ Extrem-orient, Hanoi-Haiphong.

41.  Sharma, S.D., Tripathy, S. and Biswal, J. 2000. Origin of O. sativa and its ecotypes. Rice Breeding and Genetics-Research Priorities and Challenges, ed. by J.S. Nanda, Science Publishers, Inc., USA, p 249-269.

42.  Tran Van Dat. 1999. Increasing the multifunctional nature of paddy rice farming for sustainable agriculture in Asia. In Proceedings of Second Group Meeting on Interchange of Agricultural Technology Information Between ASEAN Member Countries and Japan (AICAF), 16-18 February 1999, Jakarta, Indonesia, pp 17.

43.  Tran Van Dat. 2000. Issues and challenges in sustainable agricultural production with emphasis on rice in Viet Nam. Vietnamologica, Centre de Vietnamologica, Montreal, 4: 3-48. 

44.  Tran Van Dat. 2001. Nhung tien bo trong nganh san xuat lua gao o Viet Nam va su can thiet phai chuyen doi co cau trong thoi gian toi. Trong Cay Lua Viet Nam – The Ky 20, NXB NongNghiep, Ha Noi, P 29-84.

45.  Tran Van Dat. 2002. Tien trinh phat trien san xuat lua gao o Viet Nam – tu thoi nguyen thuy den hien dai, NXB NongNghiep, TP Ho Chi Minh, pp 315.

46.  Tran Van Dat. 2003. Reduce rice shortages to fight hunger. In RiceIndia, Journal of all India Rice Exporters’ Association, India, Vol 13:3: 5-8 p.

47.  Tran Van Huu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Economique de l’Indochine, Paris, pp 31.

48.  Văn Công Hùng. 2017. Tám mươi vạn năm trước, tổ tiên ta và sông Ba... Báo Mới 04/05/2017 (https://baomoi.com/tam-muoi-van-nam-truoc-to-tien-ta-va-song-ba/c/22181062.epi).

49.  Vien Khao Co Hoc. 1999. Khao co hoc Viet Nam, Tap II: Thoi Dai Kim Khi Viet Nam. NXB Khoa Hoc Xa Hoi, Ha Noi, pp 551.

50.  Vien Thanh Tuu Khoa Hoc Xa Hoi. 1981. Thanh Tuu Khao Co Hoc Viet Nam, Ha Noi, p 40-41.

51.  Watt, G. 1892. Rice. In “Dictionary of Economic Products of India”, Superintendent, Gov. Printing, Calcutta, Vol 5:498-653.

52.  Wensheng Wang, Ramil Mauleon, […]Hei Leung. 2018.https://d.adroll.com/cm/index/outhttps://d.adroll.com/cm/n/outGenomic variation in 3,010 diverse accessions of Asian cultivated rice. Nature, 557: 43-49.

53.  World Bank. 1998. Advancing rural development in Viet nam: A vision and strategy for action.  Report, the World Bank, Washington, DC. pp 70 (Manuscript).

PHỤ BẢN

 

Phụ bản 1:

 

Biến Đổi Khí Hậu,

Biển Tiến-Biển Lùi

& Sụt Lún ĐBSCL

Con người và các sinh vật khác gồm cả thảo mộc có mặt trên trái đất đã phải trải qua hàng triệu năm trong quá trình tiến hóa của vũ trụ và vạn vật. Cây lúa nguyên thủy cũng xuất hiện cách nay khoảng 130 triệu năm, từ một tổ tiên chung trên siêu lục địa nguyên thủy Gondwanalands[20], từ một loài cỏ dại có những bước tiến hóa lâu dài để trở thành cây lúa trồng hiện đại. Các thành tựu và hoạt động khảo cổ học ở Việt Nam trong hơn thế kỷ qua có thể giúp chúng ta tìm hiểu phần nào các giai đoạn tiến hóa của ngành nông nghiệp bản xứ.

            Ngành khảo cổ học nước ta bắt đầu phát triển thời Pháp thuộc từ thập niên 1870, với áp dụng các phương pháp tiến bộ, chủ yếu thám sát, điều tra, đào xới và áp dụng kỹ thuật phân tích khoa học. Ngành này bắt đầu qua công tác sưu tập các di vật ngoài trời ở Miền Nam, sau mở rộng đến Miền Bắc, Miền Trung và Tây Nguyên. Một Phái Bộ Khảo Cổ Đông Dương (Mission archéologique de l’Indochine) được Pháp thành lập tại Sài Gòn vào năm 1898, sau đó trở thành Trường Viễn Đông Bác Cổ và di dời ra Hà Nội năm 1901, với nhiệm vụ khám phá, bảo tồn các di sản khảo cổ và ngôn ngữ của các nước Việt, Miên và Lào; ngoài ra, Trường còn nghiên cứu nền văn minh Ấn Độ và Nhựt Bổn (EFEO, 2007). Công tác nghiên cứu khảo cổ trở nên lớn mạnh hơn khi thư viện và viện bảo tàng được thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn; từ đó công tác khảo cổ trải dài cả nước, nhưng nhiều công trình nghiên cứu lớn được tập trung vào nhiều di chỉ khảo cổ ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần so với các miền khác.    

Ngành khảo cổ học đã cung cấp rất nhiều thông tin quý báu cho khoa học nhân văn và lịch sử. Tại Việt Nam, ngành khảo cổ học tiền sử được quan tâm nhiều hơn khảo cổ học lịch sử, nhưng khuynh hướng này đã thay đổi từ thập niên 1990. Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, ngành khảo cổ học không chú trọng nhiều đến nông nghiệp để tìm hiểu nguồn gốc xuất hiện và tiến hóa của ngành này; do đó thông tin, dữ kiện, di vật thu lượm còn rất giới hạn để làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử của ngành, không kể đến các hủy hoại cố ý từ các cuộc xâm lăng thô bạo của Bắc phương. Tuy nhiên, một số báo cáo liên quan đến công cụ chế tác sản xuất, những di tích thực vật và động vật cổ hóa thạch, đặc biệt bào tử phấn hoa, xương thú, và đời sống cư dân của từng nền văn hóa đã giúp chúng ta có một số khái niệm khá rõ nét về sự tiến hóa của nền nông nghiệp cổ ở Việt Nam.

Trong phạm vi bài viết này, thông tin về thành tựu khảo cổ học liên quan đến ngành nông nghiệp cả nước được trình bày khái quát, với đặc biệt chú ý đến ba hiện tượng quan trọng ảnh hưởng ngành nông nghiệp lúa ở Việt Nam: tình trạng biến đổi khí hậu, các đợt biển tiến - biển lùi (hay biển thoái) và hiện tượng sụt lún đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). 

1.   TÌNH TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến đời sống và phân bố các loài đông vật và thực vật. Ngành khảo cổ học phải dựa vào bào tử, phấn hoa để hiểu biết các biến đổi khí hậu và các loại quần thể thực vật trong thời cổ xưa vì các thảo mộc được cấu tạo phần lớn bằng chất hữu cơ và nước nên dễ bị hủy hoại với thời gian nếu không bị hóa thạch sớm. Các bào tử, phấn hoa nhờ có lớp mộc hoặc lớp sexine[21] với chất hóa học chống chịu các phá hại từ môi trường bên ngoài, nên có thể tồn tại lâu năm trong các trầm tích. Cho nên, để tìm hiểu quần thể thực vật, các nhà khảo cổ phải thu thập và phân tích các bào tử phấn hoa trong các cuộc khai quật. Bào tử là tế bào sinh sản của ngành dương xỉ, còn phấn hoa là các tế bào sinh sản đực của loài thực vật hạt trần và kín. Mỗi nhóm mỗi loài bào tử phấn hoa có hình dạng, kích thước khác nhau, có thể phân tích, định loại qua kiến hiển vi để biết thảo mộc tìm thấy thuộc loài và họ nào tồn tại trong thời kỳ nào của địa điểm khảo cổ.

Ở Việt Nam, cuộc nghiên cứu bào tử phấn hoa được áp dụng khá phổ thông trong địa chất học, nhưng trong ngành khảo cổ học còn ở giai đoạn sơ khai và mức độ chính xác trong giám định mẫu còn thấp (Viện Khảo Cổ Học, 1998). 

1.1.   Khí hậu thời đại Đá Cũ

Các cuộc nghiên cứu phân tích bào tử phấn hoa tại các địa điểm thời đại Đá Cũ ở Hang Thẩm Khuyên (Lạng Sơn), Hang Con Moong (Thanh Hóa), các hang Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù (Thái Nguyên) đã được ghi nhận trong Bảng 1, và đã có những quan sát đáng lưu ý như sau (Nguyễn Đức Tùng và Hoàng Văn Dư, 1976 và Nguyễn Đức Tùng và Phạm Văn Hải, 1979):

-   Các bào tử ngày càng tăng dần về số lượng và đa dạng.

-   Các phấn hoa của thực vật ôn đới ngày càng giảm dần (các giống thuộc họ Betulaceae, Pinaceae và Accraceae…).

-   Sự biến đổi các dạng bào tử phấn hoa khá đều đặn, không hoặc hiếm thấy những biến đổi đột ngột.

-   Nhìn chung, toàn bộ các phức hệ đều được đặc trưng bởi những dạng phấn hoa và bào tử của thực vật cận nhiệt đới”.

Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra kết luận:

-   Khí hậu của vùng đồng bằng Bắc Bộ từ đầu Đệ Tứ tới nay đã biến đổi từ nóng hơi khô đến nóng ẩm.

-   Không có một phổ phấn nào phản ánh một thời gian băng giá (cho dù ngắn nhất). Do vậy không thể có băng hà trong kỷ Đệ Tứ ở đồng bằng Bắc Bộ.

-   Sự biến đổi không đột ngột trong phức hệ bào tử phấn hoa cho ta thấy khó có thể chấp nhận những đột biến về địa chất, địa lý với khí hậu kèm theo. Bởi vậy, biển tiến đột biến trong kỷ Đệ Tứ như có người phát biểu khó có thể chấp nhận.

            Tuy nhiên, có thể có một thời kỳ lạnh khắc nghiệt đến nước ta và Đông Nam Á vào thời kỳ cuối Cánh Tân, vì tìm thấy lớp dăm đá vôi Cryoclastic (cấu tử đá vôi do nhiệt độ lạnh hình thành) trong mái đá Ngườm ở Thái Nguyên và các phấn hoa của các loài thảo mộc ưa lạnh như Carya (Juglandae), Carpinus (Betalaceae) ở lớp dưới cùng mái đá này (Hà Văn Tấn, 1984). Thời kỳ này còn có Tiểu hạn (Younger Dryas) khô lạnh xảy ra cách nay từ 13.000 đến 11.500 năm hoặc hậu kỳ văn hóa Sơn Vi (20.000-11.000 năm).

Giai đoạn lạnh này cũng được tìm thấy hang Niah trên đảo Kalimantan, Indonesia có hàm lượng mangan và phosphore thấp. Đợt khô lạnh có thể xảy ra trong 23.000 năm trước với bằng chứng là sự thành lập lớp thạch nhũ trong hang Tabon trên đảo Palawan, Philippines. Thời kỳ lạnh này có thể là nguyên nhân tiêu diệt các giống voi cổ (Stegodon, Palaeoloxodon Archidiskodon) và một số các động vật khác trước thời kỳ kết thúc của Cánh Tân khá lâu. Việt Nam nằm sâu vào lục địa nên khí hậu lạnh có thể khắc nghiệt hơn các nước khác và đảo ngoài biển Thái Bình Dương. Việc nghiên cứu khí hậu thời đồ đá cũ cần được bổ túc thêm với các thông tin mới và sự hợp tác với các nhà nghiên cứu khí hậu cổ của toàn cầu và nhứt là các nước trong vùng Đông Nam Á để có sức thuyết phục hơn (Viện Khảo Cổ Học, 1998).

Tóm lại, kết quả nghiên cứu về bào tử phấn hoa trầm tích thời kỳ Cánh Tân và Toàn Tân của đồng bằng Miền Bắc cho biết có sự thay đổi nhiệt độ từ nóng khô đến nóng ẩm xảy ra từ đầu kỷ Thứ 4 đến nay, không có trầm tích phấn hoa nào tiêu biểu cho một thời kỳ băng giá và không có sự biến đổi khí hậu đột ngột ở nước ta. Ngoài ra, rừng và cây cối vùng nhiệt đới ẩm phát triển nhiều hơn với thời gian, khi các bào tử của các loại cây này ngày càng tăng dần về số lượng và đa dạng trong các địa tầng văn hóa khảo cổ học. Do đó, thảm thực vật và nền nông nghiệp của Miền Bắc thay đổi với thời gian lâu dài, từ những loại thảo mộc thích hợp với khí hậu nóng khô đến các loài cây ưa nhiệt độ nóng ẩm, tùy thuộc ảnh hưởng gián tiếp của thời kỳ băng giá hay băng tan xảy ra trên thế giới.

Bảng 1: Các phức hệ bào tử phấn hoa trong thời đại Đá Cũ Việt Nam 

Dạng  

Nơi lấy mẫu

 

Thực vật

          Bào Tử

 

1

2

3

4

5

6

7

 

Lycopodiun sp.

Selaginella sp.

Osmunda sp.

Lygodium sp.

Ameimia sp.

Gleichenia sp.

Hymenophyllum sp.

Dicksonia sp.

Pteris sp.

Microlopia sp.

Cyathea sp.

Polypodiaceae gen. indet.

Polypodium sp.

Cystopteria sp.

Acroatichum sp.

Adiatum sp.

Angiopteris sp.

Ceratopteris sp.

Salvinia sp.

Phấn cây thân gỗ

Cycas sp.

Gingko sp.

Podocarpus sp.

Tsuga sp.

Taxodium sp.

Pinus sp.

Magnoliaceae gen. indet.

Liquidambar sp.

Hamamelis sp.

Moraceaegen.

indet.

Morus sp.

Fagaceaegen.

indet.

Fagus sp.

Quercus sp.

Castanea sp.

Castanopsis sp.

Lithocarpus sp.

Butalaceae gen. indet.

Alnus sp.

Myrica sp.

Juglandaceae gen. indet.

Julans sp.

Carya sp.

Engelhardtia sp.

Platycarys sp.

Pterocarya sp.

Sterculiaceae gen. indet.

Salix sp.

Ericaceae gen.

indet.

Euphorbiaceae gen. indet.

Symplocos sp.

Leguminoceae gen. indet.

Lotus sp.

Rosaceae gen.

indet.

Myrtis sp.

Anacardiaceae gen. indet.

Rhus sp.

Sapidaceae gen. indet.

Cornus sp.

Araliaceae gen. indet.

Aralia sp.

Ilex sp.

Rhammaceae gen. indet.

Oleaceaegen.

Indet.

Meliaceae gen. indet.

Melia sp.

Rubiaceae gen.

indet

Rutaceae gen.

indet.

Palmae gen. indet.

Sabal sp.

Phoenix sp.

Phấn cây thân thảo

Nymphaceae gen. indet

Chenopodiaceae gen. indet.

Labiatae gen.

indet.

Compositae gen. indet.

Poaceae gen. indet.

Liliaceae gen.

indet.

Poaceae gen. sp.

 

 

+

+

+

+

+

+

-

+

-

+

+

+

 

+

+

-

+

+

-

-

 

+

+

+

+

+

+

+

 

+

-

+

 

+

+

 

-

+

+

+

+

+

 

+

+

+

 

+

+

_

+

-

-

 

+

+

 

+

 

+

+

 

+

+

 

+

-

 

+

-

 

-

+

 

+

+

-

 

-

 

+

 

+

+

 

+

 

+

+

+

 

 

 

 

-

 

-

 

+

 

+

+

 

 

 

+

+

+

+

+

+

-

+

+

+

+

+

 

+

+

-

+

+

+

-

 

+

+

+

+

+

+

+

 

-

-

+

 

+

+

 

-

+

+

+

+

+

 

+

+

+

 

+

+

_

+

-

-

 

-

+

 

+

 

+

+

 

+

+

 

+

-

 

+

-

 

-

-

 

-

+

-

 

-

 

+

 

+

+

 

+

 

+

+

+

 

 

-

 

+

 

-

 

-

 

+

+

 

 

 

+

 

+

+

+

+

-

+

+

+

+

+

 

+

+

 

+

+

+

 

 

+

+

 

 

+

+

+

 

+

-

+

 

+

+

 

-

+

+

+

+

+

 

 

-

+

 

+

+

_

+

-

 

 

+

 

 

+

 

 

+

 

+

+

 

+

 

 

+

-

 

 

-

 

+

-

 

 

 

 

+

 

+

+

 

+

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

-

 

+

 

-

-

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

+

 

+

+

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

+

 

 

 

 

+

 

 

 

 

+

+

 

 

 

+

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

+

 

 

 

+

 

 

 

+

 

 

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

+

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

+

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

+

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn: Viện Khảo Cổ Học, 1998

 

Chú thích:   Dấu (+) có mặt, dấu (-) hiếm

1.      Phức hệ I đồng bằng Bắc Bộ (Q2)

2.      Phức hệ II đồng bằng Bắc Bộ (Q3)

3.      Thềm bậc II Lâm Thao, Tam Nông (Q3)

4.      Hang Thẩm Khuyên (Lạng Sơn)

5.      Mái đá Ngườm (Thái Nguyên)

6.      Hang Con Moong (Thanh Hóa)

7.      Mái đá Hạ Sơn (Thái Nguyên)

 

1.2.   Hiện tượng hâm nóng toàn cầu

Khí hậu của quả địa cầu rất năng động và luôn thay đổi, từ lạnh qua ấm rồi lạnh, ấm… Hiện tượng hâm nóng toàn cầu đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử nhân loại. Cũng cần nhắc lại rằng trong lịch sử thế giới đã có 4 thời kỳ băng hà, mà mỗi thời kỳ kéo dài độ 100 000 năm và giữa hai thời kỳ băng hà là thời kỳ hâm nóng kéo dài khoảng 15 000-20 000 năm. Thời kỳ băng hà cuối vừa chấm dứt cách nay 18000 năm (Monte Hieb and Harrison Hieb, 2006). Vậy thời kỳ hâm nóng gần đây nhứt đã bắt đầu cách nay 18000 năm lúc băng hà tan do ảnh hưởng tác động thiên nhiên.

Tuy nhiên, trong hai thế kỷ qua với sự bành trướng của ngành công nghiệp, nạn đốt cháy rừng, sự nuôi trồng, con người đã sản xuất và phóng thích nhiều thán khí (CO2) và các chất khí thải nhà kính khác như methane (CH4), nitric oxide (N2O), ammonium (NH4)… vào bầu khí quyển; gây ra hiện tượng hâm nóng toàn cầu tăng dần nhanh hơn và cường độ lớn hơn. Nhiệt độ toàn cầu đã tăng lên 0,75oC trong thời gian từ 1860 đến 1990. Kể từ 1979, nhiệt độ trong bầu không khí đã tăng gấp đôi khoảng 0,12 - 0,22oC trong mỗi thập niên.

Chất CO2 và methane đã tăng 31% và 149%, theo thứ tự đối với thời kỳ tiền kỹ nghệ từ 1750, cao hơn bất cứ thời gian nào trong 650.000 năm cuối cùng (Vikipedia, 2007). Hiện nay nồng độ CO2 trong không khí là 380 ppm và Cơ Quan IPCC tiên đoán CO2 sẽ có thể tăng đến giữa 541 và 970 ppm trong năm 2100. Nhiệt độ sẽ tăng lên 1,5oC trong vòng 50 năm tới và 3oC trong thế kỷ XXI; gây ra ảnh hưởng nhà kính trầm trọng hơn, nếu thế giới không có các biện pháp ngăn chận hữu hiệu.

Một cách tổng quát, nhiệt độ tăng cao (1,5 - 2,5oC) sẽ ảnh hưởng đến nền nông nghiệp toàn cầu về cả mặt tích cực và tiêu cực; nhưng ngành này sẽ bành trướng thuận lơi hơn về hướng bắc của bắc bán cầu (IPCC, 2007):

- Vùng ôn đới: năng suất sẽ tăng nhẹ, vụ Xuân bắt đầu sớm hơn, ít bị ảnh hưởng rét lạnh nặng, nhưng vấn đề bảo vệ mùa màng khó khăn hơn hiện nay vì nhiều sâu bệnh, cỏ dại xuất hiện.

- Vùng nhiệt đới: Khí hậu nóng và khô hơn, làm giảm thời gian trồng trọt, làm giảm năng suất hoa màu. Khí hậu bất thường.

- Tăng gia chu kỳ hạn hán và lũ lụt, làm hại mùa màng.

- Mực nước biển lên cao làm mất đi các vùng đầm lầy ven biển, các rừng ngập mặn và làm ngập lụt các vùng thấp gần biển và sông ngòi.

Việt Nam đang nghiên cứu mô hình (modeling) về ảnh hưởng của hiện tượng hâm nóng toàn cầu đối với nông nghiệp trong 50 hay 100 năm sắp tới, trong các điều kiện địa phương. Dựa vào mô hình tiên đoán của IPCC nêu trên, Miền Bắc có thể ít bị ảnh hưởng của khí hậu cận nhiệt đới và dần trở thành vùng có nhiều tính chất nhiệt đới hơn hiện nay; trong khi Miền Nam sẽ nóng khô hơn và năng suất hoa màu bị sút giảm, vùng ven biển đất thấp bị ngập lụt nhiều hơn, nước biển xâm nhập lục địa sớm hơn, nếu không có các công trình nghiên cứu và chương trình hành động thích nghi với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay.

Về mặt quốc tế, năm 2015, tại Hội nghị Paris về Biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc trong khuôn khổ Công ước khung LHQ về biến đổi khí hậu (UNFCCC) tìm các giải pháp giảm khí thải CO2  từ 2020, gần 200 quốc gia cam kết giữ nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 2 độ C, nhắm đến mục tiêu giới hạn tăng 1,5 độ C. Hiệp định này có hiệu lực từ 4-11-2016 cho phép các quốc gia đưa ra cam kết hành động dựa trên khả năng mỗi nước và đặt mục tiêu cho các quốc gia phát triển phải huy động 100 tỷ USD từ 2020 đến 2025 để giúp những nước đang phát triển đối phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế thân thiện với môi trường. Quá trình thực hiện Hiệp Định Paris sẽđược đánh giá 5 năm một lần.

 

2.   CÁC ĐỢT BIỂN TIẾN VÀ BIỂN LÙI

Từ thời đại đá cũ đến thời đại đá mới đã có nhiều thời kỳ biển tiến và biển lùi xảy ra; ảnh hưởng trực tiếp về mặt vật chất và sinh học của các loài thực vật và động vật trên trái đất. Để tìm hiểu các đợt biển tiến và biển lùi, các nhà khảo cổ phải chú ý các vấn đề sau đây (Viện Khảo Cổ Học, 1998):

(i)                 “Tìm hiểu cổ sinh vật trong các địa tầng như Forraminifera (trùng lỗ), Radiolaria (trùng phóng xạ), Ostracoda (trùng hạt đậu), Echinodermata (nhiếm biển).

(ii)               Quan sát các dấu vết đường biển gồm những đê cát, ngấn nước biển để lại trên vách đá, đất liền…

(iii)             Nghiên cứu các trầm tích biển có tính chất đặc biệt như độ tròn, độ nhẵn bóng, cấu tạo lớp…

(iv)             Phân tích thành phần hóa học của đất: nồng độ muối, tỉ lệ các yếu tố Cl, Br, Ca, K, Mg… hoặc sự có mặt của các khoáng chất Glauconic, Phosphoric.”

Hiện tượng mực nước biển tăng lên toàn cầu gọi là biển tiến Flandrian do nhiều nước mưa trở về biển cả (băng tan ở hai cực) và biển xuống hay biển lùi do ít nước mưa hơn trở về biển (băng giá gia tăng). Vào kỷ Thứ 3, có hiện tượng đóng băng và mực nước biển xuống thấp 80 m do nước bốc hơi từ biển để đóng thành băng ở hai cực (Andrews, 1994 và Blanchon, 1995). Các nhà khảo cổ tin tưởng rằng trong suốt kỷ Thứ 4 (gần 2,6 triệu năm cho đến nay), đã có nhiều lần biển tiến và lùi, do khí hậu của toàn cầu thay đổi nhiều lần theo các chu kỳ nóng ẩm và khô lạnh. Khi khí hậu nóng băng cực tan rả, mực nước biển dâng lên cao; khi khí hậu toàn cầu trở nên lạnh, hai cực đóng băng và mực nước biển rút xuống. Vào thời hiện đại, ngoài sự nóng ẩm thiên nhiên, còn có sức nóng do con người tạo ra, còn gọi là sức hâm nóng toàn cầu có thể làm cho nước biển tiến nhanh hơn trước kia, ảnh hưởng trực tiếp đến các vùng đất ven biển thấp và các đảo ngoài khơi.

Ở Việt Nam, các cuộc nghiên cứu từ đầu thế kỷ XX đến nay cho biết trong kỷ Thứ 4 nói chung có 3 thời kỳ biển chính xảy ra: Lần 1: nửa đầu thời kỳ Cánh Tân giữa (khoảng 800 000 năm) với quy mô hạn chế. Lần 2 vào nửa sau Cánh Tân muộn (khoảng 100 000 năm) với quy mô lớn nhứt và lần 3 vào thời kỳ Toàn Tân giữa (khoảng 5 000-4 000 năm). Về mặt hình thái, đồng bằng chỉ được xuất hiện vào cuối Cánh Tân muộn (Đặng Công Nga và Trần Đức Thạnh, 1985). Nhưng trong mỗi thời kỳ nói trên mực nước biển không luôn cố định, mà thay đổi lên xuống, và mức thấp nhứt không quá khỏi phạm vi đất liền hiện tại (Bảng 2).

Hình 1: Thềm Sunda 21 000 năm trước ngày nay, mực biển là -116 m so với mực biển hiện tại (trong Hà Quang Hải, 2017)

Những nghiên cứu gần đây về các trầm tích thuộc thời đại Cánh Tân giữa thu thập được từ các lỗ khoan ở đồng bằng sông Hồng và Cửu Long cho thấy có sự hiện diện của các hóa thạch thuộc nhóm trùng lỗ (Foraminifera). Trong tập hợp hóa thạch này có 1-5% thuộc dạng có đời sống trôi nổi, số còn lại thuộc dạng có đời sống tĩnh và ở mực nước sâu độ 30-40 m; điều này cho biết rằng trong thời kỳ Cánh Tân giữa (khoảng 700 000 năm), đồng bằng sông Hồng và Cửu Long bị chìm sâu dưới nước biển. Tiếp theo đó là đợt biển lùi đã tạo ra hai đồng bằng này và nối liền với các đảo Thái Bình Dương và các nước Indonesia, Philippines và Malaysia (Hình 1). Đợt biển tiến cuối cùng xảy ra trong thời Toàn Tân giữa.

Ở Việt Nam không có băng hà, nhưng chịu ảnh hưởng của các đợt biển tiến do các đợt băng tan từ 2 cực địa cầu. Ý kiến về biển tiến và biển lùi chưa được thống nhứt về thời gian. Theo cuộc nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam, cách nay độ 18 000 năm, mực nước biển ở độ sâu -100 m (so với hiện nay), còn cách xa tâm điểm của đảo Cát Bà lúc đó 50 km. Khoảng 7 000-7 500 năm trước, đạt tới độ sâu -50 -60 m so với hiện nay. Đến độ 6 000-6 500 năm, mực nước mới dâng cao, nhưng còn thấp hơn hiện nay -25 -30 m. Cửa sông Hồng lùi ra tới đảo Bạch Long. Khoảng 4 000-4 500 năm, mực nước đạt cực đại, cao hơn hiện nay độ +5 m. Toàn bộ đồng bằng ven biển bị ngập nước. Đến 2 500-3 000 năm trước, biển rút tới độ cao +2 m rồi dừng lại mức đó một thời gian (Bảng 2).

Sau đó biển lùi tiếp tục cho đến nay, mặc dù có độ biến thiên lên xuống khoảng 30 cm thường xảy ra và các hiện tượng biển tiến và lùi xảy ra nhanh hơn. Do đó, ở vịnh Hạ Long nay còn thấy những đảo đá vôi ở giữa biển, nhưng trước kia là những dãy núi của lục địa nối dài ra ngoài khơi (Lưu Tỳ và cộng sự, 1985). Biển tiến Flandrian đã để lại đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) một hệ tầng trầm tích biển dày 15 - 20 m, các bậc thềm ven rìa vùng Tri Tôn - Tịnh Biên, các giồng cát biển ở Cai Lậy và các đường khuyết mòn cao 5,0 m trên vách núi đá vôi Kiên Lương (Hà Quang Hải, 2017).

Trong thế kỷ XX vừa qua, mực nước biển tăng lên 25 cm và dự đoán tiếp tục gia tăng từ 9 đến 88 cm hay 0,8 đến 8,0 cm mỗi thập niên trong năm 2.100, do hiệu ứng nhà kính và hâm nóng toàn cầu (Barker et al., 2006). Theo CSIRO (2001), Tổ Chức Nghiên Cứu Công Nghiệp và Khoa Học, Khối Thịnh Vượng Chung ở Úc, vào năm 2030, mực nước biển Thái Bình Dương sẽ dâng lên thêm 16 cm và năm 2070 thêm đến 50 cm, nhiều đảo và các vùng đồng bằng ven biển, ven sông lớn ở châu Á có thể bị chìm trong nước. Hiện nay, chỉ dấu băng tan đã được báo động bởi nhiều nhà quan sát quốc tế.

Bảng 2: Các đợt biển tiến và lùi từ cuối thời kỳ Cánh Tân đến nay

 

 

Niên đại địa chất

 

 

Biển tiến

(đường bờ ở độ sâu)

 

Biển lùi

(đường bờ ở độ sâu)

 

Hậu kỳ Đá Cũ

(18 000-12 000năm BP)

(Đóng băng cực đại)

 

- 130 m đến -120 m

Sơ kỳ Đá Mới

(10 000-7 000 năm BP)

 

- 60 m đến -50 m

Trung kỳ Đá Mới

(6 500-6 000 năm BP)

 

- 30 m đến -20 m

Thời đại Kim Khí

(5 000 năm BP)

 

0  (mực nước hiện nay)

 

(4 500-4 000 năm BP)

 

+5 m đến +3 m

 

 

(3 000-2 500 năm BP)

 

+2 m

 

Hiện nay

 

0  (mực nước hiện nay)

 

 

Trong cuộc Hội Thảo bàn tròn tại Hà Nội ngày 2-5-2007, Ông Mark Lowcock, Bộ Phát Triển Quốc Tế Anh Quốc đã cảnh báo Việt Nam có thể bị nguy cơ ảnh hưởng lớn do nhiệt độ toàn cầu tăng kéo theo tăng mực nước biển. Theo dự đoán của các chuyên gia, vào năm 2010 nhiệt độ ở Việt Nam sẽ gia tăng từ 0,3 - 0,5oC và mực nước biển sẽ tăng thêm 9 cm, năm 2050 mực nước biển tăng 33 cm, năm 2070 tăng 45 cm. Mực nước biển tăng thêm sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực: mất đất, nhiễm mặn, hạn hán, bão lụt, dịch bệnh…

Cũng theo nghiên cứu mô hình nêu trên, nếu mực nước biển tăng lên 1 m có thể làm mất 12,2% diện tích đất nơi 23% dân số sinh sống, tương đương với 17 triệu người. Nghĩa là vào năm 2070, độ 8 triệu người Việt Nam có thể bị mất nơi sinh sống. Bão lũ thường xuyên và nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng đến nền nông nghiệp. Trên bờ biển dài 3 000 km, các vùng duyên hải Bắc phần và duyên hải ĐBSCL, nhứt là Cà Mau sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, vì nhiều vùng đất của Cà Mau chỉ cao 0,5m trên mực nước biển. Đồng bằng này chỉ cao bình quân từ 0 - 4 m trên mực nước biển. Ở Hòn Dâu, Miền Bắc, mực nước biển dâng cao độ 0,19 cm mỗi năm trong thời gian từ 1955 đến 1990 (Trần Đăng Hồng, 2006).

Cho nên, Việt Nam cần phải có những biện pháp theo dõi mực nước biển, chuẩn bị các biện pháp cần thiết để bảo vệ đất đai và cư dân liên hệ, xây dựng hệ thống nông nghiệp thích ứng với hiệu năng cao, và ngăn ngừa các chất thải vào bầu không khí. Kinh nghiệm lịch sử về hiện tượng suy thoái và cuối cùng bị tiêu diệt của nền văn hóa Óc Eo nước Phù Nam vào thế kỷ VII sau CN cho thấy tầm ảnh hưởng to lớn của mực nước biển dâng cao đối với sự tồn tại của các đồng bằng trũng thấp gần biển.

Rất tiếc chưa có cuộc nghiên cứu sâu rộng về thời kỳ các đợt biển tiến và lùi ở đồng bằng sông Cửu Long để hiểu rõ hơn sự phân bố, cấu tạo xã hội và đời sống của các cư dân vùng này. Một số hòn đảo và hang động ở Hà Tiên đã ghi dấu tích rõ nét của các đợt biển tiến và lùi trong hàng ngàn năm qua. Có hang động trên vách đá còn những mảnh vỏ sò hến cách mặt nước độ 2 m. Từ xa trông vào, một số đảo có dấu ấn đậm nét các đợt biển tiến và lùi, với các vết hằn sâu vào đá do sóng biển tác động liên tục qua nhiều thế kỷ. Cũng vậy, các đường bờ biển cổ của Miền Trung khắc sâu chân núi còn tồn tại đến ngày nay ở các độ cao khác nhau 40 m, 25 m, 15-10 m và 5-2 m. Dấu tích này là do dao động của mực nước biển, gây ra bởi các thời kỳ đóng băng và tan băng của thời đại đá cũ hay Cánh Tân (Thái Công Tụng, 2005).

Qua cuộc biển tiến cuối cùng, ngành nông nghiệp cổ, nhứt là nghề trồng lúa ở Việt Nam bị chi phối rất nhiều với mực nước hiện hữu trong mỗi thời kỳ. Có thể nói nền nông nghiệp sơ cổ bắt đầu từ trên vùng đất cao, ven đồi núi với hình thức nương rẫy, tiến dần xuống đồng bằng, thung lũng, đất thấp, ven biển, sông rạch mỗi khi mực nước biển thụt lùi. Do đó, có ngành trồng lúa khô (rẫy) xuất hiện trước khi có ngành trồng lúa nước phát triển ở Việt Nam vào thời đại Hùng Vương-An Dương Vương và sau này.

3.   Hiện tượng sụt lún ĐBSCL

Philip Minderhoud (2019), nhà nghiên cứu tại Đại học Utrecht ở Hà Lan đã tạo ra một mô hình số để theo dõi tác động của việc khai thác nước ngầm ở ĐBSCL trong 25 năm qua, cho biết việc khai thác quá mức đang khiến đất sụt lún trong khi mực nước biển đang dâng lên 3-4mm mỗi năm và dự đoán toàn bộ đồng bằng này sẽ bị nhấn chìm năm 2100. Với mức độ sử dụng nước ngầm liên tục hiện nay, đồng bằng bị sụt lún trung bình 1cm mỗi năm, do 2,5 triệu lít nước ngầm của đồng bằng đang bị rút khỏi tầng đất mỗi ngày. Ngoài ra, trọng lượng của những cấu trúc nhân tạo xây trên đồng bằng, dòng chảy trầm tích từ thượng nguồn suy giảm và độ nén tự nhiên cũng là những yếu tố góp phần làm mất đất đồng bằng. Do đó, để đối phó với thách thức to lớn nêu trên cần phải có những biện pháp thích ứng để thay đổi sự khai thác nước ngầm vô trách nhiệm hiện nay.

 

Tóm lại, căn cứ vào sự thay đổi thành phần động vật, thực vật, bào tử, phấn hoa, di vật loại hình công cụ đá, các di tích cổ sinh hóa thạch, các nhà khảo cổ học cho biết khung niên đại thời Đá Cũ ở Việt Nam có thể kéo dài từ 800 000 đến 10 000 năm cách ngày nay. Người Vượn có thể sống trên địa bàn Việt Nam cách nay hơn vài trăm ngàn năm. Qua thời gian lâu dài này, có nhiều cuộc biển tiến và lùi xảy ra trên thế giới. Hiện tượng này ảnh hưởng trực tiếp đến nơi cư trú và cuộc sống của cư dân thời kỳ Toàn Tân. Nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện vào cuối nền văn hóa Hòa Bình cách nay độ 10 000-8 000 năm. Các bộ lạc trồng lúa có mặt không những ở Việt Nam mà nhiều nước Đông Nam Á, ở ven đồi núi, gò cao khoảng 7 000-6 000 năm trước. Từ đầu thế kỷ XX, thời đại công nghiệp thế giới phát triển quá nhanh, gây ô nhiễm môi trường, làm tăng sức hâm nóng toàn cầu nhiều hơn so với thế kỷ XIX. Các băng hà ở hai cực địa cầu tiếp tục tan rả, làm mực nước biển dâng cao, có thể tạo ảnh hưởng tiêu cực đến các vùng sinh thái ven biển, vùng đất thấp cận biển và sông ngòi. Ngoài ra, sự khai thác nước ngầm quá đáng hiện nay có thể làm ĐBSCL sụt lún và chìm mất năm 2100.

Hy vọng trong tương lai, các cuộc khảo cổ sẽ chú ý nhiều hơn đến sự tiến hóa lịch sử của ngành nông nghiệp cùng với phát triển sinh hoạt của các chủ nhân và phúc lợi xã hội, qua các thay đổi của môi trường và khí hậu chi phối quá trình tồn tại và tiến bộ của họ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Andrews, J.T. 1994. Late quaternary meltwater and Heinrich events, Mortheast Labrador sea. Quaternary Research, Vol. 41, No. 1, January 1994, p.26-34.

2.      Barker, J.D., C.L. Littnan and D.W. Johnston. 2006. Potential effects of sea level on the terrestrial habitats of endangered and endemic megafauna in the Northwestern Hawaiian Islands. ESR, 4:1-10, 2006 (www.int-res.com).

3.      Blanchon, P. 1995. Reef drowning during the last deglaciation: evidence for catastrophic sea-level rise and ice sheet collapse. Geology, Vol. 23, No.1, January, 1995, p 4-8.

4.      Boyle, D. 2019. Nghiên cứu: Đến năm 2100 đồng bằng sông Cửu Long có thể chìm dưới nước.

(https://www.voatiengviet.com/a/nghien-cuu-den-nam-2100-dong-bang-song-cuu-long-co-the-chim-duoi-nuoc/4790006.html).

5.      Ciochon, R.L. 1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No. 2.

6.      CSIRO. 2001. Living with climate change: An overview of potential climate change impacts on Australia. CSIRO Climate Change Projections for Australia 2001

7.      EFEO, 2007. École Française d'Extrême-Orient- History, Paris.

8.      Hà Văn Tấn. 1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam Á. NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1984: 18-20.

9.      Hieb, M. and Hieb, H. 2006. Global Warming: A chilling perspective.

10.  IPCC (Intergovernmental Panel on Climate Change). 2007. Climate change 2007: Climate change impacts, adaptation and vulnerability. Summary for Policymakers, 6-4-2007, IPCC WGII Fourth Assessment Report, pp 23.

11.  Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiếp, Nguyễn Tú Dân và Ngô Thị Hồng. 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng kế cận. Khảo Cổ Học, sp 61 2-1985.

12.  Nguyễn Đức Tùng và Hoàng Văn Dư. 1976. Bào tử phấn hoa ở Nạm Tun và Thẩm Khương. Khảo Cổ Học, số 17-1976.

13.  Nguyễn Đức Tùng và Phạm Văn Hải. 1979. Những phức hệ bào tử phấn hoa trong trầm tích Đệ Tứ ở đồng bằng Bắc Bộ. Khảo Cổ Học, số 4-1979.

14.  Rodriguez, I., S. 2007. Correlations between the structure and function of pollen grains of four species of Angiosperms.

15.  Hà Quang Hải. 2017.Biển tiến Flandrian và dấu ấn để lại vùng đồng bằng Sông Cửu Long

(https://diamoitruong.com/2017/04/10/bien-tien-flandrian-va-dau-an-de-lai-vung-dong-bang-song-cuu-long/).

16.  Thái Công Tụng. 2005. Việt Nam: môi trường và con người. Vietnamologica,  Trung Tâm Việt Nam Học, Montréal, Canada, 299 tr.

17.  Trần Đăng Hồng. 2006. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên nông nghiệp Việt Nam: Phần 1. Hiện trạng và dự đoán tương lai. Nội San Hội Nông Nghiệp Việt Nam, Số 2/2006, Costa Mesa, California, tr. 66-77.

18.  Viện Khảo Cổ Học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam,Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.

19.  Wikipedia. 2007. Acheuléen.

20.  Wikipedia. 2007. Global Warming.

Phụ Bản 2:

   Thử tìm hiểu:

Cuộc Cách Mạng Xanh

Tại Việt Nam 

Cuộc Cách Mạng Xanh (CMX) sau cùng đã xảy ra trên thế giới từ thập niên 1970 đến giữa thập niên 1990, giúp nhân loại tăng gia lương thực đáng kể; nhưng không thể tránh cuộc khủng hoảng lương thực thế giới 2008. Thế giới hiện đang bước vào thời đại toàn cầu hóa và khu vực hóa, mọi lãnh vực đều chịu ảnh hưởng tương tác và các quốc gia trên thế giới phải chịu sức ép liên đới ít nhiều khi một biến cố bất ngờ xảy ra. Cuộc khủng hoảng tín dụng, tài chánh, năng lượng, lạm phát và các yếu tố liên hệ đã gây nên cuộc suy thoái kinh tế thế giới trầm trọng từ tháng 11-2007 đến 2011 và khủng hoảng lương thực vừa qua; làm tăng số người nghèo đói từ 850 triệu lên hơn một tỉ người, do tăng giá lương thực, năng lượng và phân hóa học.

Cuộc CMX đã chấm dứt trên thế giới cách nay gần ba thập niên, nhưng còn tiếp tục tại Việt Nam đến đầu thập niên 2010 vì ảnh hưởng chính trị và kinh tế, và đang còn xảy ra tại một số nước chậm tiến khác như Myanmar, Bangladesh, Cambodia, Lào… Nhưng CMX vẫn chưa thực hiện được ở các nước miền nam Sa Mạc Sahara vì thiếu hệ thống dẫn thoát thủy và chính sách lúa gạo thích hợp. Cuộc CMX chỉ xảy ra tại một quốc gia khi nước này hội đủ tối thiểu 4 yếu tố chính: (i) chính sách lúa gạo quốc gia hữu hiệu, (ii) phát triển thủy lợi, (iii) cung cấp đầy đủ hạt giống lúa cao năng, và (iv) đầy đủ phân hóa học trên thị trường. Nếu thiếu một trong 4 yếu tố này CMX không thể xảy ra. Chẳng hạn, xứ Madagascar ở Phi Châu có ngành canh tác lúa (1,2 triệu ha) tương tự như châu Á, đến nay vẫn chưa có cuộc CMX xuất hiện vì họ thiếu chính sách lúa gạo quốc gia thỏa đáng và thiếu phân hóa học để tăng sản xuất, mặc dù xứ này có hơn 40% diện tích trồng lúa tưới tiêu và nhiều giống lúa cao năng phóng thích, với sự trợ giúp kỹ thuật tích cực của dự án IRRI/USAID thuộc Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) ở Philippines trong thập niên 1980-90.

Cũng vậy, trong thập niên 1950, thế giới đã có một số giống cao năng lai tạo xuất hiện như  Taichung Native 1 của Đài Loan, Jaya của Ấn Độ, H4 và H5 của Sri Lanka… không kém gì lúa IR8 với năng suất trung bình 6-8 t/ha; nhưng châu Á chưa có cuộc CMX vì thiếu chính sách nhà nước để phổ biến các giống lúa năng cao này, hệ thống tưới tiêu còn yếu kém và phân hóa học còn thiếu thốn ở nông thôn.

Như vậy, cuộc CMX cuối cùng tại Việt Nam đã bắt đầu từ đâu và xảy ra lúc nào? 

1.   NHỮNG CUỘC CÁCH MẠNG XANH ĐÃ QUA

Cuộc CMX thế giới vừa qua không phải là CMX đầu tiên của nhân loại. Có thể nói rằng CMX đầu tiên đã xảy ra cách nay độ 8.000-10.000 năm trong nền Văn Hóa Hòa Bình (Colani, 1930; Viện Khảo Cổ Học, 1998 và 1999), lúc con người bắt đầu chuyển đổi nếp sống từ lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên đến chủ động cuộc sống bằng nghề nông nghiệp, đặc biệt sáng tạo các công cụ hoạt động bằng đá, và thuần hóa một số loài thảo mộc và thú rừng để làm thực phẩm. Do đó, người ta gọi đó là Cuộc Cách Mạng Đá Mới. Cuộc CMX thứ hai hay là cuộc Cách Mạng lúa khô (lúa rẫy) khi con người sáng tạo nghề lúa rẫy và các bộ lạc trồng lúa xuất hiện ở nhiều nước Đông Nam Á, gồm cả Việt Nam vào cuối thời đại đồ Đá Mới, cách nay độ 5000-6000 năm (Bùi Thiết, 2000). Nhờ biết khai thác trồng lúa rẫy, con người bắt đầu ít di chuyển để tìm thức ăn và có khuynh hướng định cư lâu dài hơn trước kia. Cuộc CMX thứ ba hay Cách Mạng Kim Khí xuất hiện khi nhân loại khám phá kim loại đồng thau sắt để chế tác các chiếc rìu, cuốc, cày bằng sắt cách nay khoảng 4.000-2.000 năm (Chang, 1985). Sự khám phá này rất quan trọng, giúp cho sản xuất nông nghiệp tăng nhanh hơn, hiệu năng cao hơn so với thời kỳ trước. Nhờ đó, ở Việt Nam, nền văn minh lúa nước xuất hiện vào thời đại Hùng Vương - An Dương Vương, khi người Việt cổ đã có khuynh hướng di cư từ vùng trung du, đồi núi xuống các thung lũng và đồng bằng sông Hồng, sông Cả và sông Mã thành lập làng xóm, với sự xuất hiện hàng loạt các loại trống đồng và các di vật khảo cổ khác trong nền văn hóa Đông Sơn (Trần Văn Đạt, 2002).

Vào đầu thế kỷ XX, Nhựt Bổn đã làm một cuộc CMX âm thầm, khi xứ này đưa năng suất lúa bình quân từ 1,85 t/ha vào 1878-1887 lên 3,10 t/ha trong 1903-07 (Greenland, 1997), trong khi lúa Việt Nam chỉ 1-1,2 t/ha. Sau khi thành công trong lai tạo giống cao năng mới và lùn thấp, Nhựt Bổn lại dẫn đầu một cuộc CMX khác trong cải tiến năng suất lên 4-5 t/ha vào thập niên 1930, làm tăng sản lượng lúa trong nước rất nhiều. Sau đó, một số nước phát triển thuộc vùng ôn đới, như Ý, Tây Ban Nha, Mỹ, v.v. cũng đạt tiến bộ lớn trong cải thiện năng suất lúa vào những năm 1950-60.

Ngoài Nhựt Bổn và Đài Loan, các nước ở châu Á khởi đầu lai tạo giống lúa mới vào thập niên 1910, chẳng hạn Việt Nam đã bắt đầu lai tạo giống lúa đầu tiên vào 1917, giữa giống lúa Tàu Hương và Carolina (lúa gốc Mỹ được trồng ở Nam Dương) (Carle, 1927), nhưng kết quả không như mong đợi.

Cuộc CMX cuối cùng xuất hiện phần lớn do sự khám phá sử dụng “gen lùn”giúp cho loài thảo mộc hấp thụ phân hóa học hữu hiệu và cây chống đổ ngã nên ít thất thoát. Loại gen lùn này được tìm thấy ở cây lúa mì Norin 10B ở Nhựt Bổn. Từ đó gen lùn lúa mì được khai thác triệt để trong chương trình lai tạo giống của Ông Orville Vogel tại trường Washington State University, Pullman, bang Washington, Mỹ. Vào năm 1953, nhóm chuyên gia lúa mì do Tiến Sĩ Norman Borlaug, đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1970, lãnh đạo Viện CIMMYT ở Mexico đã dùng gen lúa mì lùn của Vogel để tạo ra các giống lúa mì cao năng kháng đổ ngã.

Năm 1960, Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế (IRRI) được thành lập tại Los Banos, Philippines với sự bảo trợ của công ty Ford Foundation and Rockefeller Foundation của Mỹ, sử dụng gen lùn giống lúa Dee-geo-woo-gen, thấp, ngắn ngày của Đài Loan và giống lúa Peta, cao giàn của Indonesia để tạo giống lúa IR8 vào 1962 (Hình 1). Có rất nhiều dòng được tuyển chọn từ tổ hợp Dee-gee-woo-gen x Peta, nhưng dòng IR8-288-3 có triển vọng cao hơn hết được IRRI gởi thử nghiệm khá rộng rãi ở vùng khí hậu nhiệt đới và phụ cận năm 1965. Vào 1966, dòng IR8-288-3 được IRRI phóng thích, đặt tên IR8 và một số hạt giống được gởi đến nhiều xứ ở châu Á, như Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia, Malaysia, Phillipines, Sri Lanka, Việt Nam, v.v. để trồng thử nghiệm và phổ biến. Lúa IR8, cây nửa lùn, nhiều chồi, lá thẳng đứng, xanh đậm, chống đổ ngã, kháng một số sâu bệnh và phản ứng đạm cao đến 200 kgN/ha, có năng suất tiềm thế cao đến 11 t/ha trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, nhưng chất lượng hạt thấp (hạt thô, cơm nguội cứng) do hàm lượng amylose cao (28%). Hạt lúa IR8 có kích thước trung bình, hạt to, bạc bụng. Ngoài đồng, lúa IR8 cho năng suất cao gấp đôi, ba lần giống lúa địa phương, từ 4 đến 8 tấn/ha.

Đa số các nước nêu trên đã thành công phổ biến rộng rãi và đồng loạt lúa cao năng, cùng với phát triển lúa mì, tạo nên cuộc CMX lớn ở châu Á. Cuộc CMX này bùng phát và lan rộng thế giới, gồm cả châu Mỹ La-Tinh, ngoại trừ một số nước châu Á và miền nam sa mạc Sahara châu Phi (Gần đây xứ Mali đang khởi xướng cuộc CMX (lúa) đơn độc tại nước mình).

Tại châu Á, IR8 và những giống lúa cải thiện khác được gọi ban đầu là lúa cao năng, sau đó lúa hiện đại (modern rice) trồng đại trà ở nhiều nước gồm cả Việt Nam từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 2010. Công lao tạo giống IR8 này là do tổng hợp hoạt động nghiên cứu của ba chuyên gia lỗi lạc IRRI vào lúc bấy giờ. Đó là tiến sĩ T.T. Chang, người Đài Loan có công chọn hai giống cha mẹ nêu trên; Tiến sĩ Peter Jenning làm công tác lai giống và Ông H.M. Beachell tuyển chọn ra giống IR8 từ dòng IR8-288-3 và cây lúa thứ 3 (Chandler, 1992).    

Hình 1: Giống lúa IR8 và giống lúa cha mẹ: Peta của

Indonesia và Dee-geo-woo-gen (DgWg) của Đài Loan (ảnh IRRI) 

            Sau khi năng suất và sản ngạch của lúa mì và lúa gạo tăng nhanh chóng, các loại ngũ cốc khác như bắp và lúa miến (sorghum) cũng được cải tiến di truyền với đặc tính nửa-lùn, làm cho cuộc CMX bành trướng mạnh mẽ và lan rộng nhiều nơi trên thế giới. 

2.   CUỘC CÁCH MẠNG XANH Ở VIỆT NAM (1968 - đầu thập niên 2010)

Cuộc CMX đã xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập niên 1960 do sự du nhập các giống cao năng của IRRI. Vào đầu năm 1965, IRRI gởi một số mẩu lúa IR8 cho một số ít quốc gia ở Á Châu trồng thử nghiệm, chẳng hạn Philippines, Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Sri Lanka... 

Vào tháng 5 năm 1966, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa (nay trở thành Viện Cây Ăn Quả) ở Long Định, Tiền Giang thuộc Bộ Canh Nông Miền Nam đã nhận được 10 kg lúa giống IR8 để trồng thử nghiệm đầu tiên trên 2000 m2 vào mùa mưa (liên lạc cá nhân với Phạm Thanh Khâm, Cựu Quản Đốc Trung tâm, 2000). Trong mùa ấy, năng suất lúa IR8 thu hoạch 4 t/ha so với năng suất bình quân của lúa cổ truyền 2 t/ha. 

Đồng thời, trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn nhận được 1kg giống IR8 từ IRRI để trồng trong một thí nghiệm về ảnh hưởng của quang cảm (photoperiodism) cùng chung với một số giống lúa địa phương tuyển chọn của Miền Nam. Kết quả thí nghiệm được báo cáo vào mùa hè 1967 qua một Luận trình mãn khóa (Trần Văn Đạt, 1967). Trong thí nghiệm này, năng suất tiềm thế của giống lúa IR8 được theo dõi và đánh giá cao trong khi so sánh với các giống lúa được tuyển chọn khác. 

Nhờ kết qủa khích lệ trên và nhu cầu lúa gạo cấp bách thời bấy giờ, Bộ Canh Nông đặc biệt chú ý đến giống lúa IR8 và quyết định phát triển canh tác đại trà trong khi vẫn còn trồng thí nghiệm theo dõi tại Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa ở Long Định, các Trại thí nghiệm lúa ở Miền Trung và Miền Nam, Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp và trường Đại học Cần Thơ, qua sự hợp tác với Viện IRRI ở Philippines. Có thể nói Việt Nam là một trong những nước tiên phong trong công cuộc Cách Mạng Xanh trên thế giới.

Hình 2: Lúa hiện đại (ảnh Internet)

Vào giữa năm 1967, qua chương trình hợp tác với Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), độ 6 tấn lúa giống IR8 có năng suất cao và ngắn ngày, được du nhập khá khó khăn vào Việt Nam (vì thỏa hiệp giữa IRRI và chính phủ Philippines không cho phép IRRI xuất khẩu một số lượng lúa lớn dù là hạt giống)[22] để tái canh nhơn giống trên 300 ha ruộng vào mùa nắng (Đông-Xuân) tại Võ Đắt, tỉnh Bình Tuy, sau khi vùng này bị lũ lụt và vụ lúa bị thiệt hại nặng nề. Vì lúa IR8 được trồng hơi muộn lại thiếu nước, chỉ có khoảng 40 ha lúa được thu hoạch với năng suất bình quân 2 t/ha. Tất cả số lượng lúa sản xuất được tại Vỏ Đắt, độ 80 tấn được Bộ Canh Nông thu mua làm giống và gởi trồng nhơn giống tại 33 tỉnh của Miền Nam vào mùa mưa 1968. Sau đó, lúa IR8 được nông dân tự nhơn giống và được Sở Lúa Gạo thu mua qua quỹ luân chuyển để phân phối cho các vùng khác trồng vào mùa nắng (Đông-Xuân) của 1968-1969. 

Cho nên, trong vụ mùa 1968-69, 23373 ha lúa IR8 đã được thu hoạch với năng suất bình quân 4t/ha và giống lúa IR8 được đặt tên là Thần Nông 8 (TN8)[23]. Mùa lúa 1968-69 là thời gian bắt đầu phổ biến mạnh mẽ của chương trình “Tăng gia sản xuất lúa Thần Nông” được Sở Lúa Gạo thuộc Bộ Canh Nông thực hiện đại qui mô qua mô hình “mini kit” của Philippines: Mỗi nông dân trồng lúa TN (lần đầu tiên) được cung cấp một gói nhỏ (mini kit) gồm lúa giống TN8, phân hóa học và thuốc sát trùng diazinon.

Sau đó, IR5, rồi IR20, IR22 được du nhập thử nghiệm và phổ biến qua chương trình hợp tác với IRRI. Diện tích trồng lúa Thần Nông tiếp tục bành trướng mau lẹ. Theo báo cáo của Viện Thống Kê Quốc Gia (Bảng 1), vào vụ mùa 1969/70, lúa hiện đại được trồng trên 204000 ha hoặc độ 30% diện tích tưới tiêu, 452100 ha vào 1970/71, 674740 ha vào 1971/72, và 835 v000 ha vào 1972/73. Đến vụ mùa 1973-74, diện tích lúa hiện đại (IR8, IR5, IR20, IR22, TN 73-1 và TN 73-2) chiếm độ 32% hay 890000 ha với năng suất bình quân 4 t/ha và sản lượng của lúa Thần Nông chiếm 53% tổng sản lượng lúa Miền Nam. Vào vụ mùa 1974/75, tổng sản lượng lúa gạo miền Nam uớc độ trên 7 triệu tấn lúa. 

Chương tình Tăng gia Sản xuất lúa Thần Nông phát triển mạnh mẽ với sự hưởng ứng nhiệt tình của nông dân qua chương trình cho vay để mua máy bơm nước ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Miền Trung. Dọc theo sông Cửu Long và kinh rạch ở tỉnh An Giang, Châu Đốc và Kiến Phong (Đồng Tháp), nông dân đã biến đổi lúa nổi thành hai vụ lúa cao năng, qua chương trình máy bơm nước. Lúa IR8 phần lớn được phát triển mạnh ở các vùng có nước tưới tiêu vì cây lúa thấp lùn. Vào thời bấy giờ, rất nhiều nông dân ĐBSCL đã trở nên giàu có mua sắm nhiều máy cày, xe Honda, xây nhà gạch, v.v. Cho nên, nông dân còn gọi lúa này là “lúa Honda”. Một nông dân trồng một mẫu tây lúa trong 2 hoặc 3 vụ mùa liên tiếp có khả năng mua được một chiếc xe Honda để làm phương tiện di chuyển trong làng ấp. Có thể nói rằng chương trình trên đã mang lại kết quả tốt và theo ước lượng của Sở Lúa Gạo, Miền Nam có thể tự túc lúa gạo vào lúc bấy giờ, nhưng gạo vẫn còn phải nhập khẩu độ 300 000 tấn gạo (với chất lượng kém) mỗi năm do chương trình viện trợ thực phẩm của Mỹ PL480.    

Bảng 1: Diện tích và sản lượng lúa ở Miền Nam từ 1968 dến 1975 

Mùa lúa

Diện tích lúa hiện đại (ha)

Diện tích tổng cộng** (ha)

Sản lượng tổng cộng (tấn)**

1968-69

23.373*

2.393.800

4.366.150

1969-70

204.000*

2.430.000

5.115.000

1970-71

452.100*

2.410.700

5.715.000

1971-72

674.740*

2.510.300

6.324.200

1972-73

835.000*

2.700.000

6.347.700

1973-74

890.000*

2.750.000

6.700.000

1974-75

950.000**

2.850.000

7.150.000

* Nguồn gốc: Viện Thống Kê Quốc Gia, Sài gòn, 1974

**  Ứơc lượng của Sở Lúa Gạo, 1974 

Sau IR8, giống lúa IR5 được du nhập để trồng ở các ruộng sâu vì giống lúa này cao giàn hơn. Về sau công tác phổ biến các giống lúa TN 8 và TN 5 ngày càng khó khăn về mặt thị trường vì nông dân và giới tiêu thụ bắt đầu phàn nàn về chất lượng của hai giống lúa này. Hạt gạo TN8 thuộc loại trung bình và to, có hàm lượng amylose cao (28%) nên cơm để nguội mau cứng và khó ăn. Do đó, các giống lúa IR20 (IR532-E76), IR22 (IR579-160-2), rồi TN 73-1 (IR1529-6-80) và TN 73-2 (IR1561-228-3-3) có chất lượng tốt hơn, ngắn ngày hơn và kháng một số sâu bệnh, được Ủy Ban Hạt Giống Quốc Gia lần lượt chấp thuận phóng thích[24]. Hai giống lúa TN 73-1 và TN 73-2 là hai giống lúa cao năng được phóng thích trong năm 1973 vừa nhằm tăng chất lượng gạo trong nước vừa chống sự phá hại ngày càng nhiều của rầy nâu. Sau đó, IR26 và IR 30 được phổ biến trong nông dân, nhưng bị rầy nâu phá hại dữ dội vào 1976; cho nên, các giống lúa nêu trên lần lượt bị thay thế.

Đến 1977, IR36 được tuyển chọn phổ biến vì có mức kháng rầy nâu cao (biotype 2) (Võ Tòng Xuân, 1995). Sự sử dụng quá nhiều thuốc sát trùng giết hại cả các thù nghịch thiên nhiên, nên nạn rầy nâu phá hại ngày càng trở nên trầm trọng, có lúc gây thiệt hại trên diện tích lớn đáng kể ở Miền Nam năm 1978. IR 36 bắt đầu phát triển rộng lớn vào thập niên 1980 không những tại Việt Nam mà còn nhiều nước châu Á khác. Có lúc giống lúa này được trồng trên 13 triệu ha ở châu Á, như Indonesia, Philippines, Việt Nam, Sri Lanka... Các giống lúa khác chống rầy nâu như NN6A, NN7A, OM3, NN8A và MTL 58 (TN108) cũng được phóng thích (Khush et al., 1995). Riêng ĐBSCL tiếp tục lai tạo nhiều giống lúa kháng được nhiều sâu bệnh quan trọng của vùng, có năng suất cao và chất lượng tốt để cung cấp năng lượng cho cuộc CMX có cơ hội bành trướng. Hiện nay có nhiều giống lúa hiện đại được nông dân trồng đại trà, như IR42, IR64, IR50404, IR56279, OM90, OM723, MTL145, MTL250, OM723, OMCS94, OMCS96, v.v.

Ở Miền Bắc, Cuộc CMX cũng bắt đầu từ giống lúa IR8 hay Nông Nghiệp 8 (NN8), có lẽ được du nhập từ Miền Nam vào cuối vụ 1968-69 qua ngả Tây Ninh để trồng thử nghiệm và có kết quả tốt ở vụ Đông Xuân, tiếp theo chặn đường nhập nội các giống thấp cây từ Trung Quốc như Trân châu lùn, Thượng hải 2 và Thượng hải 4. Sau đó, NN8 được trồng đại trà vào năm 1989 và có lúc chiếm đến 50% diện tích trồng của miền này. Mặc dù giống NN8 có thời gian sinh trưởng đến 180 ngày do ảnh hưởng của nhiệt độ thấp ở vụ Đông-xuân, nhưng năng suất rất cao từ 4 đến 8 t/ha nên được nông dân ưa chuộng. Cho nên, giống NN8 đã chiếm 65% diện tích vụ Đông-Xuân và 35% vụ mùa (Võ-Tòng Xuân, 1995). Giống NN8 còn được trồng đến giữa thập niên 1990. Miền Bắc qua 3 viện: Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm và Viện Bảo vệ Thực vật đã tham gia chương trình INGER để có được những nguồn gien quý giá cho công tác phòng ngừa các sâu bệnh quan trọng như bệnh cháy lá, bạc lá, tungro, rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu đục thân, tuyến trùng, hạn hán, khó khăn đất đai, v.v. Vì vậy, những giống lai tạo giữa các giống lúa địa phương và lúa IR được biết như U7, C10, C15, 386, V13, V14, V18, C37, C 180, MK 46, X2, X3, X10, X11... Giống lúa CR203, được Viện Bảo vệ Thực vật tuyển chọn từ giống IR (IR8423-132-6-2-2), trồng đại trà cho đến nay. Giống này kháng bệnh cháy lá và rầy nâu rất hữu hiệu.

Tóm lại, cuộc CMX cuối cùng đã làm tăng sản lượng lúa từ 17 triệu tấn năm 1988 lên 38,9 triệu tấn năm 2009, tăng gia hơn 6% mỗi năm; diện tích tăng từ 5,7 triệu ha lên 7,4 triệu ha, hay 30%; và năng suất tăng từ 3 t/ha lên 5,2 t/ha, hay 73% (Tổng Cục Thống Kê, 2009). Thành quả lớn lao này trong những năm đầu của Đổi Mới kinh tế chủ yếu do sự thay đổi chính sách hơn là từ cải thiện kỹ thuật, nhưng sau đó sự phát triển kỹ thuật gồm công trình thủy lợi và sử dụng phân hóa học đóng vai trò quan trọng hơn khi cuộc CMX đang tiếp diễn.

            Về các vùng sinh thái, diện tích, năng suất và sản lượng trong 2008 được báo cáo như sau:

Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất lúa lớn nhứt, chiếm 54% cả nước hay 20,7 triệu tấn lúa; đồng bằng sông Hồng 6,8 triệu tấn hay 17,6%; và vùng Bắc và duyên hải Trung Bộ độ 6,1 triệu tấn hay độ 14%. Về năng suất, đồng bằng sông Hồng có năng suất cao nhứt 5,88 t/ha, kế đến đồng bằng sông Cửu Long 5,36 t/ha và Miền Đông Nam Bộ có năng suất thấp nhứt 4,25 t/ha. Tỉnh sản xuất lúa lớn nhứt là Kiên Giang kế đến An Giang và Đồng Tháp, với sản lượng 2,3, 2,2 và 1,9 triệu tấn lúa, theo thứ tự (Tổng Cục Thống Kê, 2009). 

3.   CÁC YẾU TỐ CHÍNH TẠO CÁCH MẠNG XANH THÀNH CÔNG

Trong thời kỳ Cách Mạng Xanh xảy ra, sản lượng lúa trong nước tăng liên tục với mức độ cao hoặc thấp tùy theo chính sách của nhà nước, từ 8,4 triệu trong 1968 lên 38,9 triệu tấn lúa trong 2.009. Ngoài các yếu tố khác như chính sách, tổ chức, nghiên cứu, khuyến nông..., theo IRRI và một số nhà nghiên cứu, ba yếu tố sản xuất quan trọng hơn hết đã đóng góp rất lớn vào sự thành công của cuộc CMX, đó là phát triển hệ thống tưới tiêu (29%), dùng các giống lúa cải tiến (23%) và sử dụng phân hóa học (24%) (Herdt and Capule, 1983). Tuy nhiên, theo tác giả yếu tố chính quyết định là chánh sách lúa gạo của nhà nước. 

(1)  Chính sách lúa gạo quốc gia: Đây là yếu tố quyết định trước tiên để tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thành công của một chương trình hay dự án tầm cở quốc gia. Trường hợp điển hình nhứt của Việt Nam là chánh sách lúa gạo ở Miền Bắc và Miền Nam trong thời gian 1968-1975, và thời kỳ Đổi Mới kinh tế từ 1988 đến nay.

(2)  Phát triển hệ thống tưới tiêu: Câu tục ngữ “Nhứt nước nhì phân tam cần tứ giống” vẫn còn có giá trị tuyệt đối trong ngành nông nghiệp Việt nam. Nước là yếu tố tối thiết yếu, quyết định sự thành bại của mùa màng và an toàn lương thực. Thường cần đến 5.000 lít nước để sản xuất một kg lúa, nhưng hiệu năng của việc tưới tiêu chỉ độ 30-50% và có thể cải thiện lên 80% bằng cách tái sử dụng nước. Phần lớn các giống lúa cao năng không thích ứng với các vùng nước sâu hoặc không có hệ thống tưới tiêu tốt. Trong thập niên vừa qua, nhà nước đã dành ưu tiên cho công tác thủy lợi cho nên đã đầu tư độ 30 triệu đô la mỗi năm trong công tác này (Lê Hồng Nhu, 1999). Tại miền Bắc, hệ thống thoát thủy, đê điều được củng cố hơn. Nhiều vùng đất sâu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp Mười đã biến đổi từ một vụ mùa với năng suất thấp thành 2 vụ mùa với năng suất cao. Công tác khai khẩn đất đai khu Tứ Giác Long Xuyên, Bán Đảo Cà Mau và chương trình ngọt hóa làm tăng diện tích trồng lúa hàng trăm ngàn hecta. Trong thời CMX, diện tích đất tưới tiêu cả nước tăng từ 1,1 triệu ha trong 1968 lên 3 triệu ha trong 1998 (FAO, 2000).

(3)  Giống lúa cao năng: Phổ biến rộng rãi các giống lúa cải thiện, thấp giàn, lá xanh đậm và thẳng, có khả năng phản ứng đạm cao và chỉ số thu hoạch cao (HI: 0,4-0,5) đã làm xứ sở thoát khỏi tình trạng năng suất thấp lâu dài (1,2 t/ha) của bán thế kỷ XX đầu và 2 t/ha cho đến lúc khởi xướng cuộc CMX. Như đã nói ở trên, giống IR8 được du nhập vào Việt Nam năm 1966 và được trồng đại trà ở Miền Nam và miền Bắc kể từ 1968/69 làm sản lượng lúa cả nước tăng lên đáng kể. Sau đó lần lượt các giống lúa IR khác có năng suất cao, chất lượng gạo tốt và kháng một số sâu bệnh quan trọng như rầy nâu, bệnh đạo ôn, bạc lá được trồng thử nghiệm và phóng thích cho nông dân trồng. Ngoài ra, lúa lai được trồng ở Miền Bắc trong thập niên 1990 đã làm tăng sản lượng lúa của miền này. Giống lúa cao năng đã thay thế nhanh các giống lúa địa phương trong lúa tưới tiêu và ngay cả lúa không được tưới tiêu và đã tăng từ 17% trong 1980 lên đến 87% tổng số diện tích trồng lúa trong 1998 (Trần Thị Út and Hossain, 2000).

            (4)Phân hóa học: Sự xuất hiện của các giống lúa hiện đại đã làm cho kỹ nghệ hóa chất như phân bón, thuốc diệt trùng, diệt cỏ, v.v. phát triển mạnh mẽ. Vào thập niên 1980, năng suất lúa còn thấp (độ 2,5 t/ha) mặc dù diện tích trồng lúa cải thiện đã nhiều, do sử dụng phân hóa học còn thấp, độ 60-80 kg/ha, dưới mức khuyến cáo (200-250 kg/ha chất dinh dưỡng) (FAO, 1989). Nên biết rằng cứ mỗi kg phân bón có thể làm tăng 10-15 kg lúa. Số lượng phân hóa học gần đây được sử dụng tăng gia, từ gần 60000 tấn trong năm 1968 lên hơn 4 triệu tấn trong 2008. Vì vậy, năng suất và sản lượng lúa gần đây gia tăng chủ yếu theo số lượng phân hóa học nhập khẩu và sử dụng. Cho nên, năng suất bình quân lúa ở Việt Nam còn có thể tăng đến 6 t/ha trong mùa mưa và 8 t/ha trong mùa nắng, nếu phân hóa học được dùng đầy đủ và đúng lúc trong điều kiện tưới tiêu được cải thiện. Cũng nên ghi nhận rằng miền Bắc sử dụng phân K nhiều hơn miền Nam đến 6-7 lần, trong khi lượng phân N và P gần tương đương.

Nhìn lại, cuộc CMX đã làm chuyển dịch quan trọng cơ cấu trồng lúa nước như sau:

(i) Chuyển cơ cấu trồng lúa cấy qua lúa sạ thẳng, hiện chiếm hơn 95% diện tích trồng lúa tại Miền Nam. Tại đồng bằng sông Cửu Long, sự dịch chuyển cơ cấu vụ được thể hiện qua giảm sút diện tích lúa mùa, tăng gia diện tích gieo sạ Đông-xuân và Hè-thu. Chiều hướng nầy đang tiếp tục bành trướng ra Miền Trung và Miền Bắc do vấn đề tiết kiệm nước, nhân công đắt đỏ và sự hiện diện của thuốc diệt cỏ với giá cả phải chăng. Nông dân còn chuyển đổi cơ cấu trồng lúa sang trồng cây ăn quả hoặc rau hoa do thu nhập cao; cho nên, khuynh hướng này cần được khuyến khích ở những vùng sản xuất lúa dư thừa như ĐBSCL để cải thiện đời sống nông dân.

(ii) Miền Bắc, vụ lúa Chiêm hay Đông-xuân giảm dần và được thay thế bằng vụ Xuân.

(iii) Cả nước, diện tích vụ Đông-xuân tăng gia từ 1,8 triệu ha trong năm 1985 lên 3,1 triệu ha trong năm 2009. Trong cùng thời kỳ, vụ Hè-thu tăng từ 994 300 ha lên 2,4 triệu ha và vụ lúa Mùa giảm từ 2,9 triệu ha xuống 2 triệu ha (Tổng Cục Thống Kê, 2009).

(iv) Sử dụng các giống lúa ngắn ngày (90-100 ngày) có chất lượng cao để vừa tăng vụ mùa vừa tránh lũ lụt hoặc hạn hán cuối vụ.

(v) Phát triển trồng lúa có chất lượng tốt để nâng cao giá trị màu, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Gạo xuất khẩu chưa có thương hiệu nổi tiếng.

(vi) Cơ giới hóa sản xuất lúa tăng gia, nhứt là khâu làm đất, tưới tiêu, và thu hoạch.

(vii) Miền Bắc nỗ lực thực hiện chương trình sản xuất lúa lai từ 1991, dùng hạt giống F1 phần lớn nhập nội từ Trung Quốc. 

4.   HẬU QUẢ TIÊU CỰC CỦA CÁCH MẠNG XANH

Cuộc Cách Mạng Xanh đã giúp nước ta không những tự túc được lúa gạo mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo hạng hai hoặc ba trên thế giới, và giúp cho giới tiêu thụ với giá gạo khá ổn định và thấp. Tuy nhiên, CMX cũng tạo ra một số ảnh hưởng tiêu cực về sinh học, môi trường và kinh tế xã hội (Trần Văn Đạt và Tôn Thất Trình, 1994).

-          Về phương diện sinh học, sự phổ biến mạnh mẽ các giống lúa cải tiến, thấp giàn làm biến mất dần các giống lúa địa phương. Hiện tượng xói mòn di truyền (genetic erosion) đã xảy ra ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, sử dụng lúa giống ngắn ngày, phân hóa học nhất là phân đạm, và thuốc sát trùng đã làm thay đổi hẳn lề lối trồng lúa cổ truyền và làm biến đổi hệ thống cơ cấu canh tác, gây ra nhiều vấn đề tiêu cực. Tình trạng của nhiều loại côn trùng và bệnh đã thay đổi từ loại không đáng kể trở nên nguy hiểm hơn, như bệnh cháy lá hay đạo ôn (Pyricularia grisae Cav.) bây giờ trở nên nguy hại hơn trước thời CMX vì dùng nhiều phân đạm; bệnh khô vằn (Rhizoctonia solani) trở nên quan trọng hơn; bệnh đốm nâu hiện nay ít hơn khi xưa; bệnh lúa lùn, Ragg stunt,... là những bệnh mới xuất hiện; rầy nâu (Nilaparvata lugens), sâu đục thân hai chấm (Scirpophaga incertulas, Walker) trở nên loài nguy hiểm hơn; v.v.

Hình 3: Lúa bị rầy nâu phá hại

-  Về phương diện môi trường, để sản xuất 6t/ha lúa, giống lúa cải thiện cần sử dụng từ đất 100 kgN, 50 kg P2O5, 160 kg K2O, 19 kg Ca, 20 kg Mg, 10 kg S, 0,6 kg Fe, 0,19 kg Zn, 0,64 kg Mn, 0,08 kg Cu, 0,06 kg B và 0,004 kg Mo cho mỗi hecta mỗi vụ mùa (liên lạc với Dr. R. Roy, FAO, 1990). Giống lúa cao năng dùng chất dinh dưỡng của đất nhiều hơn giống lúa cổ truyền và còn gọi là cây “đào mỏ đất” (soil mining). Nông dân chỉ dùng phân có ba chất dinh dưỡng chính N,P, K và quên hẳn các chất bần tố cần thiết. Hiện tượng thiếu bần tố Zn, S, B đã được ghi nhận trên thế giới. Do đó, những vùng thâm canh, 2 hoặc 3 vụ lúa cần phải đặc biệt lưu ý đến cân bằng dinh dưỡng trong đất đai. Những vùng úng thủy, khai thác đất phèn mặn cũng gây ảnh hưởng môi trường không ít. Sự khai thác mãnh liệt đồng bằng sông Cửu Long đã gây cho vùng này bị ngập lụt thường xuyên và nguy hiểm hơn trước. Phân đạm góp phần làm tăng sức nóng của hoàn cầu dưới hình thức khí nitrous oxide. Sử dụng thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ quá độ gây ô nhiễm môi trường.

-  Về kinh tế và xã hội, các giống lúa cải thiện thấp giàn đã trút thêm sự cực nhọc vất vả cho nông dân mà người đàn bà chiếm không ít trong các công tác cấy lúa và gặt hái bằng sức lao động của họ. Sự chăm sóc mùa màng cũng kỹ lưỡng hơn và cần nhiều nhân công hơn. Hệ thống tưới tiêu bành trướng mạnh nên gây tình trạng tranh chấp giữa người dùng nước ở thượng điền và hạ điền nhiều hơn. Nhờ giống lúa ngắn ngày nông dân áp dụng thâm canh hai ba vụ mỗi năm nên gây ra vấn đề thiếu nhân công lúc thời vụ đòi hỏi và khó khăn trong lúc hậu thu hoạch, đặc biệt vấn đề phơi lúa, tồn trữ, xay chà và thị trường. Ngoài ra, CMX còn làm tăng gia khoảng cách biệt lợi tức giữa nông dân trồng lúa tưới tiêu và không có tưới tiêu. Tổng quát, lúa gạo đóng góp 37% vào lợi tức của gia đình nông dân trong khu vực khảo sát. Lúa tưới tiêu đem về 41,5% (587,42 đô la) so sánh với lúa không có tưới tiêu chỉ 18,2% (90,30 đô la). 

Theo cuộc điều tra gần đây, dùng các hạt giống cải tiến làm tăng lợi tức từ 15,6% lên 41,7% (112,45 lên 493,98 đô la) (Trần Thị Út và Hussain, 2000). 

Để khắc phục các vấn đề nêu trên, ngành khảo cứu cần phải đặt trọng tâm vào kiến tạo lề lối canh tác lúa bền vững, có khả năng chống kháng các loại biotypes và dòng sâu bệnh quan trọng hiện nay, đồng thời chịu đựng được các khí hậu khắc nghiệt, biến đổi khí hậu toàn cầu và các vấn đề đất đai khó khăn. Đó là lúa GAP hay lúa Xanh. Cần hiểu rõ hơn phản ứng giữa các kỹ thuật mới xuất hiện và môi trường. Cần phải theo dõi chuyển động của hệ thống thâm canh 2, 3 vụ lúa mỗi năm, nhất là cân bằng dinh dưỡng đất đai và diễn biến sâu bệnh, nhằm tạo điều kiện canh tác lâu dài. Triệt để áp dụng biện pháp Quản lý tổng hợp mùa màng (IPM) qua phối hợp chặt chẽ giữa khảo cứu, khuyến nông và nông dân. 

            Tóm lại, cuộc CMX trong nước kéo dài từ 1968 đến đầu thập niên 2010, đã mang những thành quả tốt đẹp cho xứ sở trong thời hội nhập kinh tế thị trường. Đây là cơ hội thuận lợi để đất nước gồm cả thành thị và nông thôn cùng tiến bộ, miễn là nhà nước thực hiện những chính sách thích đáng. Người ta đang cố gắng thực hiện một cuộc cách mạng mới, với mục tiêu tránh các ảnh hưởng tiêu cực của CMX đã gây ra, chú ý đặc biệt về phương diện môi trường, biến đổi khí hậu và phúc lợi nông dân nông thôn không những cho thế hệ hiện nay mà còn các thế hệ mai sau. 

Sau cuộc CMX vừa qua, thế giới đang tiến gần đến một cuộc cách mạng khoa học mới, có tính cách thời đại hơn, còn gọi là “Cuộc Cách Mạng Trắng”, khi công nghệ biến đổi gen và nông nghiệp 4.0 ra đời cùng với việc hoàn tất Bảng đồ genome cây lúa vào năm 2002. Cuộc CMX đã xảy ra trong khoảng 25-30 năm tùy theo điều kiện từng nước và đã chấm dứt vào giữa 1990-1995 trên thế giới, ngoại trừ một số nước chậm tiến ở châu Á và miền nam sa mạc Sahara của Châu Phi. Cuộc CMX đã giúp được nhiều dân tộc trên toàn cầu thoát khỏi nạn đói dự đoán, thành phần nghèo trong xã hội hưởng được giá lúa gạo rẻ hơn, làm thay đổi cơ cấu trồng lúa và xã hội nông thôn vào buổi đầu khi giá lúa gạo còn tương đối cao, mang lợi nhuận đáng kể cho người trồng lúa.

Nhưng về sau đời sống của nông dân trồng lúa tại các nước đang phát triển không được cải tiến thêm khi giá lúa gạo sút giảm liên tục trong hơn bốn thập niên qua, từ 750 Mỹ kim trong 1975 xuống 350 Mỹ kim/tấn gạo trong 2017. Nhiều nơi nông dân đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ ruộng lúa biến thành vườn trái cây, rau cải, nuôi tôm cá như đã thấy ở Trung Quốc từ 1980, Thái Lan với chính sách đa dạng hóa nông nghiệp từ 1985 và Việt Nam từ 2000. Do đó, cuộc CMX đã giúp nhiều nước giải quyết vấn đề cung cấp thực phẩm trong nước, nhưng không cải thiện nhiều đời sống nông thôn và nông dân trồng lúa. Các nước chậm tiến đã không biết nắm bắt thời cơ vàng để cải tiến đời sống nông dân trong giai đoạn này. Để thay đổi tình trạng nông thôn tốt hơn, họ cần phải có chính sách hỗ trợ tích cực cho nền nông nghiệp để giảm bớt sự cách biệt giữa xã hội đô thị và thôn ấp, như đã và đang thực hiện ở các nước tiến bộ Nhựt Bổn, Đại Hàn, Đài Loan và Âu Mỹ.

Cuộc CMX cuối cùng không thể ngăn cản được cuộc khủng hoảng lương thực thế giới xảy ra năm 2008, có thể do hậu quả của tiến trình toàn cầu hóa hiện nay.2010

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Borlaug, N.E., Hafiz, A., Sigurbjornsson, B. and Swaminathan, M.S. 2001. The origin and unfolding of the green revolution revisited by four of its early instigators - An example of successful, wide partnership. FAO, Rome.
  2. Bùi Thiết. 2.000. Việt nam thời cổ xưa. Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội. 463 tr.
  3. Carle, E. 1927. 1927. Amélioration des riz de Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, 11 pp.
  4. Chandler, R.F. 1992. An adventure in applied science. A History of the IRRI, IRRI, Philippines, pp 240.
  5. Chang, T.T. 1985. Crop history and genetic conservation: Rice - A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.
  6. Colani, M. 1930. Quelques stations Hoabinhhiennes, Bulletin de l’École française de l’Orient extrême (BEFE),  XXIX, Hanoi.
  7. FAO. 1989. Agriculture and food production sector review in Vietnam. Mission Report (VIE/88/033), FAO, Rome, Italy, pp 146.
  8. FAO. 2000,2005. FAOSTAT. FAO, Rome (www.fao.org).
  9. Greenland, D.J. 1997. The sustainability of rice farming. IRRI and CAB International, pp 273.
  10. Herdt, R.M. and Capule, C. 1983. Adoption, spread and production impact of modern rice varieties in Asia.  IRRI, Los Banos, Philippines, p 3-17.
  11. Khush, G.S., Vo-Tòng Xuân, Nguyễn Văn Luật, Bùi Chí Bửu, Đào Thế Tuấn và Vũ Tuyến Hoàng. 1995. Vietnam-IRRI collaboration in rice varietal improvement. Vietnam and IRRI: A Partnership in rice research, IRRI and Ministry of Agriculture and Food Industry, p. 55-61.
  12. Lê Hồng Nhu. 1999. Rice production in Viet Nam and the policies to promote its development. In Proceedings of the 19th Session of the IRC, Cairo, Egypt, 7-9 September 1998. FAO, Rome, p 162-165.
  13. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2008. Tài sản quốc gia 2008. GSO 2008.
  14. Tổng Cục Thống Kê (GSO). 2009. Nông, lâm nghiệp và thủy sản 2009. GSO 2010.
  15. Trần Thị Út and Hossain, M. 2000. Effects of improved technologies on rice production and impact distribution and poverty alleviation: Case study of Viet Nam. Paper presented at the International Rice Research Conference, 31-3 to 3-4-2000. IRRI, Los Banos.
  16. Trần Văn Đạt. 1967. Ảnh hưởng của quang kỳ tính trên một số giống lúa cải thiện. Luận trình tốt nghiệp Kỹ sư Canh nông tại Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc, Sài gòn, Việt Nam. 92 tr.
  17. Trần Văn Đạt và Tôn Thất Trình. 1994. Second generation problems of high-yielding rice varieties. In Proceedings of the 17th Session of the IRC, 4-9 February 1990, Goias, Brazil. FAO, Rome, p 127-132.
  18. Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam - Từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn, 315 tr.
  19. Trần Văn Đạt. 2005. Sản xuất lúa gạo trên thế giới. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 502 tr.
  20. Viện khảo cổ học. 1998. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà nội, 457 tr.
  21. Viện khảo cổ học. 1999. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà nội, 551 tr.
  22. Võ Tòng Xuân. 1995. History of Vietnam-IRRI cooperation.  Vietnam and IRRI: A Partnership in rice research, IRRI and Ministry of Agriculture and Food Industry, IRRI, Philippines, p. 21-29.

Phụ bản 3:

 

   Vài ý kiến:

Xây Dựng Thương Hiệu

Lúa Gạo Việt Nam

 

Ø  Tại sao Việt Nam đến nay chưa có thương hiệu riêng cho gạo xuất khẩu mặc dù đã tham gia xuất khẩu nhiều thập niên?

Từ thế kỷ XIX hoặc hơn, Việt Nam (VN) đã xuất khẩu gạo rất sớm đến các nước láng giềng như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhựt Bổn, Philippines, Indonesia, Malaysia...; nhưng hầu hết là loại gạo có chất lượng thấp. Trong thời thực dân Pháp, gạo thơm cũng được xuất khẩu từ Miền Bắc qua Hồng Kông, sau đó vào Trung Quốc rồi tái xuất khẩu qua Nhựt Bổn với số lượng đáng kể (Dumont, 1995), nhưng không có được thương hiệu nổi tiếng trong vùng Đông Á, vì thiếu chủ trương xây dựng thương hiệu của nhà nước bấy giờ!

Vào đầu thế kỷ XX, gạo xuất khẩu VN cũng có thương hiệu khá nổi tiếng một thời; đó là gạo Cà Đung Gò Công. Các thương gia Pháp rất thích giống lúa này vì hạt gạo tròn lớn gần giống với loại gạo Japonica được giới tiêu thụ châu Âu ưa chuộng đến nay. Họ mua lúa Cà Đung đem xay chà ở Tây Ban Nha, rồi pha trộn với gạo tốt của xứ nầy để đem vào bán ở Pháp với số lượng khá lớn, khoảng 100 000 tấn mỗi năm (Service des affaires économiques, 1916). Sau vài thập niên, VN không còn xuất khẩu loại lúa này qua châu Âu nữa, do chất lượng không đạt chuẩn quốc tế: lẫn lộn nhiều hạt lúa khác, hạt cỏ, chất lạ, gạo vàng do tồn trữ kém. Thương hiệu lúa Cà Đung không tồn tại lâu dài! (Trần Văn Đạt, 2005).

            Từ bài học nêu trên, xây dựng thương hiệu cho một loại nông phẩm đã là khó, và làm sao để giữ thương hiệu đó lâu dài lại càng khó hơn, như Basmati của Pakistan và Ấn Độ hiện diện từ thập niên 1930 đến nay. Để có một thương hiệu cho lúa gạo xuất khẩu, VN cần phải có một chương trình phổ biến và nội lực thật sự, nghĩa là gạo Việt phải là đặc sản, chất lượng phải đạt chuẩn mực yêu cầu, năng suất tương đối cao, môi trường sản xuất bền vững và được đông đảo giới tiêu thụ ưa thích. Ngoài ra, thương hiệu cần được tích cực bảo vệ và phổ biến liên tục lâu dài.

Tuy nhiên, đến nay gạo xuất khẩu VN chỉ biết đến là loại gạo trắng bình thường, nên chưa có thương hiệu nổi tiếng trên thị trường thế giới. Trong khi đó, Thái Lan có gạo nổi tiếng khắp nơi như Khaw Dawk Mali, Hom Mali, Jasmine 85; Ấn Độ và Pakistan có gạo Basmati; Âu Châu (Ý) có gạo Arborio, Thaibonet (M101 của Mỹ); Úc Châu có Amaroo... Hơn 3 thập niên qua, VN đã phóng thích nhiều giống lúa cải thiện, nhưng chưa có giống nào lai tạo trong nước được trồng đại trà, như các giống nhập nội từ Viện Lúa quốc tế IRRI, Philippines (IR 64, IR 50404, CR 203), Thái Lan (Hương lài, Khao Dawk Mali), Đài Loan (VD10, VD20), Trung Quốc (Khang Dân, Q5).

Vài nguồn thông tin cho rằng giá gạo VN trên thị trường quốc tế luôn thấp hơn gạo Thái Lan từ 50 đến 100 Mỹ kim mỗi tấn cho cùng một chủng loại do thiếu thương hiệu nổi tiếng. Điều này chỉ đúng một phần, ngoài ra còn do chất lượng thấp (trong quá trình trồng trọt, thu mua và biến chế gạo cho thị trường), giá thành cao, cộng thêm điều kiện tiếp thị, quản lý xuất khẩu của các doanh nghiệp nhà nước.

Đồng bằng sông Cửu Long đã triển khai kế hoạch 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, nhưng vẫn còn giới hạn, chủ yếu do giá mua lúa chất lượng cao chưa phân biệt với chất lượng thấp, và thiếu các giống lúa chất lượng tốt năng suất cao mà nông dân và thị trường đòi hỏi. Hơn nữa, các thương lái có khuynh hướng mua lúa không phân biệt nhiều giữa lúa có chất lượng cao và thấp. Trong thời gian qua, Việt Nam trồng lúa nhằm xuất khẩu gạo với đặc biệt quan tâm đến số lượng hơn là chất lượng, trong khi quên đi thị trường nội địa đòi cũng hỏi chất lượng cao. Cho nên, gạo tốt của Thái Lan, Cambodge có cơ hội xâm nhập dễ dàng ở các tỉnh biên giới và đô thị lớn trong nước.

Tóm lại, VN đến nay chưa có thương hiệu nổi tiếng lâu dài do các lý do sau đây:

(1)   Chưa có chương trình và nổ lực thực sự hữu hiệu để xây dựng và phổ biến thương hiệu cho lúa gạo VN, và thiếu điều hợp cho mục tiêu này,

(2)   Chưa có nội lực hay chưa có giống lúa chất lượng bản xứ được trồng đại trà, và môi trường sản xuất bền vững,

(3)   Thiếu phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, thương lái, nông dân và khảo cứu,

(4)   Thiếu tên thương hiệu hấp dẫn để quảng bá trong và ngoài nước. 

Ø  Làm sao xây dựng một thương hiệu cho lúa gạo VN theo tiêu chuẩn quốc tế?

Bảy bước để tiến đến thành công xây dựng thương hiệu lúa gạo VN:

Bước 1: Trước hết cần thiết lập Chương trình Quốc gia Xây dựng Thương hiệu cho Lúa gạo VN, nhằm tăng thêm giá trị gạo Việt trên thị trường quốc tế và quốc nội, đồng thời khuyến khích tăng gia sản xuất lúa gạo chất lượng cao trong nước. Hiện nay đã có vài hoạt động xây dựng thương hiệu như thương hiệu Một bụi đỏ Hồng Dân (gạo vàng sẫm có ánh hơi đỏ) ở Bạc Liêu, thương hiệu gạo thơm ST ở Sóc Trăng, thương hiệu Agrimex-Kitoku (hợp tác với Nhựt)..., nhưng còn riêng rẽ, thiếu chiến lược phối hợp và hỗ trợ đắc lực của nhà nước trong kế hoạch hóa công tác xây dựng thương hiệu lúa gạo cho VN. Cần nhớ rằng giới tiêu thụ trong nước cũng như thế giới đều ưa chuộng loại gạo có thương hiệu dù giá cao hơn.

Bước 2:Chọn tên thương hiệu hấp dẫn cho gạo xuất khẩu VN để tránh xuất khẩu gạo trắng không tên thương hiệu như hiện nay. Thương hiệu có thể do từ tên một giống lúa nổi tiếng được nhiều người ưa thích, như Basmati 370, Khaw Dawk Mali, Jasmine 85; hoặc dùng một tên tổng quát cho nhiều loại gạo xuất khẩu, như gạo Basmati, gạo Jasmine. Khi gặp gạo Jasmine người ta nhận ra đó là gạo Thái Lan. Gạo Basmati là của Pakistan hay Ấn Độ. VN trước hết có thể chọn những tên như Perfume rice, Aroma, Fragrance, Scent, Nàng hương, Lúa thơm… cho các loại gạo thơm, loại thượng hạng (0% tấm) với hình dáng, kích thước, mẫu mã ưa thích, có tính chất bản địa; và phải có chiến lược tiếp thị tốt để phổ biến thương hiệu rộng rãi trong và ngoài nước.

Bước 3: Phải nổ lực nhiều hơn nữa trong công tác khảo cứu: thu thập, tuyển chọn và lai tạo các giống lúa chất lượng tốt cho xuất khẩu. Mặc dù có nhiều giống lúa thơm được tiêu thụ trong nước, nhưng chỉ có một vài giống đạt tiêu chuẩn xuất khẩu mà thôi. Đây là công tác đầu tiên và quan trọng của một Chương trình Xây dựng Thương hiệu. VN đã phóng thích nhiều giống lúa cải tiến, nhưng chưa có giống lúa nào nổi bật được trồng đại trà, ngoại trừ một số giống lúa có nguồn gốc nước ngoài.

Đối tượng lúa xuất khẩu để nghiên cứu cần bao gồm (i) các loại lúa thơm bản xứ, (ii) loại lúa thượng hạng (ăn ngon, với hạt có kích thước, hình dáng, độ dẻo và ít mùi thơm thích hợp giới tiêu thụ), (iii) loại lúa hữu cơ (không dùng chất nông hóa), (iv) loại lúa gạo tốt và an toàn cho sức khoẻ (có hàm lượng vitamin và khoáng chất cần thiết cho sức khoẻ), và (v) loại lúa gạo GAP hay VIETGAP.

Để tạo một ấn tượng tốt về thương hiệu cho gạo Việt lâu dài, giống lúa phải hội đủ tối thiểu 4 tiêu chuẩn:

1.      Giống lúa kháng một số sâu bệnh chủ yếu, được nông dân canh tác rộng rãi để xuất khẩu, 

2.      Chất lượng được giới tiêu thụ chấp nhận ở nhiều thị trường nội địa và thế giới,

3.      Loại gạo chỉ sản xuất ở VN hay đặc sản bản địa, và

4.      Môi trường trồng lúa bền vững.

Bước 4: Hướng dẫn nông dân sản xuất lúa xuất khẩu với hợp tác tích cực của cấp Tỉnh. Những người trồng lúa trong những vùng được khoanh cho xuất khẩu cần được hướng dẫn sản xuất lúa giống thuần mỗi năm và quản lý sản xuất từ gieo hạt đến thu hoạch, tồn trữ cho đúng tiêu chuẩn gạo xuất khẩu. Họ cần được giúp tín dụng nông thôn để trang trải chi phí sản xuất. Các nhà xuất khẩu cần hợp tác trực tiếp với nông dân để sản xuất gạo có chất lượng cao, đồng thời xây dựng thương hiệu và bành trướng thị trường xuất khẩu.

Bước 5: Cần tổ chức lực lượng thương lái, giới xay chà, biến chế để đảm bảo chất lượng cao cho lúa gạo thu mua và chế biến. Khâu này rất quan trọng vì hạt gạo phải trải qua nhiều tầng bậc: Lúa được thương lái nhỏ đến mua tại nhà, tại ruộng, rồi chuyển đến hàng xáo và các nhà máy xay xát, sau đó đến các doanh nghiệp biến chế, cung ứng rồi cuối cùng tới các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu! Khâu này sẽ làm tăng thêm hoặc hạ thấp chất lượng hạt gạo, tùy theo lương tâm và lợi ích của giới trách nhiệm. Một số luật lệ cần được thiết lập quản lý các công đoạn này để tránh sự pha trộn làm ăn kém lương thiện hiện đang hoành hành, làm cho giới tiêu thụ không biết gạo chất lượng thật sự có chất lượng hay không. Họ cần được tổ chức, hướng dẫn và theo dõi.

Đề nghị các doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức kết nối các đội ngũ thương lái- giới xay chà, biến chế này với hoạt động xuất khẩu của mình. Sự độc lập của thương lái hiện nay gây thiệt thòi quyền lợi cho nông dân. Đây là khâu ảnh hưởng nhiều nhứt đến chất lượng và giá cả ngoài thị trường. Chẳng hạn, gạo Nàng thơm Chợ Đào có nhiều giá từ cao xuống thấp, tùy theo thương gia pha trộn với ít hay nhiều gạo thường! Do đó, cần phải có những cố gắng nâng giá gạo thơm cho đúng giá trị thật sự để khuyến khích giới sản xuất trong nước và đạt mục tiêu xuất khẩu.

Bước 6: Các doanh nghiệp xuất khẩu không những bảo đảm chất lượng cao và giá cả hợp lý giữa doanh nghiệp và nông dân, không để người sản xuất bị ép giá như từ trước đến nay; mà còn phụ trách phổ biến tích cực thương hiệu gạo và tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ thế giới cho gạo thương hiệu, nhứt là tại các nước Âu Mỹ và khối Á Rập, nơi đòi hỏi gạo cao cấp. VN cần phải đầu tư nhiều hơn nữa vào thị trường, đóng gói bao bì và dịch vụ thương mại, trong lãnh vực này Thái Lan chứng tỏ tay nghề rất cao, VN cần bắt chước. Hiện nay các doanh nghiệp lớn chỉ “ngồi không hưởng lợi” và kém khả năng linh hoạt kinh doanh quốc tế. Các doanh nghiệp cần tổ chức các hệ thông thu mua lúa gạo hữu hiệu, từ ruộng nông dân đến nơi xuất khẩu để tránh bớt giới trung gian, thương lái làm ăn độc lập gây thiệt hại quyền lợi nông dân và tổn thương uy tín của thương hiệu gạo VN.

Bước 7: Cần có sự điều hợp hữu hiệu của nhà nước cho 4 thành phần tham gia chương trình xây dựng thương hiệu: nhà khảo cứu lúa gạo, nông dân trồng lúa, thương lái-giới xay chà-biến chế và doanh nghiệp xuất khẩu trong khung Chương trình Quốc gia Xây dựng Thương hiệu cho Lúa gạo VN.

Tóm lại, công tác xây dựng thương hiệu cho một loại nông sản đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực của nhiều giới, với sự liên kết hữu hiệu giữa 4 thành phần trách nhiệm liên hệ, dưới sự điều hợp của nhà nước (Hiệp hội Lương thực VN). Nếu không bắt đầu từ bây giờ sẽ không bao giờ có được kết quả mong muốn. Một khi đã có Chương trình Xây dựng Thương hiệu rồi, nếu một trong 4 thành viên hợp tác trên không hoàn thành trách nhiệm sẽ kéo dài thêm thời gian cho công tác xây dựng thương hiệu. Do đó, vài trò điều hợp, hướng dẫn và hỗ trợ của nhà nước, Hiệp hội Lương thực VN là tối cần thiết để thành công.

2012 

Tài Liệu Tham Khảo: 

1.      Dumond, R. 1995. La culture du riz dans le delta de Tonkin. Printing House in Bangkok, Thailand, pp 592.

2.      Service des affaires économique. 1916. Bulletin économique de l’Indochine, No. 117, Jan-Fev. 1916, imprimerie d’Extrême-orient, Hanoi-Haiphong.

3.      Trần Văn Đạt. 2005. Tiến Trình Phát Triên Sản Xuất Lúa Gạo Tại Việt Nam: từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn, 316 tr.

4.      toquoc-gov-vn. Gạo Việt cần một cái tên (5/2/2010).

5.      VietNamNet/VOV: Building a trademark for Mekong Delta Rice. Viet Nam Business News (30-11-2009).

               Phụ bản 4:

Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam, 1961-2017 

Năm

Diện tích

(ha)

Năng suất

(kg/ha)

Sản lượng

(tấn)

1961

4.744.000

1.897

8.997.400

1962

4.888.860

1.994

9.747.040

1963

4.496.520

2.140

9.622.670

1964

4.987.800

1.944

9.697.030

1965

4.826.300

1.941

9.369.700

1966

4.681.300

1.808

8.463.500

1967

4.795.800

1.916

9.188.400

1968

4.893.800

1.710

8.366.150

1969

4.930.000

1.788

8.815.000

1970

4.724.400

2.153

10.173.300

1971

4.692.100

2.227

10.447.000

1972

4.900.000

2.194

10.748.200

1973

5.030.000

2.212

11.125.000

1974

5.111.920

2.156

11.023.290

1975

4.855.900

2.12-

10.293.600

1976

5.297.300

2.233

11.827.200

1977

5.468.700

1.938

10.597.100

1978

5.462.500

1.792

9.789.900

1979

5.485.200

2.072

11.362.900

1980

5.600.200

2.080

11.647.400

1981

5.651.900

2.197

12.415.200

1982

5.711.700

2.519

14.390.200

1983

5.611.700

2.627

14.743.300

1984

5.675.000

2.732

15.505.600

1985

5.718.300

2.776

15.874.800

1986

5.703.100

2.806

16.002.900

1987

5.603.100

2.695

15.102.600

1988

5.740.800

2.961

17.000.000

1989

5.911.200

3.214

18.996.30

1990

6.042.800

3.181

19.225.100

1991

6.302.700

3.113

19.621.900

1992

6.475.400

3.334

21.590.304

1993

6.559.400

3.482

22.836.600

1994

6.598.600

3.566

23.528.300

1995

6.765.600

3.690

24.963.700

1996

7.003.800

3.769

26.396.700

1997

7.099.700

3.877

27.523.900

1998

7.362.700

3.959

29.145.500

1999

7.653.600

4.102

31.393.800

2000

7.666.300

4.243

32.529.500

2001

7.492.700

4.285

32.108.400

2002

7.504.300

4.590

34.447.200

2003

7.452.200

4.639

34.568.800

2004

7.445.300

4.855

36.148.900

2005

7.329.200

4.889

35.832.900

2006

7.324.800

4.894

35.849.500

2007

7.207.400

4.987

35.942.700

2008

7.400.200

5.234

38.729.800

2009

7.437.200

5,237

38.950.200

2010

7.489.400

5,348

40.005.600

2011

7.655.400

5,538

42.398.500

2012

7.761.200

5,634

43.737.800

2013

7.902.500

5,573

44.039.100

2014

7.816.200

5,754

44.974.600

2015

7.828.000

5,760

45.091.000

2016

7.737.100

5,579

43.165.100

2017*

7.708.700

5,547

42.763.400

 

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, 2017,     * Số sơ khởi

_______________________________________________

Phụ Bản 5:

Diện tích (x1000), năng suất và sản lượng (x1000) theo địa phương của Việt Nam, 2016 

Vùng và Tỉnh

Diện tích

 

Năng suất

 

Sản lượng

 

x1.000 Ha

T/ha

x1.000 Tấn

Cả nước

7.737,1

5,58

43.165,1

Đồng Bằng Sông Hồng

1.094,4

5,98

6.545,0

Hà Nội

197,1

5,63

1.109,6

Vĩnh Phúc

58,4

5,04

294,5

Bắc Ninh

70,8

6,20

439,1

Quảng Ninh

42,3

5,01

211,8

Hải Dương

120,3

6,04

726,4

Hải Phòng

74,0

6,29

465,1

Hưng Yên

74,1

6,17

457,4

Thái Bình

160,1

6,58

1.053,6

Hà Nam

65,6

6,03

395,5

Nam Định

153,0

6,04

923,9

Ninh Bình

78,7

5,95

468,1

Trung Du và Miền Núi Phía Bắc

682,6

4,99

3.405,5

Hà Giang

37,5

5,61

210,5

Cao Bằng

28,9

4,32

124,8

Bắc Kạn

24,3

4,86

118,1

Tuyên Quang

45,1

5,86

264,3

Lào Cai

31,6

5,01

158,3

Yên Bái

42,8

5,00

214,2

Thái Nguyên

72,0

5,34

384,7

Lạng Sơn

50,1

4,36

218,3

Bắc Giang

109,5

5,74

628,5

Phú Thọ

67,7

5,51

373,2

Điện Biên

       50,1

3,50

175,4

Lai Châu

31,4

4,34

136,4

Sơn La

51,7

3,54

182,9

Hoà Bình

39,9

5,41

215,9

Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung

1.215,3

5,63

6.842,2

Thanh Hóa

253,9

5,88

1.493,1

Nghệ An

186,0

5,42

1.007,4

Hà Tĩnh

103,4

5,13

530,4

Quảng Bình

55,0

5,12

281,4

Quảng Trị

49, 8

5,28

263,1

Thừa Thiên-Huế

54,5

5,95

324,3

Đà Nẵng

5,4

5,96

32,2

Quảng Nam

86,7

5,09

441,7

Quảng Ngãi

75,8

5,49

416,3

Bình Định

102,5

6,23

638,9

Phú Yên

57,5

6,54

376,2

Khánh Hoà

39,9

5,69

227,1

Ninh Thuận

41,4

5,12

211,8

Bình Thuận

103,5

5,78

598,3

Tây Nguyên

233,3

5,03

1.174,0

Kon Tum

24,2

3,60

87,1

Gia Lai

72,8

4,38

318,9

Đắk Lắk

       93,9

5,86

550,2

Đắk Nông

12,4

5,84

72,4

Lâm Đồng

30,0

4,85

145,4

Đông Nam Bộ

270,4

5,06

1.367,4

Bình Phước

12,2

3,23

39,4

Tây Ninh

144,6

5,26

760,0

Bình Dương

7,3

4,19

30,6

Đồng Nai

61,7

5,37

331,5

Bà Rịa - Vũng Tàu

25,1

4,81

120,7

TP.Hồ Chí Minh

19,5

4,37

85,2

Đồng Bằng Sông Cửu Long

4.241,1

5,62

23.831,0

Long An

527,4

5,31

2.802,2

Tiền Giang

215,5

5,88

1.268,1

Bến Tre

41,5

2,11

87,6

Trà Vinh

210,6

4,54

956,3

Vĩnh Long

176,4

5,32

938,7

Đồng Tháp

551,4

6,16

3.396,8

An Giang

669,0

5,91

3.974,7

Kiên Giang

765,9

5,43

4.161,6

Cần Thơ

     240,0

5,82

1.397,8

Hậu Giang

202,2

6,09

1.231,0

Sóc Trăng

356,6

6,09

2.171,1

Bạc Liêu

172,4

5,76

993,1

Cà Mau

112,2

4,03

452,0

 

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, 2016

Phụ bản 6:

Dân số Việt Nam ở thành thị và nông thôn, 1950-2050 

Dân số – phỏng đoán và dự kiến

Xếp loại dân số (x 1000)

Tổng cộng

Nông thôn

Thành thị

1950

27.367

24.181

3.186

1955

30.052

26.117

3.935

1960

33.648

28.702

4.946

1965

38.099

31.843

6.256

1970

42.898

35.048

7.850

1975

47.974

38.913

9.061

1980

53.005

42.705

10.299

1985

59.136

47.521

11.615

1990

66.206

52.796

13.410

1995

73.163

56.916

16.247

2000

78.671

59.535

19.136

2005

84.309

61.773

23.175

2010

88.473

61.984

27.064

2015

93.572

62.015

31.372

2917

95.540

61.840

33.121

2020

96.302

61.452

34.851

2025

99.929

59.586

40.343

2030

102.886

57.587

45.299

2035

105.189

54.949

50.219

2040

106.765

51.782

54.984

2045

107.791

48.257

59.534

2050

108.464

45.364

63.100

 

Nguồn: FAO, 2017 (1950-2017), Tổng cục thống kê & UNFPA (2020-2049)

Phụ bản 7:

Thay đổi khẩu phần (kg gạo/người/năm) tại Việt Nam và thế giới từ 1961 đến 2012-14

 

Quốc gia

 

1961

1970

1980

1990

2000

2012-14

 

Viet Nam

 

142,18

146,74

132,22

150,32

168,40

191,10

Australia

 

   3,12

    3,30

    7,59

    7,95

    8,80

  19,70

Bangladesh

158,14

158,96

131,63

147,89

152,76

169,50

Brazil

 

  38,28

  38,75

  39,28

  40,84

  38,31

40,20

Cambodia

 

164,83

164,26

132,82

155,43

167,17

159,10

China

 

  43,06

  70,93

  77,32

  84,4

  80,08

  76,40

Egypt

 

  22,67

  24,52

  26,72

  30,08

  38,25

  36,97

India

 

  66,93

  69,79

  64,39

  78,77

  72,59

  73,40

Indonesia

 

  80,63

101,43

124,05

132,19

131,85

163,00

Iran, Islamic Republic of

  16,87

  23,04

  29,36

  29,92

  29,60

39,10

Italy

 

    4,93

    3,78

    4,56

    4,85

    5,72

    5,74

Japan

 

111,95

  90,36

  72,81

  64,68

  59,55

  56,70

Korea, Democratic People's Republic of

  87,52

  84,49

  71,71

  69,37

  70,78

67,40

Korea, Republic of

  98,87

124,94

137,55

  97,18

  87,08

  159,11

Lao People's Democratic Republic

181,86

180,77

162,81

161,48

160,02

159,11

Madagascar

122,74

128,52

123,71

105,45

  98,69

102,53

Malaysia

 

121,02

121,28

109,19

  83,62

  84,72

  81,25

Mali

 

  11,28

  13,70

  26,36

  25,01

  49,97

  56,99

Mozambique

    6,47

    6,14

  10,45

    8,89

    9,07

  23,41

Myanmar

 

131,55

159,4

178,16

152,49

156,61

132,80

Nepal

 

  76,65

  78,67

  79,28

  85,55

  84,73

  87,75

Pakistan

 

  16,06

  27,89

  21,81

  13,54

  13,49

  13,40

Paraguay

 

    5,92

  10,70

    7,83

  12,07

  11,56

    9,64

Philippines

  88,32

  82,46

  95,33

  93,03

103,69

121,90

Senegal

 

  49,33

  46,20

  63,4

  65,07

  72,91

  72,29

Sierra Leone

  62,37

  98,9

101,03

  97,74

  96,34

  103,30

Spain

 

    5,53

    5,18

    5,71

    6,47

    7,89

    8,32

Sri Lanka

 

  94,20

  88,67

  91,16

  95,92

  92,61

  109,72

Thailand

 

133,02

146,15

140,71

116,90

116,59

142,50

Turkey

 

    5,20

    4,79

    3,29

    6,24

    8,65

9,80

Uruguay

 

    4,26

    5,56

    7,75

  10,25

  15,03

  8,50

European Union

    2,83

    2,87

    3,47

    3,73

    4,89

4,90

World

 

  38,97

  48,00

  50,30

  54,84

  53,82

  53,92

Africa

 

    9,02

  10,59

  14,26

  16,06

  17,54

23,91

Americas

  11,76

  13,54

  15,96

  18,32

  19,61

       18,52

--Northern America

    2,47

    2,67

    3,82

    6,60

    8,54

             7,45

--Central America

    5,43

    7,23

    7,90

    7,24

    9,71

  10,24

--South America

  24,88

  27,00

  29,49

  31,67

  31,27

  28,72

Asia

 

  65,24

  78,41

  78,68

  84,25

  79,84

  77,82

Europe

 

    2,11

    3,39

    5,07

    4,46

    4,54

    4,50

Oceania

    4,64

    4,74

    8,52

    9,81

  11,48

  12,87

 

Nguồn: OECD-FAO Agricultural outlook 2015 and FAO, 2013

 

Phụ Bản 8:

Việt Nam: diện tích, dân số, mật độ, nông thôn, thành thị theo từng địa phương, 2017 

 

Vùng và Tỉnh

Dân số trung bình (Nghìn người)

 

Diện tích

(km2)

 

Mật độ

(Người/km2)

 

Dân nông thôn (Nghìn người)*

Dân  thành

thị

(Nghìn người)*

 

Cả nước

93.671,6

331230,8

2283

60.858,2

32.813,

 

Đồng Bằng Sông Hồng

21.342,1

21.259,6

91.004

13.194,0

8.148,1

 

Hà Nội

  7.420,1

3.358,6

12.209

3.053,0

4.367,1

 

Vĩnh Phúc

1.079,5

1.235,2

8874

828,0

251,5

 

Bắc Ninh

1.215,2

822.7

11.477

871,3

343,9

 

Quảng Ninh

1.243,6

6.177,8

1   201

452,5

791,1

 

Hải Dương

1.797,3

1.668,2

11.077

1.344,4

452,9

 

Hải Phòng

1.997,7

1.561,8

11.279

1.063,6

934,1

 

Hưng Yên

1.176,3

930,2

11.265

1.024,2

152,1

 

Thái Bình

1.791,5

1.586,3

11.129

1.603,3

188,2

 

Hà Nam

805,7

861,9

9   935

   678,7

127,0

 

Nam Định

1.853,3

1.668,5

11.111

1.514,2

339,1

 

Ninh Bình

961,9

1.386,8

6   694

    760,8

201,1

 

Trung Du và Miền Núi phía Bắc

12.148,9

95.222,1

1   128

9.905,0

2.243,9

 

Hà Giang

     833,5

7.929,5

8   105

   708,5

125,0

 

Cao Bằng

535,4

6.700,3

7    80

411,3

124,1

 

Bắc Kạn

323,2

4.860,0

6    67

262,5

60,7

 

Tuyên Quang

773,5

5.867,9

1   132

667,2

106,3

 

Lào Cai

694,4

6.364,0

9  109

   535,6

158,8

 

Yên Bái

   807,3

6.887,7

1  117

    641,3

166,0

 

Thái Nguyên

1.255,1

3.526,6

3  356

814,6

440,5

 

Lạng Sơn

778,4

8.310,1

9    94

624,2

154,2

 

Bắc Giang

1.674,4

3.895,5

4  430

1.483,0

191,4

 

Phú Thọ

1.392,9

3.534,6

3   394

1.130,4

262,5

 

Điện Biên

    567,0

9.541,3

5    59

   481,4

85,6

 

Lai Châu

    446,1

9.068,8

3    49

   368,7

77,4

 

Sơn La

1.228,9

14.123,5

7    87

1.061,4

167,5

 

Hoà Bình

838,8

4.590,6

1                    183

   714,9

123,9

 

Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung

19.924,5

95.871,9

2  208

14.208,7

5.715,8

 

Thanh Hóa

3.544,4

11.114,7

3  319

2.935,2

609,2

 

Nghệ An

3.131,3

16.481,6

1   190

2.659,0

472,3

 

Hà Tĩnh

1.272,2

  5.990,7

2   212

1.039,8

232,4

 

Quảng Bình

882,5

8.000,0

1   110

708,7

173,8

 

Quảng Trị

627,3

4.621,7

1   136

439,3

188,0

 

Thừa Thiên Huế

1.154,3

  4.902,5

2   235

   590,9

563,4

 

Đà Nẵng

                     1.064,1

1.284,9

6   828

131,7

932,4

 

Quảng Nam

1.493,8

10.574,7

1   141

1.132,0

361,8

 

Quảng Ngãi

1.261,6

5.152,5

2   245

1.070,4

1912

 

Bình Định

1.529,0

6.066,2

2   252

1.054,5

474,5

 

Phú Yên

   904,4

5.023,4

1   180

   641,4

263,0

 

Khánh Hòa

1.122,2

5.137,8

2   238

671,9

550,3

 

Ninh Thuận

    607,0

3.355,3

1   181

387,2

219,8

 

Bình Thuận

1.230,4

7.943,9

1   155

746,7

483,7

 

Tây Nguyên

5778,5

54.508,3

9     106

4.089,9

1.688,6

 

Kon Tum

   520,0

9.674,2

4 54

   335,2

184,8

 

Gia Lai

1.437,4

15.511,0

7 93

1.004,8

432,6

 

Đắk Lắk

1.896,6

13.030,5

1146

1.430,8

465,8

 

Đắk Nông

   625,6

6.509,3

6  96

   530,5

95,1

 

Lâm Đồng

1.298,9

9.783,3

1  133

788,6

510,3

 

Đông Nam Bộ

16.739,6

23.552,6

5  711

6.249,8

10.489,

 

Bình Phước

    968,9

6.876,8

1  141

775,8

193,1

 

Tây Ninh

1.126,2

4.041,3

2  279

873,4

252,8

 

Bình Dương

 2.071,0

2.694,6

3  769

493,1

1.577,9

 

Đồng Nai

 3.027,3

5.863,6

3  516

1.958,3

1.069,0

 

Bà Rịa - Vũng Tàu

 1.101,6

1.981,0

4  556

529,9

571,7

 

TP.Hồ Chí Minh

 8.444,6

2.061,2

3 4.097

1.619,3

6.825,3

 

Đồng Bằng Sông Cửu Long

17.738,0

40.816,3

4   435

13.210,8

4.527,2

 

Long An

1.496,8

4.494,9

3   333

1.227,0

269,8

 

Tiền Giang

1.751,8

2.510,6

7   698

1.480,4

271,4

 

Bến Tre

1.266,7

2.394,7

5   529

1.131,6

135,1

 

Trà Vinh

1.045,6

2.358,3

4   443

  856,4

189,2

 

Vĩnh Long

1.050,2

1.525,7

7   688

  872,0

178,2

 

Đồng Tháp

1.690,3

3.383,8

4   500

1.390,0

300,3

 

An Giang

2.161,7

3.536,7

6   611

1.497,0

664,7

 

Kiên Giang

1.792,6

6.348,8

2   282

1.264,2

528,4

 

Cần Thơ

1.272,8

1.439,0

8   885

   419,2

853,6

 

Hậu Giang

     774,6

1.621,7

5   478

   580,4

194,2

 

Sóc Trăng

1.314,3

3.311,9

3  397

 912,1

402,2

 

Bạc Liêu

894,3

2.669,0

3  335

632,4

261,9

 

Cà Mau

1.226,3

5.221,2

2  235

948,1

278,2

 

 

 

 

 

 

 

  Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, 2017(*)Sơ bộ 2017 

 

               

            CHỮ VIẾT TẮT

 

ADB: Asian Development Bank (Ngân Hàng Phát Triển Châu Á)

AP: Asian Perspectives, Hồng Kông

BDG: Biến đổi gen

BEFEO: Bulletin de l’École Française d’Extrême - Orient

BMFEA: Bulletin of the Museum of Far Eastern Antiquities

BSA: Bulletin de la Société d’Anthropologies

BSE: bovine spongiform encephalopathy (bệnh bò điên)

BSEI: Bulletin de la Société des Études Indochinoises

BSGI: Bulletin du Service Géologique d’Indochine

Bt: Bacillus thurengiensitalic

CGIAR: Consultative Group for International Agricultural Research (Nhóm Tham vấn về nghiên cứu nông nghiệp quốc tế)

CMS: Cytoplasmic male sterility (bất dục đực)

CMX: Cách mạng xanh

C3: Carbon 3 (sản phẩm có 3 nguyên tử than (C) sản xuất trong chu kỳ quang hợp Calvin cycle)

C4: Carbon 4 (sản phẩm (oxaloacetatemalate) có 4 nguyên tử than (C) sản xuất trong chu kỳ quang hợp Calvin cycle)

CH: Chống hạn

CN: Công Nguyên

CR: Chống rầy

DT: Di truyền

DNA: Deoxyribonucleic acid (cấu chất của gien)

ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng

et al.: Và đồng nghiệp

E.U.: European Union

FAO: Food and Agriculture Organization of the United Nations (Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc).

FAOSTAT: FAO statistics (Thống kê của FAO)

F.O.B.: Free on board

GA3: Giberallic acid 3

GCT: Trạm Giống Cây Trồng

Gien hay gen: Di tử (gene)

GMC: Genetic-modified crop (màu cải biến di truyền)

GMO: Genetic-modified organism (sinh vật cải biến di truyền)

Ha: Hectare (mẫu tây)

Hecta: Hectare

HI: Harvest index (chỉ số thu hoạch)

INGER: International network for genetic evaluation of rice (Mạng lưới quốc tế đánh giá di truyền của cây lúa)

INM: Integrated nutrient managemnt (Quản lý tổng hợp dinh dưỡng)

IPNM: Integrated plant nutrient management (Quản lý tổng hợp dinh dưỡng cây)

IPM: Integrated pest management (Quản lý tổng hợp dịch hại)

IPPC: International Plant Protection Convention, FAO

IPPM: Integratred production and pest management

IRC: International Rice Commission (Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế)

IRRI: International Rice Research Institute (Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế)

ITC: International Trade Center

IWM: Integrated water managemnt (Quản lý tổng hợp nước)

IWdM: Integrated weed management (Quản lý tổng hợp diệt cỏ)

JHAS: Journal of Hongkong Archaeological Society

KCH: Khảo cổ học

KHXH: Khoa Học Xã Hội

LAI: Leaf area index (Chỉ số lá)

LHQ: Liên Hiệp Quốc

MARD: Minisrty of Agriculture and Rural Development

MTL: Miền Tây lúa

NERICA:  New rice for Africa

NN 8: Nông Nghiệp 8

NPHM: Những phát hiện mới

NPHMVKCN: Những phát hiện mới về khảo cổ học, Hà Nội

NXB: Nhà xuất bản

O: Oryza

ODA: Official Development Aid (Viện Trợ Phát Triển Chính Thức)

OECD:  Organization for Economic Cooperation and Development (Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển)

OM: Ô Môn

BP: Before present (01-01-1950)

PGMS: Photoperiodic sensitive genic male sterility (dòng bất dục đực di truyền quang cảm)

QTL: Quantitative trait loci

QTM: Quản lý tổng hợp mùa màng

RD: Rice Department (Cục Lúa gạo ở Thái lan)

RICEINFO: Rice information (Thông tin lúa gạo)

T: tonne (tấn)

t: tome

TCP: Technical cooperation programme (Chương trình hợp tác kỹ thuật, FAO)

TGMS: Temperature-sensitive genic male sterility (dòng bất dục đực di truyền nhiệt cảm)

TN 8: Thần Nông 8

U: Úng thủy

UNESCO: United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Hoc và Văn Hóa Quốc Tế)

UNDP:  United Nations Development Programme

UNICEF: United Nations Children’s Fund (Quỹ Nhi Đồng Quốc Tế)

UNIDO: United Nations Industrial Development Organization (Tổ Chức Phát Triển Công Nghệ Quốc Tế)

URAA: Uruguay Round Agreement on Agriculture

USA: United States of America (Mỹ)

USAID: United States Agency for International Development (Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Mỹ)

VL: Việt lai

WB: World Bank

WRI: World Resources Institute

WTO: World Trade Organization of the Un

 



[1]Phytoliths là những vật vi tế trong một số thảo mộc, gồm họ Hòa thảo, đậu, sắn, cây gỗ…, được cấu tạo bằng chất silica hoặc dưới dạng calcium oxalate không bị hủy hoại với thời gian, nên được dùng trong khảo cổ học để xác định loại thảo mộc và niên đại.

[2] Thông tin được trích và bổ túc theo tài liệu GAP của FAO (www.fao.org), www.eurepgap.orgwww.supera-kvaliteta.com.

 

[3] Phytoliths là những vật vi tế trong một số thảo mộc, gồm họ Hòa thảo, đậu, sắn, cây gỗ…, được cấu tạo bằng chất silica hoặc dưới dạng calcium oxalate không bị hủy hoại với thời gian, nên được dùng trong khảo cổ học để xác định loại thảo mộc và niên đại.

[4] Theo thông tin Tây phương, nôi nông nghiệp lúa của Trung Quốc khoảng 8 000-6 000 năm BP (Bellwood, 2005, Ewen Callaway (Dr. D. Fuller), 2014 ), nhưng theo các chuyên gia Trung Quốc khoảng 11 000-7 000 năm BP.

[5] Nhìn khái quát, nền văn minh lúa nước của một quốc gia phải được thể hiện trong một nền văn hóa tương đối cao với đời sống kinh tế xã hội phồn thịnh, cho nên các nền văn minh lúa nước nổi tiếng trên thế giới chỉ có thể xuất hiện giữa thời đại Kim Khí khoảng 4 000-3 000 năm BP. Theo thiển ý, văn minh lúa nước ở Trung Quốc và Ấn Độ không ngoại lệ.

[6] Cây quang lang (Arenga pinnata, họ Arecaceae) sống ở miền đồi núi, còn gọi là cây báng hay búng báng, đao rừng, dừa rừng… Tổ tiên ta đã từng lấy bột trong thân cây và củ để ăn thay cơm. Ruột thân cây chứa nhiều bột gỡ ra làm bánh ăn ngon. Cuống cụm hoa chứa nhiều nước, ngọt có thể nấu thành đường ăn hoặc cho lên men để chế rượu. Nhân hạt luộc chín ăn ngon. Ðồng bào miền núi cũng thường trồng thêm ở một số nơi để lấy bột ăn thay lương thực khi cần thiết (mỗi cây có thể cho khoảng 100kg bột). Nõn cây bóc vỏ cứng, thái nhỏ, luộc bỏ nước, dùng nấu canh ăn hay xào ăn. (https://www.ydhvn.com/lists/cay-duoc-lieu-cay-bang-bung-bang-doac-quang-lang-dao-rung-arenga-pinnata-wurmb-merr).

 

[7] Với giả thuyết trên, 156 gốc lúa có 768 gié, 46 080 hạt, nặng 1 152gram, được trồng trên 24,76m2 (hay 63 001 gốc/ha = 251x251). Cho nên, năng suất của lúa Cửu Chân là (1 152 : 24,76) x 10 000m2 = 465.267gram hay 465kg/ha.

[8] Căn cứ thông tin năng suất ĐBSH hơn Miền Trung năm 2008 là 16%.

[9]Vào nền văn hóa Đồng Đậu-Gò Mun (3 500-2 800 năm BP), ngành lúa nước đã phát triển mạnh, vượt qua lúa rẫy; cho nên đến đầu CN hay cuối nền văn hóa Đông Sơn (2 800-1 800 năm BP) lúa rẫy chỉ có thể chiếm khoảng 20% diện tích lúa nước của Giao Chỉ.

[10] Bách Việt: Theo sử sách Trung Quốc, vào đời nhà Chu, Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử, rồi sau này tản mác khắp Nam bộ Trung Hoa. Vào thời thượng cổ, Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ tộc sống rải rác như dân tộc thiểu số ngày nay tại các miền thượng du. Đến đời Chu (1046-221 tr CN), những nhóm, bộ lạc này kết hợp thành năm nhóm lớn để trở thành quốc gia: Đông Việt (hay Đông Âu), Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu và Lạc Việt. Sau này 3 nhóm trên bị Hán hóa, chỉ còn trên lịch sử là Tây Âu và Lạc Việt (Phạm Văn Sơn, 1960).

[11]Vào thời vua Minh Mạng, năm 1847, sự kiểm kê đo đạc ruộng đất cho biết có 4 063 892 mẫu ruộng và đất hay 1 463 000 ha; do đó diện tích trồng lúa có thể chiếm ít nhứt 60% hay 878 000 ha.

[12] Đơn vị đo lường của nhà Nguyễn:

Dung lượng:          Phương (vuông, gạt)=30 đấu=30 lít

                                Thùng=20 đấu=20 lít

                                Đấu=2 Bát=1 lít

                                Bát=5 lẻ (?)=0,5 lít

                                Hộc=26 thăng=52 lít

                                Thăng=10 cấp (?)=2 lít

[13]Chiếc phảng vốn là công cụ của dân Khmer, được người Việt cải tiến bằng cách kết hợp với “rựa phát bờ” ở miền Trung, làm cho nó phát huy hiệu lực cao trong làm cỏ dọn ruộng để cấy lúa. Chính nhờ công cụ này  mà việc canh tác loại ruộng sâu đỡ vất vả (Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).

[14]Ở Nam Kỳ, đất mới khai khẩn nên diện tích ruộng lúa chiếm đến 79%, loại cây trồng khác 21% vào năm 1868 (Huỳnh Lứa và các công sự viên, 1987, dựa vào báo cáo của Pháp: Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1868). Hiện nay, Việt Nam có 27,3 triệu ha đất nông nghiệp (lúa, rừng, thủy sản và muối), cây lúa chiếm 4,1 triệu ha đất hay 15% (Tổng cục thống kê, 2017).

[15]Giữa năm 1967, độ 6 tấn  lúa giống IR 8 được cơ quan USAID du nhập từ IRRI để tái canh 300 ha tại Vỏ Đắt, tỉnh Bình Tuy sau vụ bão lụt. IR 8 được đặt tên Thần Nông 8 vào đầu năm 1968 bởi G. S. Tôn Thất Trình khi Ông làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông Miền Nam. Thần Nông là người đầu tiên dạy người dân cách trồng trọt và chăn nuôi vào cuối thiên kỷ III trước CN. 

 

[16] Viện Nghiên Cứu Lúa ĐBSCL, Ô-Môn phổ biến kỹ thuật “3 Giảm 3 Tăng”: giảm lượng giống, giảm phân đạm và giảm thuốc sát trùng để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trồng lúa. Gần đây, các chuyên gia lại phổ biến tiếp theo “1 Phải 5 Giảm”: phải dùng giống lúa xác nhận và giảm nước, thất thoát sau thu hoạch, số lượng giống, phân đạm và thuốc sát trùng.

[17]Tác giả làm việc cho cơ quan FAO, Rome, từ 1982-2004 và đảm nhiệm Thư Ký Điều Hành y Ban Lúa Gạo Quốc Tế (IRC) từ 1993 đến 2004.

[18]  Trong bài này, vẫn dùng đơn vị quen thuộc với người sử dụng máy kéo: 1 HP (ngựa, mã lực) = 0,746 kW.

[19]Năm 1991, tác giả đem lò trấu Việt Nam phổ biến ở Tây Phi Châu (Burkina Faso) và Madagascar trong dự án FAO “Rice thriving”. Sau đó, lò trấu được cải tiến bởi TS. Phan Hữu Hiền, trường Đại Học Nông Lâm TP/HCM - Viện lúa IRRI, Philippines và được phổ biến rộng rãi ở châu Á.

[20]Gondwanaland là siêu lục địa cổ phía nam gồm có những lục địa ngày nay như: châu Phi, Madagascar, Nam Mỹ, châu Úc, bán đảo Ấn Độ và Nam cực. Tên này lấy từ tên vùng Gondwana hay là “đất của bộ tộc Gonds” thuộc tiểu bang Madhya Pradhesh ở phía bắc trung tâm Ấn Độ.

[21]Hạt phấn có một lớp ngoài gọi là sexine do cấu tạo bởi chất sporopollenin với một ít chất đường rất bền bĩ và kháng hầu hết các hư hại từ môi trường. Lớp mặt của sexine lồi lõm và có nhiều tế khổng. Lớp bên trong của hạt phấn gọi là intine cấu tạo bằng chất mộc (cell wall). Giữa hai lớp sexine và intine là lớp endexine. Hạt phấn thường được phân loại dựa vào hình dạng bên ngoài, căn cứ vào 3 tiêu chuẩn: (1) số lượng và vị trí của tế khổng, (2) hình dạng tế khổng và (3) cấu trúc nhỏ trên lớp sexine (Rodriguez, 2007).

[22] Vào năm 1966, USAID có sáng kiến du nhập số lượng lớn lúa giống IR8 từ IRRI ở Philippines vào Việt Nam để trồng, nhưng thỏa hiệp giữa IRRI và chính phủ Philippines không cho phép Viện Nghiên Cứu Lúa này xuất khẩu số lượng lớn dù là lúa giống. Cuộc thương thảo diễn ra khá lâu với sự can thiệp từ bên trong và bên ngoài, cuối cùng chính phủ Marcos phải nhượng bộ và cho phép xuất khẩu 6 tấn lúa giống IR 8 vào Việt Nam giữa năm 1967 để trồng sau nạn lụt xảy ra ở Vỏ Đắt, tỉnh Bình Tuy. Cuộc CMX ở Việt Nam là do từ sáng kiến và đóng góp quan trọng của USAID ở Miền Nam.

[23] Giống lúa IR 8 được đặt tên là Thần Nông bởi Giáo sư Tôn Thất Trình khi ông làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông Miền Nam vào đầu năm 1968 (theo thông tin từ quý Ông Đoàn Minh Quan và TS . Trần Đăng Hồng). Thần Nông là người đầu tiên dạy người dân cách trồng trọt và chăn nuôi vào cuối thiên kỷ IV trước CN. 

[24]Có báo cáo cho rằng lúc bấy giờ hai giống lúa TN 8 và TN 5 bị thay thế bằng các giống TN 20,  TN 22, chủ yếu do hai giống này dễ bị nhiễm sâu bệnh.  Báo cáo như thế không đúng thực tế vì lúc bấy giờ (1971/72) sự phá hại của rầy nâu và bệnh cháy lá chưa quan trọng!  Lý do chính là chất lượng của hai giống này quá kém, làm giá lúa hạ thấp và nông dân bắt đầu phàn nàn. Vào năm 1971-72, Chính phủ Miền Nam phải tuyên bố chánh sách bảo đảm giá lúa tối thiểu (giá sàng) để khuyến khích nông dân tiếp tục trồng lúa TN. Khi lúa TN được liên tục trồng nhiều vụ và áp dụng thuốc sát trùng phòng ngừa nên giết hại nhiều côn trùng thù nghịch thiên nhiên, cây lúa dễ bị rầy nâu và sâu ống tấn công phá hại sau này.

 

This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free